Mã số: 62. 22. 50. 05 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ SỬ HỌC



tải về 110.16 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích110.16 Kb.
#29252
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN BÁCH HIẾU

QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA CỤC DIỆN

CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á TỪ 1991 ĐẾN 2011

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới cận đại và hiện đại

Mã số: 62.22.50.05

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Hà Nội - 2015

Công trình khoa học được hoàn thành tại:

Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn

Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS Phạm Quang Minh

Giới thiệu 1:……………………………………………………

Giới thiệu 2:……………………………………………………

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận án cấp cơ sở, họp tại ………………………………………………………vào hồi:…..giờ, ngày…..tháng…..năm 2015

Có thể tìm hiểu luận án tại:



  • Thư viện Quốc gia Việt Nam

  • Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thế kỷ XX qua đi đánh dấu nhiều sự kiện trọng đại trong quan hệ quốc tế, mà một trong những sự kiện đó là sự ra đời và tan rã của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô) vào năm 1991. Sự sụp đổ của Liên Xô đã tác động không nhỏ đến tương quan lực lượng trên thế giới, đồng thời tạo nên những chuyển biến nhanh chóng trong đời sống quan hệ quốc tế trên phạm vi toàn cầu. Trật tự thế giới hai cực đối đầu tồn tại gần nửa thế kỷ kết thúc, cục diện thế giới và cơ cấu quyền lực quốc tế đã và đang được sắp xếp lại.Quan hệ giữa các quốc gia dân tộc không còn bị chi phối nặng nề bởi ý thức hệ, thay vào đó là lợi ích dân tộc được đặt lên hàng đầu trong quan hệ quốc tế. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập đã và đang chuyển sang hướng có lợi cho Mỹ và phương Tây.Trong bối cảnh nhiều biến động ấy, Đông Á hiện hữu trên bàn cờ chính trị quốc tế với nhiều bình diện khác nhau. Đông Á hiện nay được các chuyên gia đánh giá là một khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới trong suốt ba thập kỷ qua với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn tốc độ trung bình của các khu vực khác trong nền kinh tế thế giới. Đông Á cũng là khu vực có lãnh thổ rộng lớn, dân số đông và tài nguyên giàu có. Các quốc gia trong khu vực này đang ở trong những giai đoạn khác nhau của sự phát triển kinh tế cùng với những nét đa dạng trong hệ thống chính trị, các đặc trưng dân tộc và truyền thống văn hóa.

Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, một bộ phận quan trọng của khu vực Đông Á. Do vậy, tình hình phát triển của khu vực này có ảnh hưởng rất lớn đối với Việt Nam hiện nay và trong tương lai. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, Đảng ta đã nhiều lần nhận định về tình hình khu vực Đông Á nói riêng, khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói chung, đặc biệt là về tình hình chính trị, bởi vì có ổn định chính trị thì mới đảm bảo an ninh khu vực, từ đó mới có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội trong khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng. Đảng và Nhà nước ta cũng đã đề ra mục tiêu tới năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Vậy Quá trình vận động của cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011 có những đặc điểm gì nổi bật? Cục diện chính trị khu vực này hiện nay và trong tương lai sẽ diễn biến ra sao?; Tương quan, cơ cấu quyền lực và luật chơi giữa các chủ thể quốc gia và phi quốc gia tại khu vực này là như thế nào? Những tác động của cục diện chính trị đó đối với Việt Nam ra sao? Nhận thức của nước ta hiện nay về vấn đề này như thế nào? là những câu hỏi cần được giải đáp. Chính vì lẽ đó, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài Quá trình vận động của Cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011làm luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử thế giới cận hiện đại của mình để cố gắng góp phần làm sáng tỏ những vấn đề trên.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án


Mục đích chính của luận án là phân tích quá trình vận động của cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011 từ góc độ lịch sử kết hợp với chính trị quốc tế, từ đó rút ra được những đặc điểm, đánh giá tác động của cục diện đối với khu vực và Việt Nam.

Để hoànthành mục tiêu trên, luận án sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

- Đánh giá tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các tác giả trong và ngoài nước.

- Luận giải khái niệm cục diện, cục diện chính trị khu vực, các thành tố cấu thành và tác động thay đổi cục diện chính trị khu vực.

- Phân tích, cấu trúc, nguyên nhân, diễn biến, vai trò của các chủ thể trong quá trình phát triển của cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011 với hai giai đoạn từ 1991 đến 2001 và từ 2001 đến 2011.

- Nhận xét cục diện chính trị Đông Á theo hai giai đoạn từ 1991 đến 2001 và 2001 đến 2011, đưa ra một số nhận định về cục diện chính trị khu vực Đông Á giai đoạn sau 2011, từ đó, đưa ra những khuyến nghị cho Việt Nam trước quá trình vận động của cục diện chính trị khu vực Đông Á.


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu: Quá trình vận động của cục diện chính trị khu vực Đông Á

Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi không gian: Khu vực Đông Á, bao gồm những quốc gia Đông Bắc Á và Đông Nam Á.



Về giới hạn thời gian: Từ 1991 đến 2011.

4. Phương pháp nghiên cứu


Để hoàn thành luận án, phương pháp nghiên cứu chủ yếu mà Nghiên cứu sinh đã sử dụng là phương pháp lịch sử. Ngoài ra, luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng một cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu giữa phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh… Đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu quốc tế như phân tích quyền lực chính trị, phân tích trường hợp điển hình (case study), phương pháp hệ thống – cấu trúc. Cuối cùng, luận án còn sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia.

5. Đóng góp của luận án


Dựa vào nguồn tài liệu chính thống trong nước và các nghiên cứu quốc tế, luận án góp phần luận giải và làm sáng tỏ thêm Quá trình vận động của Cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011. Qua đó, có thể thấy được nguyên nhân, diễn biến, thay đổi trong chính trị Đông Á và tác động của nó đối với khu vực và thế giới trong những trung tâm quyền lực của trật tự thế giới mới. Ngoài ra, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc học tập của sinh viên, học viên chuyên ngành lịch sử thế giới, quan hệ quốc tế, chính trị học, là tài liệu chuyên khảo cho những người quan tâm đến các vấn đề lịch sử quan hệ quốc tế, tìm hiểu tình hình khu vực Đông Á, cục diện chính trị Đông Á.

6. Kết cấu luận án


Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC ĐÔNG Á TỪ 1991 ĐẾN 2001

Chương 3. CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á TỪ 2001 ĐẾN 2011

Chương 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á TỪ 1991 ĐẾN 2011 VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu trong nước

Thứ nhất là nhóm các công trình nghiên cứu về cục diện, trật tự khu vực Đông Á: “Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh: Phân tích và dự báo” (tập 2), do Lại Văn Toàn chủ biên, xuất bản năm 2001; Cuốn sách “Cục diện châu Á – Thái Bình Dương” của tác giả Dương Phú Hiệp và Vũ Văn Hà, xuất bản năm 2006;“Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau Chiến tranh lạnh” do tác giả Trần Anh Phương chủ biên, xuất bản năm 2007; Tập kỷ yếu “An ninh châu Á - Thái Bình Dương những năm đầu thế kỷ XXI” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh biên tập năm 2008; Bản báo cáo tổng hợp “Sự biến động địa chính trị Đông Á hai thập niên đầu thế kỷ XXI: Những vấn đề đặt ra và đối sách của Việt Nam” do PGS.TSKH. Trần Khánh (Chủ nhiệm) cùng các đồng nghiệp chấp bút, in năm 2010; Cuốn sách “Cục diện thế giới đến 2020” do Phạm Bình Minh chủ biên, xuất bản năm 2010.

Thứ hai là nhóm các công trình nghiên cứu quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực Đông Á nói riêng: cuốn “Quan hệ quốc tế từ 1945 đến 1995” xuất bản năm 1998, tác giả Hoàng Văn Hiển và Nguyễn Viết Thảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia; cuốn sách “Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương”, tác giả Vũ Dương Huân; cuốn sách “Quan hệ Trung Quốc – ASEAN – Nhật Bản trong bối cảnh mới và tác động của nó tới Việt Nam” của tác giả Vũ Văn Hà chủ biên, xuất bản năm 2007.

Thứ ba là nhóm các công trình nghiên cứu chính sách đối ngoại của các quốc gia trong khu vực Đông Á: cuốn sách “Quan điểm của Nhật Bản về liên kết Đông Á trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế” xuất bản năm 2007,tác giả Trần Quang Minh; cuốn sách “Châu Á – Thái Bình Dương trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc”, tác giả Ngô Xuân Bình, xuất bản năm 2008; cuốn sách “Cạnh tranh chiến lược ở khu vực Đông Nam Á giữa một số nước lớn hiện nay”, do Nguyễn Hoàng Giáp làm chủ biên, xuất bản năm 2013; Cuốn sách “Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới”, do Phạm Bình Minh chủ biên, xuất bản năm 2011.

1.2. Những công trình nghiên cứu ngoài nước

Thứ nhất, về các công trình nghiên cứu lý thuyết quan hệ quốc tế: công trình “Neoclassical Realism and Theories of Foreign Policy” (Chủ nghĩa hiện thực tân cổ điển và các lý thuyết về chính sách đối ngoại), tác giả Gideon Rose xuất bản năm 1998 trên tạp chí World Politics (Chính trị thế giới), Vol.51, No.1 (Oct); công trình “Institutional Balancing and International Relations Theory: Economic Interdependence and Balance of Power Strategies in Southeast Asia” (Cân bằng thể chế và lý thuyết quan hệ quốc tế: sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế và các chiến lược cân bằng quyền lực tại Đông Nam Á), tác giả Kai He xuất bản năm 2008 trên tạp chí European Journal of International Relations (Tạp chí châu Âu về Quan hệ quốc tế), Vol.14, No.3;…

Thứ hai là các công trình nghiên cứu tiêu biểu phân tích vị thế chính trị của các quốc gia trong khu vực Đông Á. Các công trình quan trọng trong nhóm này gồm: bài viết Japan in Asia (Nhật Bản trong lòng châu Á) của tác giả Green Michael trong cuốn sách International Relations of Asia(Quan hệ quốc tế của châu Á); “The flying geese model of Asian Economic development: origin, theoretical extensions, and regional policy implications” (Mô hình đàn ngỗng bay của sự phát triển kinh tế châu Á: nguồn gốc, lý thuyết và hàm ý chính sách trong khu vực) trên tạp chí Journal of Asian Economics (Tạp chí Kinh tế châu Á), số 11; bài viết “Japan’s Changing Civil – Military Relations: From Containment to Re – engagement” (Thay đổi quan hệ dân sự - quân sự của Nhật Bản: từ ngăn chặn đến tái tham gia) của Takako Hikotani trên tạp chí Global Asia, Vol.4, No.1;…

Thứ ba là về các công trình nghiên cứu tiêu biểu về quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực Đông Á: Công trình nghiên cứu tiêu biểu đầu tiên có thể kể tới là của hai tác giả G. John Inkenberry và Tsuchiyama với bài viết “Between Balance of Power and Community: The Future of Multilateral Security Co-operation in the Asia – Pacific” (Giữa cân bằng quyền lực và cộng đồng: Tương lai hợp tác an ninh đa phương ở châu Á – Thái Bình Dương) xuất bản năm 2002 trên tạp chí International Relations of the Asia Pacific, Vol.2; Hugh White vào năm 2011 đã có bài phân tích “Power Shift: Rethinking Australia’s Place in the Asian Century” (Chuyển dịch quyền lực: tái xác định vị trí của Úc trong thế kỷ châu Á) trên tạp chí Australia Journal of International Affairs, 65:1; bài phân tích ra đời năm 2013 của mình với tên gọi“China – US relations in East Asia: Strategic rivalry and Korea’s choice (Quan hệ Trung Quốc – Mỹ ở Đông Á: Sự cạnh tranh chiến lược và sự lựa chọn của Hàn Quốc), tác giả Jea – kyung Park;…

1.3. Một số đánh giá

Nhìn chung, tuy có khác nhau về quy mô công trình, phạm vi nghiên cứu, nhưng các tác giả trong và ngoài nước đều thống nhất ở những điểm sau:



Thứ nhất, khu vực Đông Á ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của thế giới thời kỳ sau Chiến tranh lạnh.

Thứ hai, xuất phát từ đặc điểm trên, các nước lớn trong khu vực đều điều chỉnh chính sách khu vực của mình, nhằm mở rộng ảnh hưởng, giành lấy vai trò chi phối khu vực, làm thay đổi cục diện khu vực.

Kế thừa những kết quả nghiên cứu về cục diện chính trị Đông Á đã có và phát triển nghiên cứu về Đông Á theo hướng mới, luận án sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:



Một là: Tìm hiểu, phân tích quá trình hình thành và phát triển cục diện chính trị Đông Á trước năm 1991

Hai là: Hệ thống lại quá trình hình thành và phát triển của cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011, trong đó tập trung phân tích vai trò của các nước lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga; các nước vừa và nhỏ, chủ yếu thông qua hoạt động của các tổ chức khu vực và các diễn đàn đa phương như ASEAN, ARF, APEC và vai trò của các tổ chức phi chính phủ, các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia. Đồng thời phân tích, đánh giá vai trò của các yếu tố bên ngoài, đặc biệt là Mỹ đối với cục diện chính trị khu vực Đông Á.

Ba là: Rút ra một số đặc trưng về cục diện chính trị Đông Á hiện nay và đưa ra những khuyến nghị cho Việt Nam trước quá trình vận động của cục diện chính trị khu vực Đông Á.
Chương 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VÀ CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á TỪ 1991 ĐẾN 2001
2.1. Một số vấn đề lý luận

2.1.1. Khái niệm cục diện chính trị khu vực

Cục diện là là thuật ngữ có xuất xứ từ Trung Quốc, là bố cục, diện mạo, tình hình cụ thể thể hiện trật tự, sự phân bổ quyền lực trong một giai đoạn nhất định, trong cục diện đó (cục diện thế giới, cục diện khu vực), các nước lớn và các tổ chức đa phương giữ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng.

“Cục diện chính trị khu vực” là kết cấu các quan hệ chính trị quốc tế, các nền chính trị quốc gia, tương đối ổn định và có ảnh hưởng lớn đến khu vực trong quá trình phát triển, phân hoá, sáp nhập của các lực lượng kinh tế, chính trị, quân sự trong khu vực.

2.1.2. Các thành tố cấu thành cục diện chính trị Đông Á

Cục diện chính trị luôn tác động trở lại cục diện kinh tế của khu vực và ngược lại. Và nó được tạo nên bởi sự kết hợp vị trí vai trò của quốc gia, các cơ chế đa phương, các chủ thể phi quốc gia như các công ty xuyên quốc gia, các tổ chức phi chính phủ trong khu vực.



2.2. Cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2001

2.2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

2.2.1.1. Bối cảnh quốc tế

2.2.1.2. Bối cảnh khu vực

Bối cảnh khu vực có những đặc điểm chủ yếu sau:Thứ nhất, cuộc khủng hoảng tên lửa trên bán đảo Triều Tiên; Thứ hai, cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997 – 1998; Thứ ba, bất chấp sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, nằm ngoài sự ảnh hưởng của cuộc Khủng hoảng tài chính châu Á (1997 – 1998), Trung Quốc sau cuộc cải cách 1979 đã cho thấy sự trỗi dậy cực kỳ mạnh mẽ về kinh tế, chính trị.



2.2.2. Những nhân tố chính trong quá trình hình thành và phát triển của Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 1991-2001

2.2.2.1. Hoa Kỳ

Chiến lược mới của Mỹ trong khu vực Đông Á là thiết lập một khu vực ảnh hưởng mở rộng theo “trục và nan hoa”, với Mỹ là trung tâm, sự vận động của các chủ thể khác đều xoay quanh Mỹ và bị Mỹ chi phối.Trong quan hệ với Trung Quốc, Mỹ đã cải thiện mối quan hệ giữa hai nước bằng việc không gợi lại những kí ức về thảm kịch Thiên An Môn (1989) và tăng cường các quan hệ thương mại với Trung Quốc. Trong các đồng minh của Mỹ ở khu vực Đông Á, Nhật Bản được Mỹ hết sức coi trọng bởi đây là con bài chiến lược trong tham vọng của Mỹ tại Đông Á.Trong quan hệ với Nga, nhận thấy sức mạnh của Nga không còn đủ để đối đầu như thời Chiến tranh lạnh nhưng Nga vẫn là một quốc gia có sức mạnh quân sự không thua kém gì Mỹ.

2.2.2.2. Trung Quốc

Trong quan hệ quốc tế, Trung Quốc thi hành chính sách đối ngoại chủ động, bình thường hoá quan hệ với các quốc gia, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, góp phần tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế, từ đó nâng cao địa vị và quyền lực của Trung Quốc trên trường quốc tế. Trong suốt thập kỷ 1990, quan hệ Trung – Mỹ từ chỗ bất đồng gay gắt đã được cải thiện và có sự phát triển liên tục và nhanh chóng nhờ những nỗ lực từ phía Trung Quốc. Nhờ đó, Trung Quốc đã tạo dựng được hình ảnh và vị thế của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới. Trục tam giác kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương được hình thành với Mỹ - Nhật Bản – Trung Quốc.Song, bên cạnh những hình ảnh thể hiện khá thân thiện với khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc cũng có những động thái thiếu tích cực với khu vực này giai đoạn này



2.2.2.3. Nhật Bản

Thực tế trên con đường thành công của Nhật Bản không thể không nhắc tới Mỹ - từng là kẻ thù trong Chiến tranh thế giới thứ hai nhưng cũng mau chóng trở thành cứu tinh của Nhật Bản sau đó.Nhật Bản chú trọng tăng cường mối quan hệ kinh tế với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.Bên cạnh việc phát triển mối quan hệ với các nước Đông Nam Á, Nhật Bản cũng chú ý tới quan hệ với các nước láng giềng xung quanh, các nước công nghiệp mới (NICs).



2.2.2.4. Nga

Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mặc dù cùng đứng trong hàng ngũ các nước xã hội chủ nghĩa nhưng cả Nga và Trung Quốc thường mâu thuẫn nhau gay gắt trong các vấn đề tranh chấp biên giới và đã từng xảy ra xung đột vũ trang.Bên cạnh mối quan hệ với Trung Quốc, Nga cũng ý thức được mối quan hệ với Nhật Bản.



2.2.2.5. Các cơ chế đa phương

Chương 3

CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á TỪ 2001 ĐẾN 2011
3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

3.1.2. Bối cảnh khu vực

Về kinh tế, toàn cầu hoá kinh tế mang lại cho nền kinh tế châu Á nói chung và Đông Á nói riêng những kết quả rất tích cực.Về quân sự, toàn cầu hoá đang kéo theo những hệ luỵ là các quốc gia Đông Á không ngừng nâng cao và hiện đại hoá lực lượng quân sự để đảm bảo an toàn trước các mối lo ngại an ninh truyền thống và phi truyền thống.Về chính trị, mặc dù những mâu thuẫn về ý thức hệ đã không còn sâu sắc như hồi Chiến tranh lạnh, nhưng Đông Á hiện nay vẫn tồn tại nhiều thể chế chính trị theo hai hình thái cũ trong Chiến tranh lạnh là các nước xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên) và các nước tư bản (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Malaysia…). Về văn hoá, Đông Á là nơi giao lưu của nhiều nền văn hoá, văn minh trong quá khứ, do đó ở đây tồn tại nhiều nền văn hoá khác nhau.



3.2. Những nhân tố chính trong quá trình hình thành và phát triển của Cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 2001 – 2011

3.2.1. Hoa Kỳ

Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có ảnh hưởng toàn cầu và do đó, Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có vị thế lớn nhất ở Đông Á. Vẫn theo mô thức cũ, vị thế của Mỹ ở Đông Á được tạo nên bởi các mối cố kết về quân sự, kinh tế, chính trị với các đồng minh của Mỹ và các nước có quan hệ ngoại giao với Mỹ trong khu vực.Mặc dù vậy, vai trò của Mỹ trong khu vực đã có sự suy giảm nghiêm trọng. Sau vụ khủng bố 11 tháng 9. Hai nhiệm kỳ cầm quyền của Tổng thống G. W. Bush không cho thấy được nhiều nét nổi bật trong quan hệ quốc tế tại Đông Á. Ưu tiên của Mỹ tại Đông Á vẫn là thắt chặt mối quan hệ giữa Mỹ và các đồng minh của Mỹ trong khu vực. Tuy nhiên, trước những biến động chính trị khu vực, các mối liên minh này ngày càng có những rạn nứt, sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ tại Đông Á ngày càng bị giảm sút. Năm 2009, Barack Obama lên làm Tổng thống, nước Mỹ có những thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại bằng việc “xoay trục” sang châu Á. Obama mặc dù có những lời lẽ khá mềm dẻo đối với Trung Quốc nhưng bản thân ông ta đã chuẩn bị cho những chuyển biến mới trong quan hệ Mỹ - Trung mà sự hợp tác là quan trọng, nhưng ngăn chặn Trung Quốc là chủ chốt. Đối với khu vực Đông Nam Á, Mỹ vẫn là quốc gia nằm ngoài khu vực nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất.



3.2.2. Trung Quốc

Trung Quốc đã phát triển chính sách đối ngoại của mình theo hướng mà Bắc Kinh cho là ôn hoà dựa trên nền tảng “ngoại giao nước lớn là then chốt; ngoại giao láng giềng là quan trọng hàng đầu; ngoại giao với các nước đang phát triển là quan trọng”. Trong cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 2001 – 2011, Trung Quốc dường như đang chú trọng tới ngoại giao nước lớn và ngoại giao láng giềng. Trong quan hệ với Mỹ, đây là chiến lược ngoại giao nước lớn của Trung Quốc. Trung Quốc được lợi từ mối quan hệ tương đối hoà bình với Mỹ. Ý đồ đưa Trung Quốc vào các định chế quốc tế nhằm kìm hãm Trung Quốc của Mỹ đang phản tác dụng. Trung Quốc đang ngày càng có quyền lực hơn trong hệ thống quốc tế trên phương diện kinh tế và chính trị. Trong quan hệ với Nga, Trung Quốc đặc biệt coi trọng mối quan hệ này. Quan hệ đối tác Trung – Nga mang tính chính sách được xây dựng trên cơ sở bình đẳng và toàn diện, đáp ứng lợi ích trước mắt và lâu dài của mỗi nước.



3.2.3. Nhật Bản

Bước sang thế kỷ XXI, sự trì trệ và suy thoái kinh tế của Nhật Bản diễn ra đồng thời với sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc và một số nước lớn khác, đe dọa làm xói mòn vị thế dẫn đầu trong nền kinh tế châu Á của Nhật Bản.Về kinh tế, do nguyên nhân kinh tế suy thoái kéo dài, đồng thời do sự trỗi dậy nhanh chóng của các nước lớn khác, nhất là Trung Quốc, Ấn Độ, Brazin và gần đây là Nga đã làm cho tỷ lệ GDP của Nhật Bản so với thế giới giảm nhanh. Về chính trị - ngoại giao và an ninh, sau sự kiện chủ nghĩa khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 11/9/2001, chính sách ngoại giao và an ninh của Nhật Bản được điều chỉnh theo chiều hướng củng cố tiềm lực quốc phòng và nâng cao vai trò chính trị của mình trên trường quốc tế.



3.2.4. Nga

Về kinh tế, với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt khoảng 6,5% tính từ năm 2000 – 2008 đã đưa nước Nga đến cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI trở thành một trong số 10 cường quốc có GDP lớn nhất thế giới. Về quân sự, sau khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga với tư cách là nhà nước kế thừa Liên Xô cũ đã tiếp quản hầu hết tiềm lực quân sự của Liên Xô, nhất là kho vũ khí hạt nhân. Sự phục hồi về mọi mặt của nước Nga, nhất là về kinh tế bắt đầu từ thời tổng thống Putin lên nắm quyền vào năm 2000 đã tạo điều kiện thuận lợi để Nga tiếp tục củng cố và phát triển sức mạnh quân sự của mình. Về chính trị - ngoại giao, cùng với sự phục hồi về kinh tế, tiềm lực quốc phòng, chính sách đối ngoại của Nga cũng dần lấy lại cân bằng và thể hiện được vị thế của nước lớn.



3.2.5. Các cơ chế đa phương

3.2.5.1. ASEAN

Một học giả Trung Quốc đã nhận xét rằng: “Sau Chiến tranh lạnh, ASEAN đã nổi lên như một lực lượng thống nhất mới đầy sức sống trên vũ đài chính trị châu Á - Thái Bình Dương, tạo thành cục diện đặc thù 5 cực, vừa giữ thế cân bằng, vừa xung đột lẫn nhau ở châu Á - Thái Bình Dương, tạo ra những quan hệ phức tạp nhiều mâu thuẫn đan xen”. Đương nhiên việc ASEAN được coi là một cực như đánh giá còn gây nhiều tranh cãi, song một điều hoàn toàn có thể khẳng định được, đó là vai trò và vị thế của nhóm nước này đang ngày càng được chú trọng và tăng cường trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ASEAN đang góp phần tạo dựng nên cục diện chính trị tại đây.



3.2.5.2 ARF

Từ 18 thành viên ban đầu, đến nay số lượng thành viên ARF đã lên tới 27 quốc gia. Có lẽ trong số các tổ chức khu vực hiện nay, ARF là tổ chức duy nhất có sự tham gia của hầu hết các cường quốc như Mỹ, EU, Nhật Bản, Liên bang Nga, Trung Quốc và Ấn Độ… ARF đã tạo được sự hấp dẫn, sự quan tâm của các nước, kể cả các nước lớn.

Chính nhờ sự chèo lái khôn khéo của ASEAN, ARF đã vượt qua được những khó khăn ban đầu và ngày càng khẳng định được vai trò không thể thiếu của nó đối với hòa bình và an ninh khu vực. Vì thế, có lẽ là tất cả các nước thành viên khác hoan nghênh hơn là thách thức vai trò lãnh đạo này.

3.2.5.3. APEC

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, với nhiều thách thức mới nảy sinh như sự gia tăng của chủ nghĩa khủng bố, thị trường chứng khoán thế giới có nhiều bất ổn, APEC đã đưa ra một chương trình hợp tác mới nhằm tiếp tục duy trì và thúc đẩy những mục tiêu đặt ra của mình. Những chương trình này được thể hiện rất rõ trong các kế hoạch hành động, các sáng kiến và tuyên bố của các nhà lãnh đạo như: kế hoạch hành động về thuận lợi hóa thương mại APEC; tuyên bố APEC về thực hiện các tiêu chuẩn minh bạch hóa; tuyên bố thực hiện chính sách APEC về thương mại và kinh tế kỹ thuật số; tuyên bố APEC về đảm bảo an ninh thương mại… Trong đó, APEC đã tiến hành rất nhiều hoạt động hợp tác xoay quanh ba trụ cột chính là: Tự do hóa thương mại và đầu tư; thuận lợi hóa kinh doanh; hợp tác kinh tế kỹ thuật. APEC đang mang lại một chiến lược khả thi trong thương mại và ngoại giao kinh tế ở Đông Á và Thái Bình Dương. Các chính sách tự do hóa và cải cách của APEC, được tổ chức xung quanh nguyên tắc chủ nghĩa khu vực mở (một chiến lược thích hợp cho sự phát triển, các mục tiêu và sự đa dạng của khu vực châu Á – Thái Bình Dương) đã giúp APEC tạo lập một thành tích ấn tượng trong 20 năm đầu tiên.



3.2.5.4. ASEAN + 1, ASEAN +3 và EAS

Có thể thấy cấu trúc khu vực Đông Á đã phát triển đáng kể trong hai thập kỷ vừa qua, đại diện bởi một loạt các tổ chức bên cạnh ASEAN, ARF, APEC có thể kể đến ASEAN + 1, ASEAN + 3, và Hội nghị cấp cao Đông Á (EAS). Những sắp xếp này rất khác so với các khu vực khác. Điểm đầu tiên, chúng nhấn mạnh vào đối thoại không chính thức và xây dựng niềm tin qua các thỏa thuận chính thức (như phong cách ASEAN). Thứ hai, tất cả đều được thúc đẩy bởi trọng tâm là ASEAN, nhưng có sự chồng chéo đáng kể, thể hiện các quan điểm khác biệt về thành viên của một cộng đồng Đông Á. Thứ ba, chúng tập trung chủ yếu vào tự do thương mại, kinh tế và những vấn đề phát triển khác. Tuy nhiên, gần đây các tổ chức này cũng bắt đầu theo hướng trao đổi rộng hơn những vấn đề khu vực cũng như các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.




Chương 4

MỘT SỐ NHẬN XÉT CỤC DIỆN CHÍNH TRỊ ĐÔNG Á

TỪ 1991 ĐẾN 2011 VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
4.1. Nhận xét cục diện chính trị khu vực Đông Á giai đoạn 1991-2001

Nghiên cứu cục diện chính trị khu vực Đông Á cho thấy Đông Á mang theo nó những đặc trưng riêng biệt của một khu vực có cục diện chính trị phức tạp: 1. Đông Á là nơi tập trung, đan xen lợi ích của các nước lớn, có vai trò, ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong chính trị thế giới hiện nay như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga; 2. Là nơi mà yếu tố lịch sử, hồi ức đóng vai trò chi phối quan hệ giữa các chủ thể sâu sắc, đặc biệt là mối quan hệ giữa hai cường quốc hàng đầu khu vực, thế giới Trung Quốc và Nhật Bản, tác động và làm thay đổi ít nhiều quan hệ chính trị quốc tế ở khu vực; 3. Đông Á cũng là khu vực thiếu truyền thống hợp tác đa phương, cũng bởi phần lớn các quốc gia đều giành độc lập từ các nước thực dân sau Chiến tranh thế giới thứ II nên niềm tin giữa các quốc gia, đặc biệt đối với các nước lớn trong việc xây dựng một cơ chế hợp tác đa phương mạnh mẽ trong việc giải quyết các vấn đề khu vực cũng chưa thực sự mạnh mẽ; 4. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa Nhật Bản và Trung Quốc quá mạnh mẽ, khó có thể hòa hợp, vượt qua gánh nặng quá khứ cũng đang tạo ra một thế cục thiếu một chủ thể dẫn đầu khu vực một cách toàn diện; 5. Các nước vừa và nhỏ thông qua cơ chế đa phương như ASEAN ngày càng có cơ hội, điều kiện để đóng vai trò nòng cột, trung tâm, động lực phát triển quan hệ quốc tế trong khu vực; 6. Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng trong việc định hình cục diện chính trị Đông Á.



4.1.1. Sự áp đặt vị trí siêu cường số một của Mỹ

4.1.2. Sự trỗi dậy của Trung Quốc

4.1.3. Nhật Bản và công cụ ngoại giao kinh tế

4.2.4. Liên Xô sụp đổ, Nga kế thừa và phục hồi

4.2. Nhận xét cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 2001-2011

Bước sang thế kỷ XXI, một loạt những sự kiện quan trọng đã diễn ra và tác động sâu sắc đến cục diện chính trị quốc tế và khu vực. Sự kiện lực lượng khủng bố Al-Qaeda tấn công tòa tháp đôi trung tâm thương mại thế giới ở New York ngày 11/9/2001 đã làm “rung chuyển thế giới”. Sự kiện này đánh dấu cho một sự chuyển hướng chiến lược của Mỹ trong vấn đề an ninh, đối ngoại trên toàn cầu. Sau vụ khủng bố 11/9, hàng loạt những sự kiện quan trọng khác đã diễn ra trong suốt thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XXI như 2 cuộc chiến tranh của Mỹ tại Afghanistan và Iraq, vấn đề an ninh năng lượng, khủng hoảng kinh tế thế giới,…Chính vào lúc này, các chủ thể quyền lực ở khu vực Đông Á đã có những sự thay đổi, tạo ra một cục diện mới ở khu vực với những vai trò và vị thế mới.

Những biển đổi mạnh mẽ của quan hệ quốc tế Đông Á những năm đầu thế kỷ 21 đã cho thấy cục diện chính trị khu vực vẫn đang trong giai đoạn định hình và xác lập lại vị thế của các chủ thể.

4.2.1. Về sức mạnh của Mỹ

4.2.2. Sự trỗi dậy ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc

4.2.3. Hình ảnh của Nhật Bản

4.2.4. Sức mạnh mới của nước Nga

4.3. Một số nhận định về cục diện chính trị Đông Á giai đoạn sau 2011

4.3.1. Sự tiếp tục vai trò chủ đạo của Mỹ.

4.3.2. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và những thách thức đối với Mỹ

4.3.3. Cục diện khu vực vẫn còn nhiều yếu tố bất ổn

4.4. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Một là cần có nhận thức đúng đắn về cục diện chính trị khu vực và thế giới. Hai là, Việt Nam cần khai thác một cách có hiệu quả lợi thế địa chính trị của mình nhằm tạo ra được nhiều cơ hội để phát triển đất nước, cũng như nâng cao được vị thế của quốc gia trong khu vực và thế giới. Ba là, Việt Nam cần theo đuổi chính sách “cân bằng chiến lược” giữa các nước lớn.



KẾT LUẬN

Nghiên cứu “Quá trình vận động của cục diện chính trị Đông Á từ 1991 đến 2011” đã đưa ra một số kết luận chủ yếu sau đây:

1. “Cục diện” là bố cục, diện mạo thường đi cùng với từ chính trị, thế giới, khu vực, là tình hình cụ thể thể hiện trật tự, sự phân bố quyền lực trong một giai đoạn nhất định. Trong cục diện đó (cục diện thế giới, cục diện khu vực), các nước lớn, các tổ chức đa phương giữ vị trí, vai trò vô cùng quan trọng.

“Cục diện chính trị khu vực” là kết cấu các quan hệ chính trị quốc tế, các nền chính trị quốc gia, quyền lực của các chủ thể chính trị thế giới, tương đối ổn định và có ảnh hưởng lớn đến khu vực trong quá trình phát triển, phân hoá, sáp nhập của các lực lượng kinh tế, chính trị, quân sự trong khu vực. Đồng thời, cục diện chính trị luôn tác động trở lại cục diện kinh tế của khu vực và ngược lại. Có thể chỉ ra một số yếu tố cơ bản của cục diện chính trị như: đó là các nền chính trị, các hệ thống nhà nước, các đảng cầm quyền và các quyết sách của họ, các lực lượng chính trị đối lập… Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu cục diện này.

Sự cấu thành cục diện chính trị của một khu vực bao gồm những nhân tố, xu hướng như: 1/ Sự đấu tranh của các chủ thể chủ yếu trên trường quốc tế. 2/ Sự thay đổi của cán cân quyền lực thế giới. 3/ Các xu thế chủ yếu của thế giới đương đại. 4/ Cách mạng khoa học kỹ thuật và tác động của toàn cầu hóa. Đồng thời, cục diện chính trị khu vực được tạo nên bởi sự kết hợp vị trí, vai trò của các chủ thể quốc gia, các cơ chế đa phương, các chủ thể phi quốc gia như các tổ chức phi chính phủ, các công ty xuyên quốc gia trong khu vực. Trong đó, các chủ thể quốc gia, đặc biệt là các nước lớn, sẽ là thành tố chính, có tác động trực tiếp và rộng lớn nhất tới cục diện chính trị khu vực.

2. Cục diện chính trị khu vực Đông Á từ 1991 đến 2011 được chia thành hai giai đoạn chính:



Giai đoạn thứ nhất (1991 đến 2001): Giai đoạn này bắt đầu sau khi Liên Xô chính thức sụp đổ vào năm 1991, đánh dấu cho sự chấm dứt của “Chiến tranh lạnh” và trật tự thế giới hai cực. Sự kiện Liên Xô sụp đổ là một dấu mốc quan trọng đối với lịch sử chính trị thế giới. Tại châu Á, và cụ thể là Đông Á, cục diện chính trị cũng có sự thay đổi đáng kể từ sau Chiến tranh lạnh dưới tác động của các chủ thể trong khu vực, đó là các quốc gia nắm giữ các vai trò quan trọng, sự phát triển và ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs, MNCs) và các tổ chức phi chính phủ (NGOs), và sự nổi lên của các cơ chế đa phương. Nhìn vào cục diện chính trị Đông Á giai đoạn 1991 – 2001, các quốc gia vẫn là các chủ thể có vai trò chính yếu và lớn nhất, các cơ chế đa phương, các chủ thể phi quốc gia có vai trò hạn chế hoặc rất mờ nhạt.

Giai đoạn thứ hai (2001 đến 2011): Nhìn tổng quát lại, cục diện chính trị khu vực Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI đã hiện lên với nhiều sắc diện. Đó là sự phân bổ quyền lực của các chủ thể quan hệ quốc tế ở Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI. Trong đó, các nước lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và Mỹ cùng các cơ chế đa phương như ASEAN, ARF, APEC đã trở thành các quân cờ chủ yếu trên bàn cờ chính trị Đông Á. Mỗi bước đi của mỗi quân cờ đều có tác động tới cả ván cờ dù ít, dù nhiều. Có những quân cờ có nhiều hướng đi (tiến, lùi, ngang, dọc, chéo) và có những quân cờ chỉ có một ít hướng đi; có những quân cờ tuy thực lực nhỏ bé hơn nhiều so với các quân cờ khác nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ thế cục của cả ván cờ chính trị. Sự khẳng định vị trí, vai trò tối cao của các chủ thể trong cục diện chính trị Đông Á đồng nghĩa với sự chiến thắng của một loại quân cờ nào đó. Trong cục diện đó, các nước lớn được coi là những chủ thể chính bên cạnh các tổ chức đa phương, các chủ thể phi quốc gia. Sự thay đổi chính sách của một nước lớn nào đó sẽ đều tác động trở lại các chủ thể còn lại. Trật tự cũ vẫn chưa biến mất, trật tự mới vẫn chưa định hình, ván cờ chính trị Đông Á vẫn chưa ngã ngũ. Những thay đổi lớn trong chính sách đối nội và đối ngoại trong những năm gần đây của các nước như Nga, Trung Quốc, Nhật Bản trong khu vực Đông Á đã tạo nên cục diện chính trị đặc trưng cho khu vực Đông Á… theo đó, vai trò của Đông Á ngày càng nổi bật, là những minh chứng tiêu biểu cho những điều chỉnh lớn này.

Một đặc trưng mang tính nguyên lý trong diễn tiến hiện tại của cục diện chính trị khu vực Đông Á là sự tranh giành quyền lực giữa các nước lớn thường gây ra những áp lực đối với những nước nhỏ, trong đó có Việt Nam. Khác chăng so với thời Chiến tranh lạnh là sự co kéo, giành giật này diễn ra trong tiến trình toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, với những phương tiện chủ yếu được khai thác trong nền kinh tế toàn cầu hoá.

3. Trước những diễn biến phức tạp của cục diện chính trị khu vực Đông Á, Việt Nam có nhiều cơ hội để có thể vươn lên phát triển vị quốc gia của mình trong khu vực, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra không ít những khó khăn, thách thức, đòi hỏi Việt Nam phải có những chính sách phù hợp và khôn khéo. Để Việt Nam không trở thành bãi thải công nghiệp và tụt hậu, để hợp tác và hội nhập mà không bị diễn biến hòa bình và thôn tính, để vẫn giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia và không lệ thuộc, để không đi với một bên, chống một bên và cũng không ai có thể ép ta đi với một bên chống một bên, để trở thành đối tác được tin cậy, được nể trọng, được mọi người dù ở bên nào đều cần tới thì Việt Nam cần phải xây dựng một chiến lược có khả năng phát huy được tối đa bản lĩnh, chất xám, nguồn lực con người Việt Nam - dựa trên nền tảng của sự đồng thuận dân tộc.

Cục diện chính trị khu vực, cục diện thế giới hiện tại cũng đang phản ánh một hiện thực khách quan rằng: thời đại ngày nay là thời đại của sự phát huy sức mạnh dân tộc, phát huy triệt để những thế mạnh của chính mình, tận dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cục diện chính trị khu vực và thế giới. Thế mạnh của đất nước ta là những mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra phù hợp với xu thế phát triển tiến bộ của thời đại. Dựa vào cái chung để phát huy cái riêng đều nhằm tăng thế và lực của đất nước; thế và lực ấy bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Cục diện chính trị khu vực và thế giới đang biến đổi sâu sắc, việc xử lý đúng đắn và hài hòa quan hệ của Việt Nam với các nước láng giềng và nước lớn cần phải tiếp tục được coi trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Củng cố quan hệ với các nước theo hướng ổn định, lâu dài, hiểu biết tin cậy lẫn nhau và phát huy tối đa tiềm năng, hiệu quả của sự hợp tác trên mọi lĩnh vực là những điều cần thiết hiện nay. Chính vì vậy, Việt Nam cần linh hoạt và mềm dẻo về sách lược nhưng kiên định mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược, vừa hợp tác vừa đấu tranh, chủ động và khôn khéo, “dĩ bất biến, ứng vạn biến” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng hiệu quả “ngũ tri” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng, biết biến) trong quan hệ quốc tế.



DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Trần Bách Hiếu (2009) “Tìm hiểu khái niệm cục diện chính trị khu vực”, Thông tin đối ngoại (4), tr.52-54.

2. Trần Bách Hiếu (2009), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào đoàn kết quốc tế trong bối cảnh hiện nay”, Thông tin Nghiên cứu Quốc tế (2), tr. 24-30.

3. Trần Bách Hiếu (2009), “Vị trí, vai trò của các cơ chế đa phương trong cục diện chính trị Đông Á những năm đầu thế kỉ XXI”,  Nghiên cứu Đông Bắc Á (7), tr. 12-19.

4. Trần Bách Hiếu (2009), “Chính sách đối ngoại của Nga, Trung Quốc và Nhật Bản trong cục diện chính trị Đông Á những năm đầu thế kỉ XXI”,  Nghiên cứu Đông Bắc Á (11), tr.38-47.

5. Trần Bách Hiếu (2010), “Một số nét về chính sách đối ngoại của Nga tại Đông Á những năm đầu thế kỉ XXI, Thông tin Nghiên cứu Quốc tế (1), tr. 13-18.

6. Trần Bách Hiếu (2010), “Đôi điều bàn về khái niệm “chính trị””, Thông tin đối ngoại (8), tr.51-55.

7. Trần Bách Hiếu, Nguyễn Thị Hiên, Đặng Văn Đông (2011), “So sánh những hành động của Mỹ và Nga trong cuộc chiến chống khủng bố hiện nay”, Nghiên cứu châu Âu (6), tr. 7-16.



8. Trần Bách Hiếu, Nguyễn Thị Nga (2011), “Tìm hiểu khái niệm khủng bố và chủ nghĩa khủng bố”, Châu Mỹ ngày nay (6), tr. 18-23.



Каталог: userfile -> User -> songtran -> files
files -> Phan thành nhâm quan niệm về nhà NƯỚc và XÃ HỘi dân sự trong triết học pháp quyền của g. W. F. Hegel
files -> Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 62 22 56 01
files -> TRẦn thị ngọc thúY ĐẢng lãnh đẠo cuộc vậN ĐỘng quốc tế chống đẾ quốc mỹ XÂm lưỢc việt nam
files -> Mã số: 62. 32. 01. 01 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ BÁo chí
files -> ­­­­­­­­­­­­ nguyễn công oánh nhân học kitô giáo và vai trò CỦa nó trong đỜi sống đẠO
files -> TRƯỜng đẠi học khoa học xã HỘi và nhân văN ­­­­­­­­­­­­ nguyễn thúy thơM
files -> HÀ NỘI – 2015 CÔng trình đƯỢc hoàn thàNH
files -> Mã số : 62 22 03 08 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ triết họC
files -> Mã số : 62 22 03 08 TÓm tắt luậN Án tiến sĩ triết họC
files -> TRƯỜng đẠi học khoa học xã HỘi và nhân văN

tải về 110.16 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương