BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn dự thảO 4 chưƠng trình bảo vệ VÀ phát triển nguồn lợi thủy sảN ĐẾn năM 2020



tải về 411.23 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu25.10.2017
Kích411.23 Kb.
#33884
  1   2   3   4

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

DỰ THẢO 4

CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN

NGUỒN LỢI THỦY SẢN ĐẾN NĂM 2020

Hà Nội, tháng 11 năm 2011

MỤC LỤC



NỘI DUNG

Trang

MỞ ĐẦU

3

PHẦN I:

SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN ĐẾN NĂM 2020

4

I. 1. Tổng quan nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam:



4

I.2. Đánh giá chương trình Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2004 - 2010.

9

1.3 Ý nghĩa và tiếp cận định hướng xây dựng Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020.


18

PHẦN II:

CÁC CĂN CỨ ĐỂ XÂY DỰNG CHƯƠNG

29

II. 1. Căn cứ pháp lý:


29

II. 2. n cứ khoa học


30

PHẦN III:

QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH


34

I. Quan điểm:


34

II. Mục tiêu:


34

III. Nội dung Chương trình:


35

IV. Các dự án ưu tiên

39

PHẦN IV:

CƠ CHẾ TÀI CHÍNH, GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

41

I. Cơ chế tài chính

41

II. Giải pháp:


42

III. Tổ chức thực hiện:


47

IV. Kết luận

50


MỞ ĐẦU
Những năm qua ngành thủy sản đã không ngừng phát triển, sản lượng thủy sản luôn đạt trên 4% /năm mang lại nhiều sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 4,7 tỷ USD (năm 2008), 4,25 tỷ USD (năm 2009) và 5,016 tỷ USD (năm 2010), đặc biệt trong năm 2010 được coi là năm thành công của Ngành thủy sản với tổng sản lượng ước đạt 5,2 triệu tấn, giá trị sản xuất toàn ngành đạt 56.900 tỷ đồng tăng 6,1% so với năm 2009. Sự phát triển trên đã góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp, dịch vụ của cả nước, thay đổi bộ mặt nông thôn. Sự phát triển của ngành thủy sản cũng góp phần quan trọng vào quá trình xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế cho cộng đồng ngư dân, cải thiện an ninh lương thực và an toàn thực phẩm của đất nước. Vai trò, vị thế của thuỷ sản Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

Bên cạnh sự phát triển, ngành thủy sản đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, trong đó có sự suy giảm nguồn lợi thủy sản trên các thủy vực nội địa và vùng biển và ven biển; Ô nhiễm môi trường sống, hệ sinh thái tự nhiên. Nguyên nhân trực tiếp làm suy giảm nguồn lợi thuỷ sản là sự gia tăng dân số với tốc độ nhanh, nhu cầu tiêu dùng thực phẩm thủy sản ngày càng cao; số lượng tàu thuyền khai thác thủy quá nhiều, đặc biệt tàu thuyền công suất nhỏ khai thác ven bờ với nghề khai thác tận diệt làm cho nguồn lợi thủy sản bị suy giảm. Một số loài đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, các hệ sinh thái thủy sinh tại nhiều nơi đang bị phá hủy; sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác cũng tác động đến việc suy giảm nguồn lợi và môi trường sống của các loài thuỷ sản, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, các bãi giống, bãi đẻ bị mất do hoạt động xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi.

Nhằm từng bước phục hồi và tái tạo nguồn lợi thủy sản đang có nguy cơ càng cạn kiệt; tạo các sinh kế thay thế để giảm áp lực khai thác nguồn lợi tại các thủy vực tự nhiên; nâng cao nhận thức cộng đồng dân cư trong công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản rất cần thiết có một Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2020 được triển khai đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Chương trình được phê duyệt sẽ giúp Ngành thuỷ sản nhìn nhận và đánh giá một cách đồng bộ, có hệ thống về những thành tựu cũng như tồn tại giữa quá trình phát triển Ngành thuỷ sản với các hoạt động khác như bảo tồn, bảo vệ nguồn lợi và môi trường sinh thái.

PHẦN I

SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỢI THUỶ SẢN ĐẾN NĂM 2020
I. 1. Tổng quan nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam

* Nguồn lợi Hải sản:

Việt Nam được đánh giá là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản giàu có nhất toàn cầu. Với bờ biển dài trên 3.260 km, vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế khoảng 1 triệu km2 với trên 4.000 đảo lớn nhỏ trải dọc từ Bắc vào Nam và hai quần đảo ngoài khơi Hoàng Sa, Trường Sa chiếm vị trí tiền tiêu cực kỳ trọng yếu trong Biển Đông.

Vùng biển Việt Nam đã phát hiện được khoảng 12.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, đặc biệt có các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển và rừng ngập mặn. Trong tổng số loài được phát hiện có khoảng 6.000 loài động vật đáy; 2.435 loài cá với trên 100 loài có giá trị kinh tế; 653 loài rong biển; 657 loài động vật phù du; 537 loài thực vật phù du; 94 loài thực vật ngập mặn; 225 loài tôm biển; 14 loài cỏ biển; 15 loài rắn biển; 25 loài thú biển; 5 loài rùa biển và 43 loài chim nước. Tổng trữ lượng hải sản ở biển Việt Nam ước tính khoảng 5.075.143 tấn, trong đó trữ lượng cá nổi nhỏ khoảng 2.744.850 tấn (chiếm 54,08 % tổng trữ lượng); trữ lượng cá đáy khoảng 1.174.261 tấn (chiếm 23,14 % tổng trữ lượng) và trữ lượng cá nổi đại dương khoảng 1.156.000 tấn (chiếm 22,78 % tổng trữ lượng). Khả năng khai thác hải sản ở biển Việt Nam khoảng 2.147.444 tấn, trong cá đáy chiếm khoảng 27,34 %; cá nổi nhỏ chiếm khoảng 51,13 % và cá nổi đại dương chiếm khoảng 21,53 % tổng trữ lượng có thể khai thác. Nhiều loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ có giá trị kinh tế cao, đặc biệt là cá biển, tôm hùm, các loài giáp xác và nhuyễn thể hai mảnh vỏ, không ít loài trong số chúng thuộc loại quý hiếm đã được ghi trong Sách đỏ Việt Nam và Thế giới. Sự phân bố nguồn lợi hản sản tập trung tại các vùng biển:



- Vùng biển Vịnh Bắc bộ

Vùng biển Vịnh Bắc bộ đã phát hiện 960 loài cá thuộc 457 giống, 162 họ. Tuy số loài nhiều nhưng chỉ có khoảng 60 loài có giá trị kinh tế. Ở vùng biển phía Tây vịnh Bắc bộ nhóm cá nổi, cá đáy và gần đáy có vị trí quan trọng. Ngoài ra còn có các loài tôm, mực có giá trị kinh tế cao. Kết quả điều tra mới nhất của Viện nghiên cứu Hải sản bằng lưới kéo đáy có độ mở cao, tại vùng biển xa bờ Vịnh Bắc bộ đã bắt gặp 166 loài hải sản thuộc 74 họ khác nhau. Trong đó, có 150 loài cá thuộc 66 họ, 3 loài mực ống, 4 loài mực nang, 2 loài bạch tuộc, 2 loài ghẹ, 1 loài tôm mũ ni, 1 loài tôm tít, 2 loài tôm he và 1 loài sam. Tổng trữ lượng cá đáy và cá nổi ở vùng biển Vịnh Bắc bộ ước tính khoảng 681.166 tấn. Khả năng khai thác: 272.467 tấn.

Nguồn lợi mực ở vùng biển xa bờ: Trữ lượng: 2.919 tấn. Khả năng khai thác: 1.168 tấn.

Nguồn lợi tôm vùng biển xa bờ: Trữ lượng: 321 tấn. Khả năng khai thác: 161 tấn.



- Vùng biển miền Trung

Khu hệ cá vùng biển miền Trung chủ yếu là nhóm Cá nổi chiếm trên 60%, cá đáy và gần đáy chiếm khoảng 40%. Cá sống gần bờ có ưu thế, chiếm khoảng 70%, cá có nguồn gốc biển khơi khoảng 29% và cá biển sâu khoảng 1%. Các loài cá sống trong vùng biển miền Trung mang tính chất điển hình của vùng biển nhiệt đới, đa dạng, phong phú về chủng loại nhưng khá phân tán.

Vùng biển miền Trung có khoảng 600 loài cá, trong đó có trên 30 loài cá có giá trị kinh tế cao. Có khoảng 50 loài tôm thuộc 6 họ tôm kinh tế là họ tôm he, họ tôm hùm, họ tôm rồng, họ tôm vỗ, họ tôm gai, họ moi biển. Trữ lượng tôm ở vùng biển miền Trung khoảng 19.981 tấn và khả năng khai thác khoảng 9.991 tấn. Vùng biển miền Trung đã xác định được 23 loài mực thuộc 3 họ, 6 giống. Trong đó, những loài thường gặp và có ý nghĩa kinh tế là các loài mực ống và mực nang. Trữ lượng mực ở vùng biển miền Trung khoảng 19.310 tấn và khả năng khai thác khoảng 7.723 tấn.

- Vùng Biển Đông Nam bộ

Vùng Biển Đông Nam bộ có thềm lục địa rộng và là vùng biển có khả năng tiềm tàng lớn, có nhiều bãi cá có sản lượng cao và chất lượng tốt.



Vùng Biển Đông Nam bộ đã bắt gặp 666 loài thuộc 319 giống, 139 họ cá. Đa số giống loài này thuộc phức hệ cá nhiệt đới, một số loài thuộc phức hệ cá ôn đới. Kết quả điều tra nguồn lợi đã xác định được 50 loài tôm thuộc các họ: Penacidae, Solenoceridae, Sicyoniidae, Palinuridae, Scyllaridae và Nephrofidae. Mùa đẻ của các loài tôm kinh tế là mùa xuân và mùa hè, bãi đẻ có độ sâu 15 - 30 m nước. Vùng ven bờ, khu vực có rừng ngập mặn là nơi cư trú và sinh trưởng của tôm con. Vùng Biển Đông Nam bộ có 23 loài thuộc 3 họ là mực nang (Sepiidae), mực ống (Loliginidae) và mực sim (Sepiolidae). Mực nang có 3 loài là mực nang vân hổ (Sepia tigris), mực nang hoa (Sepia subaculeata), mực nang chấm (Sepia hercules). Mực ống tương đối phổ biến ở vùng biển gần bờ Đông Nam bộ là các loại mực ống thường (Loligo edulis), mực ống ngắn (Sepioteuthis lessoniana), mực ống Đài Loan (Loligo formosana). Phần lớn mực ống tập trung ở vùng nước có độ sâu từ 30 - 50 m nước trở vào bờ.

- Vùng biển Tây Nam bộ

Khu hệ cá ở vùng biển Tây Nam bộ thể hiện tính chất nhiệt đới rõ ràng và mang tính chất nhiệt đới đậm nét hơn vùng Biển Đông Nam bộ. Vùng biển Tây Nam bộ có khoảng 600 loài, 149 giống và 83 họ. Thành phần các loài cá ở vùng biển Tây Nam bộ tương đối đa dạng và phong phú về giống loài nhưng chất lượng không cao. Nguồn lợi mực ở vùng biển Tây Nam bộ chủ yếu tập trung ở các vùng nước gần bờ. Vùng biển gần bờ Tây Nam bộ có mặt tương đối đầy đủ các loài mực, điển hình là các loài mực nang Sepia torosa, Sepiella japotica, Sepia omani và các loài mực ống Loligo aspera, Loligo japonica, Loligo ashimai. Tại vùng biển Tây Nam bộ đã xác định được 50 loài tôm trong đó có 15 loài thuộc họ tôm he. Ngoài ra, còn có nguồn lợi tôm vỗ với khả năng khai thác trên 3.000 tấn.



- Vùng giữa Biển Đông

Vùng biển quần đảo Trường Sa nằm trong vùng biển giữa Biển Đông, tại vùng biển giữa Biển Đông đã bắt gặp 173 loài, thuộc 61 họ và 109 giống. Trong đó, thành phần loài chủ yếu là cá nổi lớn xa bờ, cụ thể là 167 loài cá, thuộc 56 họ, 103 giống; 5 loài nhuyễn thể chân đầu, thuộc 4 họ, 5 giống và 1 loài giáp xác. Đối với cá nổi, trữ lượng vùng ven bờ (<30m) khoảng 120ngàn tấn với khả năng khai thác là 60 ngàn tấn. Trữ lượng vùng xa bờ là 270 ngàn tấn, khả năng khai thác 135 ngàn tấn.

Ước tính tổng trữ lượng tức thời của cá tại vùng biển Quần đảo Trường Sa thu được qua các loại ngư cụ là 181,6 tấn. Trong đó, cá thuần đáy là 95,1 tấn và cá nổi là 86,5 tấn.

* Nguồn lợi thuỷ sản nội địa:

Với một hệ thống sông, suối dày đặc, đặc biệt là các lưu vực sông chính như sông Hồng, sông Thái Bình, sông Ba, sông Đồng Nai, sông Cửu Long đã tạo cho nguồn lợi thủy sản nội địa Việt Nam tương đối đa dạng về chủng loại, với các nhóm: cá nước ngọt, cá nước lợ, cá di cư từ biển vào sông và ngược lại, thực vật ngập mặn, chim di trú. Cá nước ngọt có nhiều loài đặc sản có giá trị, như cá Lăng, cá Chiên, cá Anh vũ, cá Bống... Cá di cư có những loài có giá trị thực phẩm, xuất khẩu cao, như cá Mòi, cá Cháy, cá Chình. Ngoài các loài di cư biển - sông, sông - biển, còn có các loài di cư sinh sản trong sông như cá Mè trắng, cá Mè hoa, cá Trôi việt, cá Trắm cỏ, Trắm đen (hệ thống sông khu vực miền Bắc); cá tra, cá Basa (hệ thống sông Cửu Long).

Nguồn lợi thủy sản nước ngọt tập trung chủ yếu tại 2 khu vực chính là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long.



Đồng bằng sông Hồng:

Khu hệ cá nước ngọt vùng đồng bằng sông Hồng rất phong phú về thành phần loài (280 loài thuộc 14 bộ 60 họ, 230 giống), hiện nay do sự di nhập nhiều loài do phát tán hoặc di nhập nuôi (cá thương phẩm, nuôi làm cảnh...) mà số lượng loài tăng khá nhiều. Có thể chia khu hệ cá vùng đồng bằng sông Hồng ra 4 nhóm sinh thái: Nhóm cá miền núi, nhóm cá đồng bằng, nhóm cá biển di cư vào nước ngọt và nhóm cá phân bố rộng. Hoặc chia theo hệ sinh thái như: cá sống ở sông suối, nhóm cá sống ở sông hồ, nhóm cá sống ở ao, ruộng và nhóm cá sống vùng cửa sông. Chia theo tính chất của hệ sinh thái sông ta có các nhóm cá: Nhóm cá sống phần hạ lưu sông hồ, nhóm cá sống ở trung lưu sông hồ và nhóm cá sống phần thượng lưu sông hồ: Khu hệ cá phần hạ lưu sông Hồng khá phong phú về thành phần loài bao gồm: các loài đặc hữu, các loài cá ở nước lợ (Cá nguồn gốc ở biển di cư vào vùng cửa sông) và những loài cá sống ở sông và đồng ruộng trũng. Khu hệ cá phần trung lưu: gồm các loài cá sống ở sông và đồng ruộng trũng, đa số là những loài phân bố rộng như cá Mương, cá Ngão, cá Thiểu, cá Dầu sông và một số loài di cư từ cửa sông vào như cá Mòi, cá Cháy. Đa dạng về thành phần loài, có nhiều loài cá kinh tế như: cá Chép, cá Trắm cỏ, cá Măng, cá Mương, cá Ngạnh; cá quý hiếm như cá Lăng chấm, cá Chiên, cá Bỗng, cá Chình; cá đặc hữu như cá Rầm xanh, Rầm vàng, cá Hoả.

Đồng bằng sông Cửu Long:

Có 175 loài cá vùng ĐBSCL thuộc 109 giống, 48 họ, 17 bộ. Trong đó bộ cá chép (Cypriniformes) có thành phần loài đa dạng nhất chiếm 36% tổng số loài; tiếp theo là bộ cá nheo (Siluriformes) chiếm 27%; bộ cá vược (Perciformes) chiếm 19%, bộ cá cơm (Clupeiformes) chiếm 6%; bộ cá bơn (Pleuronectiformes) chiếm 3%, 12 bộ còn lại chỉ chiếm 1% tổng số loài. Hầu hết thành phần loài cá thuộc nhóm cá trắng chiếm 74%, nhóm cá đen chiếm 7%. Ngoài ra nhóm cá nước lợ chiếm 11% như cá đối (Mugil spp.), cá mề gà (Coilia spp.), cá mặt quỷ (Eleutheronema tetradactylum), cá lạt vàng (Congresox talabonoides). Nhóm cá có nguồn gốc nước mặn chiếm 7%, tiêu biểu là cá thu (Scomberomorus sinensis) và cá mập trắng (Carcharhinus leucas).

Về sản lượng khai thác: sản lượng cá úc (Arius spp.) chiếm tỉ trọng cao nhất với 16% tổng sản lượng, là loài thường phân bố vùng cửa sông ven biển; cá rô đồng (Anabas testudineus) được xếp thứ hai chiếm 10% là loài cá đen đặc trưng cho vùng ngập lụt; cá phèn (Polynemus spp.) chiếm 8% tổng sản lượng được xếp thứ ba; cá mè vinh (Barbonymus gonionotus), cá linh (Henicorhynchus siamensis) và cá dảnh trắng (Puntioplites proctozysron) mỗi nhóm cùng chiếm 6% tổng sản lượng khai thác, cả ba loài cá này đều thuộc nhóm cá trắng, phân bố chủ yếu ở hệ thống sông kênh rạch. Sản lượng khai thác có xu hướng giảm, trung bình đạt 6,1kg/ngày/ngư dân nhưng hiệu quả khai thác (kg/giờ/100m2 lưới) lại có xu hướng tăng. Sản lượng khai thác nguồn lợi cá trong vùng có mối tương quan mật thiết với mực nước lũ, khi mực nước lũ cao thì sản lượng khai thác cũng cao và ngược lại. Do đó bất kỳ một yếu tố nào ảnh hưởng đến mực nước đều ảnh hưởng đến nguồn lợi thủy sản trong vùng.

Nghiên cứu bước đầu tại các thủy vực đã xác định được 1.438 loài vi tảo nước ngọt thuộc 259 chi và 9 ngành. Trên 800 loài động vật không xương sống đã được thống kê. Trong đó, đáng lưu ý là thành phần loài giáp xác (Crustacea), có 54 loài và 8 giống lần đầu tiên được mô tả ở Việt Nam. Riêng hai nhóm tôm, cua có 59 loài thì có tới 7 giống và 33 loài (55,9% tổng số loài) lần đầu tiên được mô tả. Trong tổng số 155 loài trai, ốc, có 51 loài (32,9% tổng số loài), 4 giống lần đầu tiên được mô tả, tất cả đều là những loài đặc trưng cho Việt Nam hay vùng Đông Dương. Một điều đáng chú ý là tính đa dạng nhiệt đới của thành phần loài giáp xác và thân mềm nước ngọt ở Việt Nam cũng như một số nhóm khác được thể hiện ở sự phong phú ở số giống hơn là số loài.

Theo số liệu nghiên cứu mới nhất về nguồn lợi thủy sản nội địa đã xác định được 1.027 loài cá nước ngọt thuộc 22 bộ, 97 họ và 427 giống. Riêng họ cá chép có 79 loài thuộc 32 giống, 1 phần họ được coi là đặc hữu của Việt Nam. Trong đó có 1 giống, 40 loài và phân loài mới cho khoa học. Phần lớn các loài đặc hữu đều có phân bố ở các vùng nước sông, suối, vùng núi.

Sản lượng khai thác nội địa cả nước đạt khoảng 191.000 tấn đến 234.000 tấn/năm.

* Các hệ sinh thái:

Các hệ sinh thái có năng suất sinh học cao thường phân bố tập trung ở vùng bờ và quyết định hầu như năng suất sơ cấp của toàn vùng biển và đại dương như: Rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, vùng triều cửa sông, đầm phá và vùng nước trồi. Các hệ sinh thái biển - ven biển còn có tiềm năng bảo tồn đa dạng sinh học và nguồn giống hải sản tự nhiên cho nghề khai thác và nuôi trồng hải sản trên biển. Ba gồm các hệ sinh thái sau:



+ Rạn san hô

Ở nước ta rạn san hô phân bố ở nhiều nơi, từ vùng ven bờ tới vùng hải đảo Quảng Ninh, Hải Phòng; các đảo ngoài khơi Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị; dọc ven biển Miền Trung cho đến Bình Thuận; các đảo ngoài khơi phía Đông và Tây Nam Bộ như Côn Đảo, Thổ Chu, Nam Du, Phú Quốc, Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo san hô lớn nhất Biển Đông. Chỉ tính riêng vùng ven bờ đã có tới 40.000ha. Một số nghiên cứu đánh giá diện tích các rạn san hô của Việt Nam chiếm khoảng 10% của khoảng 150.000km2 rạn san hô có mặt tại khu vực Đông Nam Á, nghĩa là khoảng 1.500.000 ha.

Hệ sinh thái rạn san hô có cấu trúc phức tạp, rất nhạy cảm với các đe dọa, đặc biệt là các đe dọa từ phía con người với cường độ ngày một tăng. Nếu các rạn san hô bị phá hủy thì các hệ sinh thái của rạn sẽ mất đi và kéo theo nó là nguồn lợi cá và các sinh vật khác sẽ bị mất.

+ Cỏ biển

Việt Nam hiện có 15 loài cỏ biển sống trong các thảm cỏ có tổng diện tích 5.583 ha. Các thảm cỏ biển ở Việt Nam phân bố từ Bắc vào Nam và ven các đảo, ở độ sâu từ 0- 20 m, tập trung ở vùng ven đảo Phú Quốc, Cô Đảo, Trường Sa và một số cửa sông miền Trung. Đây là hệ sinh thái có năng suất sinh học cao và đóng góp quan trọng về cung cấp thức ăn và nguồn giống hải sản: ngó đen, ngó đỏ, hến, cua, tôm, hải sâm... cho vùng biển, đặc biệt rùa biển, cá biển và thú biển (đặc biệt là loài bò biển- loài thú biển quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng). Ở khu vực phía Bắc đã phát hiện có 82 động vật đáy như giun nhiều tơ (16 loài), ốc (20 loài), trai (26 loài), giáp xác (20 loài). Ở vùng biển Nam Trung bộ đã thống kê được 62 loài động vật đáy, trong đó trai ốc chiếm nhiều nhất 37 loài, giáp xác 8 loài, da gai 12 loài. Ở vùng biển Nam bộ có tới 88 loài, trong đó tôm và cá bống trắng có giá trị kinh tế cao chiếm đa số.

Thảm cỏ biển còn đóng vai trò bẫy, giữ, tích tụ trầm tích, chắn sóng, chống xói lở bờ biển. Ngoài ra, cỏ biển còn là nguồn nước cung cấp thức ăn trực tiếp cho nhiều loài cá tôm, đồi mồi, vích và đặc biệt là bò biển (Dugong dugon). Bò biển luôn sống gắn bó với các thảm cỏ biển (là loài thú quý hiếm có tên trong sách đỏ Việt Nam và là đối tượng bảo vệ của thế giới).

+ Rừng ngập mặn

Bên cạnh việc cung cấp đa dạng sinh học các loài động vật, thực vật, rừng ngập mặn còn có nhiều chức năng quan trọng: chống xói mòn bờ biển, chắn bão nhiệt đới, điều hòa độ mặn của đất, làm nơi trú ngụ và sinh sản cho nhiều loài cá, tôm, cua... Trước năm 1943 ven biển nước ta có khoảng 400.000 ha rừng ngập mặn, đến nay tổng diện tích rừng ngập mặn của cả nước hiện chỉ còn còn khoảng 155.290 ha, giảm gần 100.000 ha so với năm 1990 và đang tiếp tục bị thu hẹp nhanh. Sống dưới tán thảm thực vật ngập mặn có khoảng 1.600 loài sinh vật, trong đó có nhiều loài thủy đặc sản chỉ sống gắn bó với rừng ngập mặn.

+ Hệ sinh thái đầm phá ven biển

Các đầm phá chủ yếu ở Việt Nam như Tam Giang - Cầu Hai với diện tích trên 20.000 ha, Lăng Cô (6.000 ha) thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế; Đầm Thị Nại (5.000 ha), đầm Cù Mông (2.600 ha), Ô Loan (1.500 ha), Nha Phu (5.000 ha), đầm Thuỷ Triều (2.000 ha) thuộc Khánh Hoà; Đầm Nại có diện tích 130 ha thuộc tỉnh Ninh Thuận. Có khoảng gần 1.000 loài động vật, thực vật sống trong đầm phá. Nhóm động vật đáy có số loài lớn nhất từ 200 - 300 loài, tiếp theo là thực vật phù du và cá biển. Thành phần loài cá biển phong phú ở đầm phá Trị Thiên – Huế 144 loài, Thị Nại 116 loài, Nha Phu 93 loài… Bộ cá vược có nhiều loài nhất – thường trên 50 % tổng số loài, tiếp đến là Bộ Cá Trích, Bộ Cá Đối, Bộ Cá Chép các bộ khác có số loài rất ít. Hầu hết số loài có nguồn gốc từ biển, chỉ có một số loài nước ngọt như cá Chép, cá Diếc, cá Rô đồng, cá Thác lát, cá Mại phân bố ở các cửa sông hoặc gặp ít trong đầm vào mùa mưa. Ở các đầm phá gặp hơn 30 loài cá có sản lượng cao và có giá trị kinh tế. Những loài thường gặp với số lượng lớn là cá Đối cồi, cá Mòi có chấm, cá Dầy, cá Đìa, cá Măng, cá Hồng, cá Căng, cá Móm, cá Lượng, cá Rô phi, cá Cơm, cá Trích, cá Liệt. Cùng với tôm, cua, ghẹ, vẹm... cá là đối tượng khai thác quan trọng nhất của ngư dân ven các đầm phá.

Các đầm phá có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Giá trị to lớn của đầm phá ở những chức năng về môi trường, sinh thái, chức năng bảo vệ, cung cấp sản xuất và đóng vai trò cân bằng tự nhiên, sinh thái ven bờ. Tại đây có nhiều giá trị quý giá cần được bảo tồn, bao gồm giá trị đa dạng (đa dạng hệ sinh thái, đa dạng nguồn gen, đa dạng loài và đa dạng về nguồn gốc khu hệ). Vùng đầm phá có tác dụng lớn đến duy trì lượng nước ngầm vùng đồng bằng ven rìa, có tác dụng tốt với hệ sinh thái đồng ruộng và duy trì nguồn nước ngầm sinh hoạt cho nhân dân. Tuy nhiên Hệ sinh thái Đầm phá hiện đang bị khai thác quá mức gây suy giảm nghiêm trọng nguồn lợi thủy sản kèm thep sức ép về kinh tế và dân số tiếp tục tăng làm cho gia tăng các tác động đến hệ sinh thái trên.

+ Hệ sinh thái cửa sông

Vùng cửa sông ven biển là nơi tiếp xúc sông - biển, ôm sát dải nước ven bờ, từ phần thấp của hạ lưu các hệ thống sông trong mùa khô khi triều cường đến vùng nước nông thềm lục địa, ở nơi xa nhất cách các cửa sông lớn như hệ thống sông Hồng và sông Cửu Long khoảng 30-60km vào mùa mưa trong thời kì đỉnh lũ. Trong vùng cửa sông xuất hiện hàng loạt các hệ sinh thái, nơi sống đặc trưng và là địa bàn tồn tại và phát triển của các quần xã sinh vật, thích nghi với điều kiện nước lợ, chủ yếu có nguồn gốc biển. Chúng cũng là kho lưu trữ nguồn gen phong phú cho biển. Khu hệ cá cửa sông của nước ta có 615 loài thuộc 120 họ, 29 bộ với các đặc điểm sau: Bộ cá có số loài lớn nhất là bộ cá Vược (Perciformes) với 53 họ và 339 loài. Một số họ đóng vai trò quan trọng cho nghề cá cửa sông là Megalopidae, Clupeidae, Engraulidae, Mugilidae, Polynemidae, Serranidae, Carangidae, Leiognathidae, Nemipteridae, Lutjanidae, Sciaenidae, Gobbiidae.

Vùng cửa sông ven biển đã được tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian dài ở phạm vi hệ sinh thái cũng như ở từng đối tượng. Tuy vậy, phần nhiều các dẫn liệu về đa dạng sinh học vẫn ở dạng phân tán, nhiều nhà khoa học, cơ quan quản lý riêng lẽ; một vài đối tượng chưa có nhiều số liệu bổ sung, cập nhật. Nhìn chung, các kết quả nghiên cứu chưa có sự đồng bộ và thống nhất, sự kế thừa và cập nhật của các nghiên cứu sau đối với các cơ sở dữ liệu đã có vẫn chưa được thực hiện tốt. Vì vậy, tuy có cơ sở dữ liệu khá dày và khá cập nhật nhưng để tổng hợp về hiện trạng đa dạng sinh học các hệ sinh thái cửa sông ven biển Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn.

Để có cơ sở cho việc tổng hợp, cập nhật dữ liệu về đa dạng sinh học cũng như thực trạng sử dụng các hệ sinh thái này đối với từng khu vực cửa sông ven biển cũng như cả nước, cần thiết tiến hành thiết lập mạng lưới thu thập cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học và các vấn đề liên quan trên phạm vi cả nước để làm cơ sở cho việc cập nhật, so sánh, hoàn chỉnh, thống nhất cơ sở dữ liệu.
* Hiện trạng biến động nguồn lợi

Chỉ trong 10 năm (kể từ thời gian Sách Đỏ Việt Nam lần đầu tiên được công bố), tình trạng số lượng động vật, thực vật hoang dã nguy cấp trong tự nhiên ở nước ta đã có những biến đổi đáng kể. Cụ thể, đối với các loài cá nước ngọt trong Sách Đỏ Việt Nam 1992 có 33 loài trong tổng số trên 500 loài cá nước ngọt đã biết, tăng lên 36 loài trong Sách Đỏ 2007. Tuy nhiên thay đổi quan trọng là cấp độ bị đe dọa của nhóm cá nước ngọt sau 10 năm. Trong khi 33 loài cá nước ngọt được đưa vào Sách Đỏ 1992 chỉ ở hạng E (Nguy cấp) và V (sẽ nguy cấp) thì trong 36 loài đưa vào Sách Đỏ 2007 đã có 3 loài được coi là tuyệt chủng ngoài thiên nhiên (EW), đó là: cá Chép gốc (Procypris merus), cá Chình Nhật (Anguilla japonica) và cá Lợ thân thấp (Cyprinus multitaeniata). Số loài sẽ nguy cấp cũng tăng thêm 23/20, trong khi các loài nguy cấp (EN) không thay đổi lớn 8/7. Một số loài trước ở thứ hạng V nay đã chuyển sang hạng E, như cá Mòi (Clupanodon), cá Cháy (Tenualosa), cá Hô (Catlocarpio). Nhìn chung, có thể thấy mức độ bị đe dọa của cá nước ngọt trong 10 năm qua đã tăng lên rõ rệt.

Khác với cá nước ngọt, số loài cá biển được đưa vào Sách Đỏ 2007 (53 loài) lại tăng lên nhiều so với giai đoạn 1992 (37 loài). Trong số này, số loài nguy cấp (20 loài) và sẽ nguy cấp (28 loài) tăng lên rất nhiều so với giai đoạn 1992, chỉ là 3 và 5 loài. Trong giai đoạn này, đã có 3 loài ở tình trạng rất nguy cấp (CR), đó là: cá Song vân giun (Epinephelus andulatostriatus), cá Kẽm mép vẩy đen (Plectorhynchus gibus) và cá Bống bớp (Bostrichthys sinensis). Số loài thứ hạng nguy cấp thuộc các nhóm cá Nhám (Alopias, Stegostoma, Rhincodon, Cephaloscylliu), cá Đao (Pristis), cá Ngựa (Hippocampus) là nhóm cá có giá trị kinh tế cao, đang bị khai thác mạnh. Trong Sách Đỏ 1992, các nhóm cá này mới chỉ đặt trong thứ hạng R (Hiếm). Đáng chú ý là nhiều loài trong họ cá Bướm (Chaetodontidae), họ cá Bàng chài (Labridae) thuộc loại cá cảnh sống trong rạn san hô, trước đây chưa bị đe dọa, thì nay trong Sách Đỏ 2004 đã phải đặt trong thứ hạng VU, do tình trạng săn bắt tăng lên trong thời gian gần đây.

Trong nhóm Bò sát, Lưỡng cư có vòng đời chủ yếu ở nước, Sách Đỏ Việt Nam 1992 cũng như 2007 đều có ghi các loài Bò sát cỡ lớn ở biển và nước ngọt. Trong cả hai giai đoạn Sách Đỏ đều có ghi 5 loài rùa biển. Rùa da (Dermochelys coriacea), Đồi mồi dứa (Lepidochelys olivacea), Vích (Chelonia mydas), Đồi mồi (Eretmochelys imbricata), Quản đồng (Caretta caretta), được xếp ở các thứ hạng khác nhau. Trong Sách Đỏ 1992, các loài Rùa da, Vích, Đồi mồi xếp ở thứ hạng E, còn Quản đồng - ở thứ hạng V. Trong Sách Đỏ 2004, tình trạng số lượng các loài trên đã giảm sút, vì vậy các loài Rùa da, Quản đồng đều phải xếp vào CR và các loài còn lại xếp vào EN. Với các loài cá Sấu nước mặn - lợ, cá Sấu hoa cà (Crocodylus porosus) - trước đây xếp ở thứ hạng E nay đã phải chuyển sang EW - hầu như không còn thấy ngoài thiên nhiên. Các loài bò sát nước ngọt, loài cá Sấu nước ngọt (Crocodylus siamensis) cũng đã chuyển sang thứ hạng CR. Hai loài cá Cóc Tam đảo (Paramesotriton deloustaliTylotriton asperi) đều xếp vào thứ hạng EN, do bị khai thác mạnh bởi khách du lịch và do các hoạt động tại khu du lịch Tây Thiên, khu du lịch Tam Đảo làm mất dần nơi cư trú, kiếm mồi của chúng. Về hai loài rùa nước ngọt cỡ lớn có ở nước ta, bước đầu đã được xác định là Giải lớn (Pelochelys cantorii) và Giải Thượng hải (Rafetus swinhoei). Loài Giải lớn (P. cantorii) trong Sách Đỏ 2007 được xếp ở thứ hạng EN, trong khi loài Giải Thượng hải được xếp ở thứ hạng CR, cao hơn so với trước đây. Nhìn chung, có thể thấy các loài bò sát cỡ lớn ở biển và ở nước ngọt, đều ở mức độ đe dọa cao hơn so với 10 năm trước đây. Đáng chú ý là 2 loài Giải lớn P. cantorii (P. bibroni) và R. swinhoei, trong Sách Đỏ Trung Quốc 2007 đều đã coi là tuyệt chủng (EW) ngoài thiên nhiên.

Số loài động vật không xương sống nước ngọt đưa vào Sách Đỏ không lớn. Trong Sách Đỏ 1992 tổng số loài là 23, còn trong Sách Đỏ 2007 chỉ là 19 loài, chủ yếu tập trung 2 nhóm tôm cua và trai ốc. Trong số này, thuộc vào diện nguy cấp, trước đây chưa có loài nào, thì trong Sách Đỏ 2007 đã ghi 2 loài: Trai Cóc dầy (Gibbosula crassa) có phân bố rất hẹp ở khu vực sông Kỳ Cùng-sông Bằng được xếp vào thứ hạng CR và trai Cóc vuông (Protunio messageri) là loài đặc hữu của Việt Nam, được xếp vào thứ hạng EN. Riêng trai Vỏ nâu (Chamberlania hainesiana) cho tới nay vẫn chưa tìm thấy, có thể đã tuyệt chủng. Nhìn chung, động vật không xương sống nước ngọt rất ít loài có giá trị kinh tế lớn, một số loài như trai Điệp (Sinohyriopsis cummingii) đang được gây nuôi nhân tạo, vì vậy tình trạng bị đe dọa không lớn.

Khác với động vật không xương sống nước ngọt, số loài động vật không xương sống ở biển được đưa vào Sách Đỏ nhiều hơn và ngày càng tăng lên. Sách Đỏ 1992 đã đưa vào danh sách 40 loài, trong đó có 7 loài ở diện nguy cấp (E), 12 loài ở diện sẽ nguy cấp (VU). Sách Đỏ 2007 đã nâng số loài động vật không xương sống biển lên tới 61 loài, trong đó đã có 6 loài ở thứ hạng CR, 10 loài ở thứ hạng EN. Nhóm san hô có tới 15 loài, trong đó có 3 loài ở thứ hạng EN (Juncella gemmacea, Seriatopora hystrix, Stylophora pistilata). Đây là các loài san hô thường bị khai thác nhiều để bán làm vật trang trí. Tuy nhiên, nhóm trai ốc biển là nhóm có số loài nhiều nhất (27 loài) được ghi vào trong Sách Đỏ 2007 và có nhiều loài ở mức bị đe dọa cao. Trong số này có tới 6 loài phải xếp vào thứ hạng rất nguy cấp (CR), đó là Bào ngư chín lỗ (Haliotis diversicolor), ốc Đụn cái (Trochus niloticus), ốc Xà cừ (Turbo marmoratus), ốc Tù và (Charonia tritonis), ốc Sứ mắt trĩ (Cypraea argus), ốc Anh vũ (Nautilus pompilus). Đây là các loài trai ốc sống ở gần bờ, có hình dạng màu sắc đẹp, là đối tượng khai thác thường xuyên để bán làm vật trang trí.

Trong nhóm tôm cua biển, có tới 11 loài được ghi vào trong Sách Đỏ 2007, trong đó có một số loài được xếp ở thứ hạng EN: Tôm Hùm lông đỏ (Palinurellus gunalachi), tôm Hùm đá (Panulirus homarus), tôm Hùm đỏ (Panulirus longipes). Tôm Hùm là đối tượng có giá trị kinh tế rất cao, song hiện nay cũng đã được nuôi nhân tạo.

Nhóm động vật Da gai (Hải sâm, Cầu gai) cũng có 5 loài được ghi vào trong Sách Đỏ 2007, song chưa có loài nào ở mức bị đe dọa cao.

Thú biển ở nước ta không nhiều loài, nhưng trong Sách Đỏ 2007 cũng đã có ghi 5 loài cá Heo, cá Ông chuông (Họ cá Heo) và loài Bò biển (Họ Hải ngưu). Đáng chú ý nhất là loài Bò biển (Dugong dugon), loài thú biển lớn, sống ở các bãi cỏ biển ven bờ, ven đảo, chậm chạp, hiện số lượng còn rất ít, được xếp vào thứ hạng CR.

Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy biến động nguồn lợi thủy sản tại các thủy vực tự nhiên là rất lớn. Tập trung chủ yếu tại các thủy vực ven biển, lưu vực sông, suối. Nhiều loài thủy sản có giá trị kinh tế cao, có giá trị khoa học đang ngày một mất dần, bằng chứng là các cấp độ nguy cấp được thể hiện trong Sách đỏ Việt Nam 2007 ngày càng tăng. Nhóm nguồn lợi thuỷ sản có trữ lượng, sản lượng khai thác tự nhiên cao đang một đi xuống. Biến động quần thể liên tục thay đổi do các yếu tố khách quan (môi trường thay đổi) và yếu tố chủ quan (các hoạt động của con người) đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất, sản lượng, giá trị kinh tế của Ngành thuỷ sản.

Các hệ sinh thái bị phá huỷ do các hoạt động của con người dẫn đến việc mất nơi cư trú, sinh sản, sinh sống của các loài thủy sản. Từ hiện trạng trên cho thấy đòi hỏi cần thiết phải có một Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản nhằm bảo vệ, bảo tồn, tái tạo và phục hồi nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái, môi trường tự nhiên.
I.2. Đánh giá Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2004 - 2010.

Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2004 - 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 131/QĐ-TTg ngày 16 tháng 7 năm 2004 với mục tiêu:

       - Bảo vệ, bảo tồn đa dạng thuỷ sinh vật, đặc biệt là các loài thuỷ sản quý, hiếm, có giá trị khoa học và kinh tế, giữ gìn tính đa dạng, độc đáo của hệ sinh thái thuỷ sinh vật Việt Nam cho hiện tại và tương lai.

       - Phục hồi nguồn lợi thuỷ sản vùng biển ven bờ, các sông, hồ chứa và các vùng đất ngập nước nhằm phát triển thủy sản bền vững.

       - Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, giá trị các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa dạng sinh học. Đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của ngư dân trong việc tham gia bảo vệ nguồn lợi thủy sản.

       - Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản của các cơ quan chức năng và chính quyền các cấp.

Chương trình bao gồm 6 dự án ưu tiên:
1. Phục hồi, tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản; bảo tồn các loài thuỷ sản quý, hiếm có giá trị kinh tế và khoa học cao đang bị đe dọa, có nguy cơ tuyệt chủng.

2. Xây dựng mô hình chuyển đổi nghề nghiệp khai thác nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ sang các ngành nghề thích hợp khác ở một số vùng ven biển.

3. Quy hoạch và tổ chức thực hiện việc quản lý các khu bảo tồn biển, bảo tồn thuỷ sản nội địa, các vùng cấm và hạn chế khai thác thuỷ sản.

4. Xây dựng các mô hình quản lý nguồn lợi thuỷ sản với sự tham gia của cộng đồng.

5. Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin dữ liệu về nguồn lợi và môi trường sống của các loài thuỷ sản.

6. Xây dựng và triển khai kế hoạch quốc gia truyền thông về công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản.

Sau 5 năm tổ chức triển khai thực hiện từ Trung ương đến địa phương đã đạt được một số thành công nhất định:

Các mặt đạt được:

a, Về các văn bản, chính sách liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản:

Đã tham mưu, trình Chính phủ, Bộ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công tác bảo vệ nguồn lợi và môi trường sống của các loài thuỷ sản như:

- Nghị định số 59/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04 tháng 5 năm 2005 về điều kiện kinh doanh một số ngành nghề thủy sản.

- Nghị định số 27/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08 tháng 3 năm 2005, hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Thủy sản.

- Nghị định số 66/2005/NĐ-CP, của Chính phủ ngày 19 tháng 5 năm 2005 quy định về đảm bảo an toàn cho người và tàu cá hoạt động thủy sản.

- Nghị định số 82/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10 tháng 8 năm 2006, quy định về quản lý hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, tái xuất khẩu, nhập nội từ biển, quá cảnh, nuôi sinh sản, nuôi sinh trưởng và trồng cấy nhân tạo các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp, quý hiếm.

- Nghị định số 31/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29 tháng 3 năm 2010 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thủy sản.

- Nghị định số 32/2010/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 30 tháng 3 năm 2010 quy định về quản lý hoạt động thủy sản của tàu cá nước ngoài trong vùng biển của Việt Nam.

- Nghị định số 33/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31 tháng 3 năm 2010, quy định về quản lý hoạt động khai thác thủy sản của tổ chức cá nhân Việt Nam trên các vùng biển.

- Nghị định số 52/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/5/2010 về nhập khẩu tàu cá.

- Quyết định số 29/2007/QĐ-TTg ngày 28 tháng 2 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập và quy định về tổ chức, hoạt động của Quỹ tái tạo nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam. Thành lập Quỹ Tái tạo nguồn lợi thủy sản Việt Nam (sau đây gọi tắt là Quỹ) để thực hiện chức năng huy động và tiếp nhận các nguồn lực tài chính cho hoạt động tái tạo và ngăn ngừa sự suy giảm nguồn lợi thủy sản.

- Thông tư 59/2010/TT-BNNPTNT ngày 19/10/2010 Thông tư ban hành danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã thuộc quản lý của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp. trong đó có danh mục các loài thủy sản.

- Thông tư số 02/2006/TT-BTS ngày 20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Trưởng Bộ Thủy sản về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định của Chính phủ số 59/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2005, về điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thuỷ sản.

- Thông tư số 48/2010/ngày 27/8/2010 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 33/2010/NĐ-CP ngày 31/3/2010 của Chính phủ về quản lý hoạt động khai thác thuỷ sản của tổ chức, cá nhân Việt Nam trên các vùng biển.

- Quyết định số 47/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 01/3/2006 về việc phê duyệt “Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên - môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020”

- Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 13/10/2008 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt hệ thống các khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020.

- Quyết định số 485/QĐ-TTg ngày 2/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Bảo vệ các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020;

- Quyết định số 742/QĐ-TTg ngày 26/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch hệ thống các khu bảo tồn biển đến năm 2020.

- Quyết định số 10/2006/QĐ-TTg ngày 11 tháng 01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020.

- Chiến lược phát triển thủy sản đến năm 2020 được phê duyệt tại Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 16/9/2010 trong đó định hướng chuyển dần nghề cá nhân dân thành nghề cá hiện đại. Chính phủ đề xuất nguồn kinh phí khoảng 57.400 tỷ đồng để triển khai thực hiện Chiến lược này.

Nhìn chung các văn bản trên phần nào đáp ứng kịp thời công tác quản lý, bảo vệ nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sản. Nhiều văn bản quy phạm được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác kiểm tra, kiểm soát, xử phạt hành chính các hành vi vi phạm trong khai thác nguồn lợi thủy sản, phá hoại môi trường sinh thái tự nhiên.

Ngoài ra, việc xây dựng các văn bản khác có liên quan do các bộ, ngành khác tham mưu xây dựng và ban hành đã tạo hành lang pháp lý, những định hướng quan trọng, công cụ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, đặc biệt trọng các hoạt động kiểm soát, quản lý cường lực khai thác sử dụng nguồn lợi và các thành phần môi trường sống của các loài thủy sinh vật; ngăn ngừa các hoạt động xâm hại, hủy hoại nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật; bảo vệ các loài thủy sinh quý hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng và bước đầu triển khai các hoạt động phục hồi nguồn lợi, các hệ sinh thái thủy sinh.
b, Xây dựng và triển khai các chương trình, dự án:

Đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt:

- Chiến lược phát triển ngành Thủy sản Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 1690/QĐ-TTg ngày 16/9/2010).

- Đề án "Bảo vệ các loài thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 (Quyết định số 845/QĐ-TTg, ngày 02/5/2008);

- Quy hoạch Hệ thống các Khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020 (Quyết định số 1479/QĐ-TTg, ngày 13/10/2008);

- Quy hoạch hệ thống Khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020 (Quyết định số 742/QĐ-TTg, ngày 26/5/2010)

Các dự án hiện đang trong quá trình triển khai, nhiều khu bảo tồn biển, khu bảo tồn vùng nước nội địa đã tiến hành quy hoạch chi tiết tạo tiền đề cho việc hình thành các khu bảo tồn trong thời gian tới.

c, Công tác điều tra, nghiên cứu, tổng hợp cơ sở dữ liệu:

- Triển khai thực hiện Đề án tổng thể về điều tra cơ bản và quản lý tài nguyên- môi trường biển đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 (Quyết định số 47/QĐ-TTg, ngày 01/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ) bao gồm nhiều tiểu dự án ưu tiên đang triển khai như:

+ Điều tra nguồn lợi hải sản vùng biển Việt Nam;

+ Điều tra nguồn lợi, đa dạng sinh học hệ sinh thái rừng ngập mặn;

+ Điều tra nguồn lợi, đa dạng sinh học hệ sinh thái rạn san hô;

+ Điều tra nguồn lợi, đa dạng sinh học hệ sinh thái cửa sông, ven biển;

+ Điều tra nguồn lợi, đa dạng sinh học hệ sinh thái Đầm phá;

+ Điều tra nguồn lợi, đa dạng sinh học hệ sinh thái cở biển.

Các tiểu dự án đang trong quá trình điều tra, đánh giá hiện trạng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp quản lý nguồn lợi tại các thủy vực tự nhiên.

- Triển khai đánh giá hiện trạng nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt vùng lưu vực sông Mê kông và một số dự án khác liên quan đến công tác điều tra, nghiên cứu cơ bản về thành phần loài, nguồn lợi thủy sản nước ngọt.

- Thu thập, tổng hợp và từng bước hoàn thiện nhiều cơ sở dữ liệu về đa dạng sinh học thủy sinh vật phục vụ cho các hoạt động quản lý nhà nước, trong đó :


  • Dữ liệu về đa dạng sinh học thủy sinh vật ở biển và ven biển phục vụ Quy hoạch hệ thống các Khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020;

  • Dữ liệu về đa dạng sinh học thủy sinh vật của trên 100 vùng nước nội địa phục vụ “Quy hoạch Hệ thống khu bảo tồn vùng nước nội địa đến năm 2020”;

  • Dữ liệu về các loài thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam;

  • Dữ liệu về các loài thủy sinh vật ngoại lai;

  • Duy trì việc thống kê nghề cá thương phẩm, xử lý các dữ liệu điều tra, nghiên cứu nguồn lợi hải sản phục vụ cho công tác Dự báo ngư trường khai thác, đặc biệt dự báo vụ Bắc, vụ Nam cho một số nghề khai thác hải sản chính của Việt Nam.

Tuy nhiên cơ sở dữ liệu trên tương đối cũ và số liệu không nghiên cứu, cập nhật thường xuyên. Các dữ liệu chỉ phục vụ phần nào kết quả đầu vào cho việc đề xuất hình thành các khu bảo tồn, khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản.

Công tác điều tra, nghiên cứu về nguồn lợi thủy sản chủ yếu tập trung tại các Viện nghiên cứu trong ngành và một số trường đại học mang tính chất chuyên ngành. Trong thời gian qua công tác điều tra, nghiên cứu cơ bản ít được đầu tư và triển khai một cách đồng bộ, theo lộ trình nhất định. Các nghiên cứu còn ít và rải rác ở khắp nơi, không tập trung xử lý đồng bộ về dữ liệu dẫn đến việc ứng dụng các chương trình, dự án liên quan đến công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản thu được kết quả không cao.



d, Truyền thông, nâng cao nhận thức:

- Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản bằng nhiều phương thức, loại hình hoạt động, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức cho cộng đồng về bảo vệ nguồn lợi và môi trường sống của các loài thuỷ sinh vật tiếp tục được triển khai trên phạm vi cả nước, đặc biệt trong triển khai thực hiện Chỉ thị 01/1998/CT-TTg ngày 02/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về nghiêm cấm sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thủy sản và dự án "Xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch hành động quốc gia truyền thông về công tác Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản" trong Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản đến năm 2010 (Quyết định số 131). Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền số lượng các vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh đã giảm đáng kể, ở một số địa phương đã có hàng chục ngàn người ký cam kết không vi phạm các quy định về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, và tự nguyện nộp cho cơ quan Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản hàng ngàn công cụ cấm sử dụng.

Thông qua công tác tuyên truyền, nhận thức về việc bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản của cán bộ quản lý các cấp và người dân được nâng cao

e, Thiết lập và quản lý các khu bảo tồn

Hoạt động bảo tồn trong 5 năm qua đã có những kết quả quan trọng, ngoài việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, nhiều hoạt động cụ thể đã được triển khai, trong đó phải kể:


  • Quy hoạch Hệ thống 45 Khu bảo tồn vùng nước nội địa được phê duyệt, trong đó có nhiều khu đã được triển khai quy hoạch và tiến hành các thủ tục thiết lập, quản lý.

  • Quy hoạch hệ thống 16 Khu bảo tồn biển đã được phê duyệt, trong đó một số khu bảo tồn biển đã được thành lập: Vịnh Nha Trang, Cù Lao Chàm, Cồn Cỏ, Phú Quốc, Hòn Cau. Nhiều khu bảo tồn biển khác đang được quy hoạch và thành lập trong 1-2 năm tới.

  • Tiếp tục củng cố, tăng cường công tác quản lý hệ thống các khu vực cấm khai thác có thời hạn.

  • Tiếp nối những kết quả đạt được từ dự án Hỗ trợ mạng lưới các Khu bảo tồn biển Việt Nam, Hợp phần sinh kế bền vững bên trong và xung quanh các khu bảo tồn biển (LMPA) do Chính phủ Đan Mạch tài trợ với mục tiêu nhằm "Khôi phục và bảo vệ các sinh cảnh quan trọng và đa dạng sinh học ở vùng biển và ven biển mà không làm ảnh hưởng đến nhu cầu sinh kế của người nghèo và các cộng đồng dễ bị tổn thương ở xung quanh" cũng đã được triển khai với nhiều hoạt động tại nhiều Khu bảo tồn biển: Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Vịnh Nha Trang (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang), Núi Chúa ( Ninh Thuận), Bái Tử Long ( Quảng Ninh).

  • Với sự hỗ trợ của Chính phủ Đan Mạch, dự án hợp phần "tăng cường năng lực quản lý khai thác thủy sản (SCAFI), trong đó có 9 mô hình quản lý khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản với sự tham gia của cộng đồng đã được triển khai. (Quảng Ninh, Sơn La, Nghệ An, Bình Định, Đắc Lắc, Bên Tre, Cà Mau, An Giang và Thừa Thiên Huế).

Ngoài ra, một số khu bảo tồn biển, bảo tồn vùng nước nội địa quy mô nhỏ ở cấp địa phương, cấp cộng đồng cũng đã và đang được hình thành, như: Rạn Trào- Vạn Ninh, Khánh Hòa; Phù Long Cát Bà- Hải Phòng đồng thời công tác bảo tồn nguồn gen, bảo tồn loài các thủy sản quý hiếm, đang bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng cũng đã được triển khai ở một số cơ quan nghiên cứu như Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I,II, III.

f, Tái tạo, phục hồi và phát triển nguồn lợi thủy sản

Việc tổ chức thả bổ sung giống vào tự nhiên, làm tăng mật độ quần thể của các giống loài thủy sản đã bị khai thác quá giới hạn cho phép cũng đã thành phong trào, được thực hiện tại nhiều địa phương:



  • Thả tôm sú xuống biển, các loại cá nước ngọt xuống các hồ, sông;

  • Công tác di nhập giống thủy sản trong nước và nước ngoài vào Việt Nam bước đầu được kiểm soát, một số loài thủy sản có giá trị, có thể phát triển ở Việt Nam như tôm chân trắng, cá hồi, cá tiểu bạc nhập và nuôi ở nhiều địa phương;

  • Phục hồi một số hệ sinh thái trong đó trồng san hô ở Vịnh Quy Nhơn-Bình Định, Hòn Mun- Khánh Hòa; dự án phục hồi cỏ biển ở Phú Quốc do Quỹ môi trường toàn cầu (GEF) tài trợ và phục hồi rừng ngập mặn, nguồn lợi thủy sản khu vực đầm Thị Nại, Bình Định.

g, Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản

Hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đã có những bước chuyển biến đáng kể, trong đó phải kể đến:

- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án quốc tế về bảo vệ nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật, trong đó có dự án Hợp phần sinh kế bền vững bên trong và xung quanh các khu bảo tồn biển (LMPA); dư án hợp phần tăng cường năng lực quản lý khai thác thủy sản ( SCAFI).


  • Phối hợp với đại diện các Tổ chức quốc tế, các tổ chức NGO tại Việt Nam như IUCN, WF, MCD triển khai nhiều hoạt động về truyền thông, bảo tồn rùa biển, triển khai các mô hình quản lý nguồn lợi thủy sản với sự tham gia của cộng đồng. Kết quả thu được đã góp phần đáng kể vào công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thủy sinh vật tại Việt Nam.

  • Hợp tác với Trung Quốc điều tra, đánh giá lại nguồn lợi hải sản Vịnh Bắc Bộ.

  • Phối hợp với Trung tâm phát triển nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) triển khai nhiều hoạt động, đặc biệt trong việc điều tra nguồn lợi hải sản, trao đổi thông tin và đào tạo, tập huấn kiến thức về quản lý, kiểm soát khai thác thủy sản, quản lý nghề cá quy mô nhỏ và các ứng dụng, chuyển giao công nghệ khai thác thân thiện với môi trường, không gây tổn hại đến nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật.

  • Phối hợp các cơ quan quản lý nhà nước các nước như Mỹ, Na Uy, Malaysia, Philipines tổ chức nhiều lớp tập huấn cho cán bộ quản lý các cấp trong ngành thuỷ sản về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản.

I, Kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản

Mặc dầu có những thay đổi về mặt tổ chức bộ máy, Thanh tra Bảo vệ nguồn lợi thủy sản nhập vào Thanh tra thủy sản (2007), song hoạt động kiểm tra, giám sát, thực thi pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sản vẫn được một số ít địa phương duy trì, với nhiều phương thức phối kết hợp giữa cơ quan bảo vệ nguồn lợi thủy sản với Thanh tra Thủy sản, vì vậy một số hành vi vi phạm pháp luật đã phát hiện và ngăn chặn, xử lý, đặc biệt đối với các nhóm hành vi sử dụng các công cụ khai thác mang tính hủy diệt, góp phần quan trọng bảo vệ nguồn lợi và môi trường sống của các loài thủy sinh vật và giữ môi trường sản xuất, kinh doanh thủy sản trong khuôn khổ pháp luật (khai thác thủy sản phải có giấy phép, các hoạt động sản xuất kinh doanh phải có điều kiện);

Cũng như công tác kiểm tra, thực thi pháp luật, hệ thống tổ chức bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng đã có những biến động đáng kể từ năm cuối năm 2007 đến nay, khi mà thực hiện chủ trương của nhà nước sáp nhập 02 Bộ Thủy sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, thực hiện Thông tư 61/2008/TT-BNN-BNV ngày 15/5/2008, nhiều địa phương đã triển khai, sắp xếp tổ chức lại các Chi cục, trong đó có Chi cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (các tỉnh ven biển), Chi cục thủy sản (các tỉnh nội đồng). Tính đến hết tháng 10/2010, cả nước đã có 51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Hệ thống, nhưng về cơ cấu các phòng ban cũng khác nhau, rất ít hệ thống chi cục dưới địa phương có phòng chuyên môn chuyên trách về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.

Mặc dù được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước nhiều chương trình, dự án đã được phê duyệt để đầu tư cho công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tái tạo và phục hồi các giống loài thuỷ sản, các hệ sinh thái nhưng các chương trình đó vẫn còn nhiều tồn tại và bất cập trong công tác triển khai dẫn đến kết quả đạt được chưa cao.

* Tồn tại:



tải về 411.23 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương