Đề tài Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945



tải về 310.14 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích310.14 Kb.
#12745
  1   2   3

Lịch sử thế giới hiện đại




Đề tài

Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 4

I. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ 5

1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ 5

2. Chính sách cai trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ 8

a) Chính sách về chính trị 9

b) Chính sách về quân sự 10

c) Chính sách về kinh tế 10

d) Chính sách về văn hóa-xã hội 12



II. Chính sách cai trị của thực dân Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và tác động của những chính sách đó đến Ấn Độ 14

III. Đảng Quốc Đại và đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX 18

1. Đảng Quốc Đại và một vài nét về tiểu sử M.Gandhi 18

2. Đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX 19

a) Bất bạo động và Ahimsa (tính bất hại) 20

b) Satya (Đạo/Chân lí) 21

c) Satyagraha (Sức mạnh chân lí) 21

IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945 27

1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1919-1922

27

2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ từ năm 1923-1928 31



* Sự ra đời của các Đảng công nông và sự phát triển của phong trào công nhân-nông dân Ấn Độ 32

3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1929-1939

35

a) Hoạt động đấu tranh của Gandhi và Đảng Quốc Đại 35

b) Hoạt động đấu tranh của Đảng Cộng Sản và công nhân Ấn Độ 38

4. Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) 40

KẾT LUẬN 43

PHỤ LỤC 47

TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 3-SP SỬ 2B_K37 56

MỞ ĐẦU

Thuộc địa là nhu cầu không thể thiếu của các nước thực dân phương Tây trong quá trình phát triển của mình. Chính vì vậy, từ rất sớm các nước lạc hậu ở Á, Phi, Mĩ latinh đã trở thành miếng mồi cho thực dân phương Tây nhòm ngó. Bằng nhiều con đường và phương thức khác nhau mà các nước phương Tây đã lần lượt chinh phục và biến các nước Á, Phi, Mĩ Latinh thành nơi cung cấp nguyên liệu, nhân công, và là thị trường tiêu thụ rộng lớn của mình. Ấn Độ ở Châu Á cũng vậy, là một quốc gia phong kiến lạc hậu, rộng lớn, tài nguyên thiên nhiên phong phú đã trở thành miếng mồi của chủ nghĩa thực dânTây BanNha, Bồ Đào Nha , Pháp…và cuối cùng là Anh. Dưới ách thống trị thực dân, các tầng lớp nhân dân Ấn Độ không ngừng nổi dậy đấu tranh. Nhiều cuộc khởi nghĩa khắp nơi đã nổ ra chống lại thực dân Anh, đồng thời tấn công vào bọn phong kiến. 

Năm 1917, Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kì phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc đại và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia–dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của các chế độ phong kiến, tư bản thực dân, nhất là qua những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc, Ấn Độ cũng không ngoại lệ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào đấu tranh chống thực dân Anh dâng cao mạnh mẽ ở Ấn Độ.

I. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ

         Trước khi Chủ nghĩa tư bản phương Tây xâm lược, Ấn Độ đang trong thời kì suy tàn của Đế quốc đại Môgôn. Chế độ phong kiến vẫn giữ địa vị thống trị trong xã hội, ruộng đất thuộc sở hữu quốc gia phong kiến. Đây cũng là thời kì công xã nông thôn Ấn Độ xuất hiện những mầm mốnga sự tan rã. Là quốc gia đa dân tộc, tôn giáo cho nên mâu thuẫn dân tộc, tôn giáoluôn là vấn đề nóng của Ấn Độ. Những cuộc chiến tranh liên miên giữa các tập đoàn phong kiến càng khơi sâu sự chia rẽ dân tộc và làm suy yếu đất nước cộng với những tập tục lạc hậu, lễ nghi phức tạp đã làm cản trở sự thống nhất Ấn Độ. Dưới thời kì suy tàn của triều đại Môgôn, phong trào đấu tranh của Nhân dân chống lại chế độ phong kiến cùng với sự xâm lược từ bên ngoài đã đánh dấu giai đoạn mạt kì của chế độ phong kiến Ấn Độ. Chính trong bối cảnh đó thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha đã đặt chân lên Ấn Độ và từng bước tiến hành cuộc chiến tranh ăn cướp trên bán đảo Ấn Độ.


1. Quá trình thực dân Anh xâm lược Ấn Độ

Từ thế kỉ XVI, thực dân phương Tây đã dòm ngó và từng bước xâm nhập vào thị trường phương Đông, đặc biệt là Ấn Độ. Sau khi mở con đường biển đến Ấn Độ, Bồ Đào Nha chiếm một số căn cứ quan trọng ở phía Tây Nam. Trong đó, Goa là vị trí quan trọng nhất. Đến nửa sau thế kỉ XVII, Hà Lan đánh bại ưu thế buôn bán của Bồ Đào Nha và cướp được một số vùng trừ Goa, Điu và Đaman ở bờ biển phía tây.

Bằng sức mạnh quân sự, thực dân Anh buộc chính quyền Môgôn trao quyền thiết lập một đại lí tạm thời ở Xu rát, sau chuyển về Bombay. Đến giữa thế kỉ XVII, lập thêm căn cứ Mađrát, Cancutta... Thực dân Pháp xuất hiện vào những năm cuối thế kỉ XVII với các đại lí ở Săngđecnago, Pôngđisêri... Đan Mạch, Thụy Điển, Áo và nhiều nước khác cũng đặt chân lên mảnh đất phì nhiêu này. Các nước châu Âu đều thực hiện âm mưu xâm lược thông qua hoạt động của các công ty Đông Ấn-một tổ chức nắm độc quyền của mỗi nước trong việc buôn bán với phương Đông.

Đến giữa thế kỉ thứ XVII, hoạt động của các công ty được đẩy mạnh, Pháp chiếm được một số ưu thế nhất định ở Ấn Độ: thành lập những đội quân đánh thuê người Ấn (Xipay), đưa quân đi chiếm đóng một số nơi và được bọn phong kiến giúp đỡ, giành được hai vương quốc rộng lớn đó là Haiđerabát và Cacnatich. Điều đó làm cho Anh lo sợ và cố giành quyền bá chủ. Do những cuộc chiến tranh ở châu đã gây ra cuộc chiến giữa Anh và Pháp diễn ra ở Ấn Độ (1746-1763). Kết quả, Pháp thất bại chỉ giữ được vùng Pôngđisêr và 4 thành phố ở vùng ven biển. Tuy nhiên Anh cũng chưa chiếm được nhiều đất đai lắm.
Sau khi chiếm được ưu thế so với các nước phương Tây khác ở Ấn Độ, thực dân Anh tăng cường bành trướng đất đai. Từ Mađrat chúng biến vương quốc Cacnatich thành thuộc quốc. Chúng tăng cường hoạt động ở vùng Bengan, nơi đã đặt được 150 kho hàng và 15 đại lí lớn. Nhưng ở đây chúng gặp phải sự kháng cự quyết liệt của dân chúng Bengan do nhà vua trẻ tuổi Xirat Ut Đôilê đứng đầu. Nghĩa quân đã chiếm được Cancutta, buộc bọn thực dân Anh phải bỏ chạy. Sau đó, Anh điều quân về đàn áp.

Trận Plêxi năm 1757 diễn ra rất ác liệt, bảy vạn quân Bengan chiến đấu ngoan cường bị thất bại. Xirat Ut Đôilê bị bắt và hành hình. Quân Anh tàn phá Bengan, cướp đoạt nhiều tiền bạc, đốt cháy nhà cửa của nhân dân. Sự đàn áp dã man đã gây nên sự căm phẫn trong nhân dân. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra ở nhiều thành phố thuộc Bengan được sự ủng hộ của vương quốc láng giềng Aođơ và đội quân Apganixtan từ Đêli tới. Nhưng lực lượng nghĩa quân bị thất bại. Công ty Đông Ấn của anh giành được quyền thu thuế, đóng quân, lập tòa án và thiết lập bộ máy cai trị trên mảnh đất rộng lớn nhất của Ấn Độ. Vương quốc Aođơ cũng bị lệ thuộc vào Ấn Độ. 

Ở phía Nam, vương quốc Haiđerabat khá rộng lớn bị Anh chinh phục.
Ở phía Tây, bọn thực dân từ Bombay định bành trướng ra vùng xung quanh. Thấy rõ nguy cơ mất nước, nhà vua Haiđa Ali của vương quốc Maixuya tập hợp lực lượng kháng chiến. Sau khi Haiđa Ali chết, con trai Tipu lên ngôi vẫn tiếp tục kháng chiến, kêu gọi sự thống nhất của các vương quốc Ấn Độ và chiến đấu rất ngoan cường. Nhưng thực dân Anh xảo quyệt lôi kéo các vương quốc xung quanh, cô lập Maixuya, tiến hành áp bức buộc Tipu phải kí hòa ước năm 1792 cắt một nửa lãnh thổ cho công ty Đông Ấn. Đến năm 1796, chúng nổ súng tấn công vào phần đất còn lại của Maixuya và chinh phục hoàn toàn vương quốc này, Tipu bị tử trận.

Như vậy, đến cuối thế kỉ XVIII, những vùng đất giàu có nhất của Ấn Độ như Bengan, các nước xung quanh và toàn bộ miền Nam rơi vào tay thực dân Anh.
Song song với quá trình xâm lược, thực dân Anh nhanh chóng đặt ách thống trị ở Ấn Độ. Cơ quan có toàn quyền cai trị ở đây là công ty Đông Ấn. Các chính khách, bọn con buôn và tập đoàn thống trị ra sức củng cố địa vị trong công ty qua đó để tăng cường bóc lột Ấn Độ. Năm 1773, Nghị viện Anh thông qua về đạo luật cai trị Ấn Độ, quy định tổng đốc của công ty ở Cancutta đồng thời giữ chức toàn quyền trên toàn bộ lãnh địa Anh ở Ấn Độ. Viên toàn quyền cùng với một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định nắm quyền hành chính, bên cạnh có một tòa án tối cao. Đồng thời ở London thiết lập một hội đồng kiểm soát các công việc của công ty ở Ấn Độ do nhà vua chỉ định bao gồm một số thành viên của nội các.

Tính chất của sự bóc lột trong thời kì này tương ứng với thời kì tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản Anh. Cho nên thủ đoạn bóc lột chủ yếu là thu thuế và vơ vét. Việc buôn bán giữa Anh và Ấn Độ được tiến hành theo một tỉ lệ thu thuế chênh lệch khá nghiêm trọng: hàng từ Ấn Độ sang Anh đánh thuế gấp 10 lần hàng từ Anh sang Ấn Độ. Hậu quả tất nhiên của sự cướp bóc đó là tình trạng ngày càng khổ của nhân dân Ấn Độ. Nạn đói xảy ra liên tiếp, riêng năm 1770 đã có tới 10 triệu người chết đói.

Ở Ấn Độ, thế kỉ XIX được bắt đầu bằng việc mở rộng chiến tranh xâm lược của thực dân Anh và những cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân. Năm 1806, các trung đoàn Xipay nổi dậy ở Benlua. Năm 1816, binh lính Ấn khởi nghĩa ở Bombay. Đông đảo quần chúng nông dân đứng lên chống Anh ở khắp nơi. Xe6it Acmet Barenvi (1786-1831) đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của những người theo đạo Hồi, lập căn cứ biên giới phía tây bắc. Cấp tiến hơn là phong trào của Đađu Mian ở Bengan vừa chống thực dân Anh vừa chống bọn quý tộc phong kiến. Nhưng do tính chất phân tán, thiếu tổ chức và sự hạn chế về thành kiến về tôn giáo nên phong trào bị thất bại.

Để hoàn thành mưu đồ xâm lược, thực dân Anh chĩa mũi nhọn chủ yếu vào các vương quốc của người Marat ở miền Trung Ấn Độ. Ngay từ đầu, nhân dân Marat đã đứng lên đấu tranh chống xâm lược một cách kiên quyết. Nhưng tình trạng cát cứ phong kiến, chiến tranh liên tiếp giữa các vương quốc, sự thiếu năng lực lãnh đạo và mâu thuẫn gay gắt trong các tập đoàn phong kiến tạo nên thời cơ thuận lợi cho thực dân Anh. Cuộc chiến tranh năm 1803-1805 đem lại cho Anh thêm những phần đất ở miền Trung và ngay thủ đô Đeli cũng bị thất thủ. Đến năm 1817, vương quốc Marat hoàn toàn bị chinh phục. Từ đó thực dân Anh tiếp tục bành trướng ra xung quanh và bán đảo Ấn Độ chỉ còn lại một quốc gia độc lập là Penjap.

Đầu thế kỉ XIX, do nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường sức mạnh chống ngoại xâm, khuynh hướng xây dựng một quốc gia tập quyền thể hiện rõ ở Penjap. Ranjit Xinh là người hoàn thành nhiệm vụ đó với một chính quyền mạnh mẽ, một quốc gia thống nhất, một đội quân hùng mạnh được nhân dân ủng hộ. Tuy nhiên trong quá trình phát triển quyền lực và mở mang bờ cõi, Penhap không tránh khỏi mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và bọn phong kiến ngày càng gay gắt, mâu thuẫn dân tộc giữa người Xích với các dân tộc bị chinh phục như người Casomi, người Patan... và mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị.

Sau khi Ranjit Xinh chết (1839), cuộc tranh chấp giữa các thế lực phong kiến bùng nổ. Quân đội Penjap đã nhanh chóng chặn đứng những âm mưu phản động. Năm 1841 họ nổi dậy giết bọn sĩ quan phản động, thành lập những ủy ban do họ cử ra gồm 5 người gọi là “pantraiat”. Pantraiat ỏ thủ đô Laho đã giành quyền kiểm soát những hành động cùa chính phủ.

Bọn phong kiến Penjap lo sợ trước sức mạnh của quần chúng nhân dân và hoạt động của pantraiat đã cấu kết với thực dân Anh là kẻ đang muốn thôn tính vùng đất cuối cùng của Ấn Độ. Cuối năm 1845, quân đội và nhân dân Penjap chiến đấu dũng cảm chống bọn thực dân Anh. Nhưng do sự phản bội của bọn phong kiến, trong đó bọn sĩ quan cao cấp đã trao cho địch kế hoạch quân sự nên nghĩa quân bị thất bại. Penjap trở thành thuộc quốc của Anh. Năm 1848, nhân dân Penjap kiên cường chống lại Anh, giành được thắng lợi ban đầu, nhưng sau đó bị thất bại.

Đến năm 1849, thực dân Anh đã hoàn thành việc xâm chiếm toàn bộ lãnh thổ Ấn Độ.
2. Chính sách cai trị của thực dân Anh đối với Ấn Độ

Với tầm quan trọng của thuộc địa Ấn Độ nên thực dân Anh đã thực hiện chính sách cai trị một cách toàn diện và hệ thống về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…Mục đích cao nhất của những chính sách của Anh là để bóc lột được nhiều nhất nước này.
a) Chính sách về chính trị

Sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, thực dân Anh thi hành một số biện pháp củng cố và tăng cường ách thống trị của chúng. Thời kì đầu Anh dùng công ti Đông Ấn thay mặt Chính phủ Anh toàn quyền cai trị và bóc lột Ấn Độ. Công ti Đông Ấn là một thứ “nhà nước trá hình trong một hội buôn”. Năm 1773, Quốc hội Anh đã bổ nhiệm một viên toàn quyền người Anh trông coi Ấn Độ và từ những năm 30 của thế kỉ XIX, Chính phủ Anh đã dần không chế công ti Đông Ấn. Năm 1858, Nghị viện Anh ra lệnh giải tán hoàn toàn công ty Đông Ấn và đặt Ấn Độ dưới quyền cai trị trực tiếp bởi chính phủ. Thay mặt chính phủ Anh ở Ấn Độ là một viên Phó vương với một hội động điều hành gồm 5 ủy viên, có quyền lực như một chính phủ. Quyền lập pháp cũng ở trong tay Phó vương và một hội đồng cố vấn 12 người.

Để lôi kéo bọn phong kiến, chúng tuyên bố tôn trọng quyền lợi, danh dự, tài sản và các đặc quyền của bọn phong kiến. Đây là một hành động nhằm hợp pháp hóa chế độ đẳng cấp và các tàn dư trung cổ lỗi thời, khơi sâu sự cách biệt về chủng tộc và tôn giáo trong xã hội Ấn Độ. Năm 1877, nữ hoàng Anh Victoria chính thức tuyên bố lên ngôi vua ở Ấn Độ trong một buổi lễ có đông đảo quý tộc người Ấn tham gia. Nó đánh dấu bước hoàn thành việc chinh phục Ấn Độ thành thuộc địa của Anh và bộc lộ rõ thái độ quy phục của giai cấp phong kiến Ấn Độ.

Sự thống trị của người Anh đã biến triều đại phong kiến Môgôn trở thành bù nhìn và quyền lực thực tế nằm trong tay viên toàn quyền người Anh. Người Anh đã triệt để lợi dụng sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, và các tiểu quốc để thực hiện chính sách “chia để trị”.

Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857-1859), chính quyền Anh xoá bỏ hoàn toàn triều đại phong kiến Môgôn, giải thể công ty Đông Ấn và trực tiếp cai trị Ấn Độ. Thay mặt chính phủ là một phó vương người Anh với một Hội đồng gồm 5 uỷ viên có chức năng như một Chính phủ. Ngày 1/1/1874, Nữ hoàng Anh tuyên bố đồng thời là nữ hoàng Ấn Độ. Như vậy, Ấn Độ chính thức trở thành một bộ phận trong đế quốc Anh.

b) Chính sách về quân sự

Với chính sách dùng người bản xứ đánh người bản xứ, thực dân Anh đã chú trọng xây dựng lực lượng đội quân người Ấn. Từ 1746, Anh đã thành lập đội quân người bản xứ Ấn độ đầu tiên và được gọi là “Xipay”. Năm1830, đội quân này lên tới 225.000 người. Sau cuộc khởi nghĩa Xipay (1857-1859), để ngăn chặn người Ấn nổi dậy, thực dân Anh cũng cho tổ chức lại quân đội với thành phần và vai trò của người Anh trong quân đội được tăng cường với tỉ lệ từ 1/6 lên 1/2 hoặc 1/3, thường cứ 2 đến 8 lính Ấn thì có một lính Anh. Pháo binh và các ngành kĩ thuật trong tay thực dân Anh.


c) Chính sách về kinh tế

Ngay từ khi đặt chân lên Ấn Độ, công ty Đông Ấn đã tiến hành cướp bóc và của cải ùn ùn chảy về Anh. “Theo tính toán của các nhà kinh tế Ấn Độ, từ năm 1757 đến 1870, người Anh đã lấy đi của Ấn Độ một khối lượng tiền, của trị giá 38 triệu bảng Anh” . Người Anh đã bóc lột Ấn Độ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, công thương nghiệp…

Trong nông nghiệp, người Anh đã đặt ra nhiều chính sách nhằm bóc lột tối đa. Đặc biệt là chính sách Daminđa được áp dụng vĩnh viễn từ năm 1793. Với chế độ này, người thầu có quyền sử dụng đất đai thu thuế cũng như đất đai công xã. Tình hình đó đã dẫn đến hậu quả thủ tiêu các quan hệ ruộng đất và quyền thừa kế ruộng đất trong các công xã nông thôn Ấn Độ. Các Daminda trở thành những địa chủ mới với quyền hành phong kiến trước kia. Trong số thuế thu được thì phải nộp cho Anh đến 9/10 nên để có thêm cho mình các Daminda phải tăng cường bóc lột nhân dân. Chính sách bóc lột của Anh đã dẫn đến hậu quả người nông dân Ấn Độ ngày càng điêu đứng. Kết quả của sự bóc lột đó là 26 triệu người chết đói trong 25 năm cuối của thế kỉ XIX. Đây là những minh chứng tố cáo chế độ thuộc địa của thực dân Anh.

Trong công thương nghiệp, chính phủ Anh dùng mọi biện pháp để vơ vét bóc lột nguyên liệu tiền của phục vụ cho nền công nghiệp Anh, biến Ấn Độ thành nơi tiêu thụ hàng hóa cho công nghiệp Anh. Nguyên liệu như tơ, bông thô, lông cừu ở Ấn Độ nối nhau chảy về Anh giúp cho cuộc cách mạng công nghiệp ở nước này, để rồi máy móc Anh lại biến nó thành vải đưa trở lại Ấn Độ. Ngành dệt vải có tiếng của Ấn Độ đã bị bóp chết, hàng vạn thợ thủ công bị phá sản.

Ấn Độ dần trở thành một thị trường tiêu thụ quan trọng nhất của nền công nghiệp Anh. Trong 10 năm từ 1873-1883, thương mại giữa Anh và Ấn Độ tăng 60% trong khi thương mại giữa Anh, Pháp và Đức chỉ tăng 7%. Ấn Độ phải tăng cường cung cấp lương thực và nguyên liệu cho Anh. Chỉ trong vòng nửa sau thế kỉ XIX, số lượng lương thực xuất khẩu tăng lên hơn 10 lần thì số người dân Ấn Độ chết đói tăng lên gần 40 lần.

Tài chính của Ấn Độ cũng hoàn toàn lệ thuộc Anh. Ngân hàng LuânĐôn cho Chính phủ Anh ở Ấn Độ vay từ 4 triệu bảng lên 133 triệu trong nửa sau thế kỉ XIX. Số tiền đó thực dân Anh tập trung vào đầu tư ở các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xí nghiệp chế biến… Năm 1848- 1849, Anh bắt đầu xây dựng hệ thống đường sắt và đường bộ. Xây dựng nhà máy dệt ở Bom bay, nhà máy đay ở Băng gan, ….Thực chất đây không phải là Anh đầu tư phát triển công nghiệp Ấn Độ mà mục đích chính là để tạo điều kiện vật chất nhằm mở rộng khai thác nguồn tài nguyên giàu có của đất nước này.

Cuộc cải cách tài chính năm 1893-1899 với đồng Rupi vàng và việc mở mang hệ thống ngân hàng Anh làm cho nền tài chính Ấn Độ phụ thuộc hoàn toàn vào Anh. Ấn Độ còn là thị trường đầu tư của tư bản Anh. Ban đầu, hình thức xuất vốn là cho vay. Từ năm 1856-1900, ngân hàng Lodon cho bọn cầm quyền Anh ở Ấn Độ vay tăng từ 4 triệu lên 133 triệu livrơ để chi phí vào bộ máy hành chính và quân đội, vào những cuộc chiến tranh ăn cướp vào các nước phương Đông. Toàn bộ món nợ và số lãi đều đè lên vai nhân dân các nước thuộc địa.

Một phần vốn xuất cảng được dùng vào việc xây dựng đường sắt và các phương tiện giao thông liên lạc để tạo điều kiện khai thác và vận chuyển nguyên liệu ra bến cảng đưa về Anh. Những đường tàu kéo dài đến vùng hẻo lánh còn có ý nghĩa quan trọng đối với việc chuyển quân nhanh chóng, kịp thời đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Đến năm 1891, đường sắt Ấn Độ dài 28.000km. Một số xí nghiệp công nghiệp bắt đầu được xây dựng, chủ yếu là những ngành vải sợi, chế biến nguyên liệu địa phương như đay, bông...

Việc tăng cường xuất cảng nguyên liệu làm cho tính chất hàng hóa nông nghiệp thêm đậm nét. Nhiều vùng được chuyên môn hóa sản xuất: Bengan trồng đay, Bombay và Trung Ấn trồng bông, Atxam trồng chè, Mađrat trồng cây có dầu, Penjap trồng tiểu mạch. Tính chất hàng hóa nông nghiệp tăng lên trong điều kiện chế độ sở hữu về ruộng đất phong kiến vẫn được duy trì, bãi chăn nuôi, đất đai và rừng của công xã bị chiếm đoạt, nợ nần chồng chất buộc người nông dân phải gán mảnh đất cuối cùng của mình và chịu lĩnh canh với điều kiện nộp tô đến 60% hoa lợi. Tình trạng đó sẽ dẫn tới chỗ sức sản xuất thấp kém, đời sống nông thôn khốn quẫn, nạn đói trở thành một điều tất yếu.

d) Chính sách về văn hóa-xã hội

Thực hiện nền văn hoá giáo dục ngu dân nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị và bóp chết nền văn hoá dân tộc Ấn Độ. Họ mở một số trường trung học với tiêu chí là “cải cách giáo dục” nhưng thực chất là để đào tạo đội ngũ tay sai. Chỉ một số ít con em nhà giàu theo học để phục vụ cho chính quyền Anh còn lại đa số người dân Ấn Độ bị mù chữ. Chính phủ Anh luôn duy trì sự phân chia đẳng cấp để gây mâu thuẫn giữa các tầng lớp giai cấp ở Ấn Độ, khuyến khích những tập quán cổ xưa phản động của tôn giáo Ấn Độ và tích cực truyền bá đạo Thiên Chúa vào Ấn Độ. Tất cả mọi hành vi chống đối lại đạo Thiên Chúa đều bị đàn áp.

Với chính sách cai trị về văn hoá xã hội như vậy đã dẫn đến hậu quả đưa xã hội Ấn Độ vào vòng ngu tối và tạo nên một tầng lớp tay sai đắc lực cho chúng để dễ bề cai trị.

Những chính sách khai thác của thực dân Anh cũng đã làm cho xã hội Ấn Độ có chuyển biến mạnh mẽ. Đó là sự phân hoá giai cấp trong xã hội ngày càng sâu sắc, cơ cấu giai cấp thay đổi. Trước hết, đó là sự hình thành hai giai cấp cơ bản của xã hội hiện đại, giai cấp tư sản và vô sản. Tư sản Ấn Độ có nguồn gốc từ các Damindar, người cho vay lãi, thương gia và các vương công. Mặc dù bị sự chèn ép nhiều mặt của tư bản Anh nhưng về cơ bản tư sản Ấn Độ đã trưởng thành khá nhanh chóng và vững chắc vào nửa sau thế kỷ XIX với việc xây dựng được một nền công nghiệp dân tộc và có một vị thế không thể chối cãi đối với sự phát triển của Ấn Độ (Trong số 35,5 triệu bảng Anh vốn cổ phần vào năm 1898, ít nhất có 10 triệu bảng là thuộc về người Ấn).

Như vậy, cho đến giữa thế kỉ XIX, thực dân Anh đã hoàn thành cuộc xâm lược Ấn Độ. Sự áp bức, bóc lột nhân dân đè nặng lên nhân dân Ấn Độ. Nền độc lập của Ấn Độ bị chà đạp, quyền lợi sống còn của đại bộ phận dân tộc bị đe doạ. Mâu thuẫn cơ bản nổi lên hàng đầu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Ấn Độ với thực dân Anh xâm lược. Nhiệm vụ của cả dân tộc Ấn Độ là phải đứng lên đánh đuổi thực dân Anh giành độc lập dân tộc.

Ngay trong buổi đầu của công cuộc chinh phục Ấn Độ thực dân Anh đã phải đón nhận những đợt giông tố ập tới đó là những cuộc khởi nghĩa chống xâm lược diễn ra sôi nổi vào các năm 1807 ở Đêli, những năm 1813 và 1831 ở Bắc Xinêcara, 1817 - 1818 ở Ôritxa, 1825 - 1829 ở Maixo, 1846 - 1847 ở Cacnan, 1844 ở BomBay,.. Tuy nhiên những cuộc khởi nghĩa này đều mang tính tự phát, thiếu một tổ chức chặt chẽ, thiếu một đường lối và phương pháp đấu tranh phù hợp, cho nên dù rất quyết liệt song cuối cùng đều thất bại và bị đàn áp đẫm máu.

Yêu cầu lịch sử dân tộc đang đặt ra cho nhân dân Ấn Độ, cho các giai cấp tiên tiến phải lựa chọn con đường đấu tranh đúng đắn, phải có một đường lối cách mạng phù hợp để lãnh đạo phong trào đấu tranh đi đến thắng lợi.

Có thể nói rằng, trong một đất nước rộng lớn đông dân và nhiều thành phần dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo đa dạng và vấn đề đẳng cấp phức tạp như Ấn Độ thì việc đoàn kết toàn dân, "thức tỉnh" ý thức dân tộc có ý nghĩa quyết định thắng lợi cho một cuộc đấu tranh giành độc lập dân téc. Đặc biệt vấn đề đó càng quan trọng hơn khi ở Ấn Độ, Anh đã thi hành " mét chính sách trên thực tế đã nuôi dưỡng và kéo dài những sự chia rẽ và lạc hậu của một dân tộc bị nô dịch". Trong đó, thực dân Anh luôn lợi dụng tình trạng chia rẽ bất đồng giữa người Hinđu và người Hồi giáo. Vì thế yêu cầu của lịch sử Ấn Độ để đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân Anh phải đoàn kết yếu tố cộng đồng thống nhất. Đó cũng chính là một thách thức lịch sử của nhân dân Ấn Độ.


II. Chính sách cai trị của thực dân Anh trong Chiến tranh thế giới thứ nhất và tác động của những chính sách đó đến Ấn Độ

          Nền thống trị của Anh ở Ấn Độ hết sức đặc biệt, một mặt làm cho đời sống nhân dân ngày càng trở nên bần cùng, song mặt khác, nó đã tạo ra những thay đổi lớn lao trong xã hội Ấn Độ. Kinh tế tư bản chủ nghĩa xâm nhập vào các cộng đồng, liên kết người dân Ấn Độ thành một khối trong ý thức dân tộc, giai cấp tư sản Ấn Độ ngày càng lớn mạnh, vươn lên lãnh đạo cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc thông qua chính đảng của nó-Đảng Quốc Đại. Cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ càng trở nên mạnh mẽ hơn kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

         Năm 1914, chiến tranh bùng nổ ở châu Âu và nhanh chóng trở thành cuộc chiến tranh thế giới. Sự tuyên chiến của nước Anh đế quốc với chủ nghĩa quân phiệt Đức đã đưa Ấn Độ vào hàng ngũ các nước tham chiến, trong phe Anh. Từ đó cuộc chiến tranh đã trực tiếp tác động đến đời sống xã hội Ấn Độ nói chung, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ nói riêng. 

Trong chiến tranh, đế quốc Anh đã tìm mọi cách huy động sức người, sức của của Ấn Độ nhằm phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc của chúng. Chúng đã cướp đi của nhân dân Ấn Độ 36 triệu tấn trang thiết bị vật tư các loại, 5 triệu tấn lương thực và 1,5 triệu người. Điều này làm cho đời sống người dân càng trở nên cùng cực. Trong những năm 1918-1919 hơn 12 triệu người Ấn Độ bị chết đói.

Sự bần cùng hoá đời sống nhân dân làm cho làn sóng công phẫn dâng lên khắp nơi. Do vậy, thực dân Anh đã áp dụng một chế độ cai trị hà khắc được quy định bằng “Đạo luật phòng thủ Ấn Độ” (Defence of India Act) vào năm 1915. Dựa vào Đạo luật này chính quyền thực dân đã bỏ tù hàng loạt những người yêu nước Ấn Độ mà không cần thông qua điều tra hay toà án. Những chính sách này đã làm cho “Nỗi lo âu của quần chúng nhân dân tăng lên trong khắp Ấn Độ, cuộc sống ra khỏi những nề nếp bình thường và thật là khó khăn để nhìn về tương lai với một hy vọng nào đó”.

Sự bóc lột và thống trị hà khắc của chính quyền thực dân Anh làm cho ý thức dân tộc nhanh chóng phát triển ở Ấn Độ. Đây chính là cơ sở để Đảng Quốc Đại có điều kiện đưa cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị Ấn Độ lên một giai đoạn mới và đây cũng là nguyên nhân để thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của quần chúng nhân dân Ấn Độ ngay sau khi chiến tranh kết thúc.

Bên cạnh việc tăng cường vơ vét sức người, sức của của Ấn Độ và trấn áp quần chúng nhân dân, thực dân Anh đã thực hiện những nhượng bộ nhất định với tư sản Ấn Độ. Có thể nói, chiến tranh đã đẩy nhân dân Ấn Độ vào cuộc sống khốn cùng, nhưng mặt khác nó đã kích thích sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp Ấn Độ, đặc biệt là các ngành công nghiệp phục vụ chiến tranh. Các nhà máy luyện kim Tata đã trở thành cơ sở luyện kim chủ chốt của cả nước nhờ nhận được nhiều đơn đặt hàng từ chính quốc.

Cùng vào thời kỳ này sự thâm nhập của tư bản nước ngoài, đặc biệt là Mỹ và Nhật, vào Ấn Độ, ngày càng được tăng cường. Gánh nặng của cuộc chiến tranh làm cho nước Anh không còn đủ sức ngăn cản các nhà tư bản độc quyền của các nước đế quốc khác. Vì vậy, tư sản Anh quyết định lôi kéo tư sản Ấn Độ về phía mình, bảo vệ nó khỏi sự cạnh tranh với các đế quốc khác. Do đó, chính sách kinh tế của Anh buộc phải khôi phục lại đáng kể nền kinh tế Ấn Độ, phát triển công nghiệp dân tộc, tăng cường vị trí của tư sản Ấn Độ. Chính phủ Anh đã tuyên bố:



  1. Nếu Ấn giúp Anh đánh Đức, sau chiến tranh Anh sẽ để cho người Ấn tổ chức lấy chính phủ tự trị .

  2. Từ năm 1916, mức thuế nhập cảng bông sẽ giảm xuống còn 3%.

Với sự nhượng bộ của thực dân Anh, “giai cấp tư sản Ấn Độ đã thu được rất nhiều lợi. Tính ra đến năm 1917 số vải Ấn Độ bán ra ngoài có tới 94,6 % là vải do các nhà máy của người ấn làm ra (trước chiến tranh chỉ có 42% và ít hơn nữa)”.

Sự nhượng bộ của chính phủ Anh với tư sản Ấn Độ không chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế mà cả lĩnh vực chính trị. Lord Harding–người thay Minto giữ chức Phó vương Ấn Độ–ngay từ những ngày trước Chiến tranh thế giới thứ nhất đã quyết định đưa ra những lời hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho Ấn Độ, với điều kiện Ấn Độ phải tăng cường sự giúp đỡ vào cuộc chiến tranh của nước Anh. Thủ tướng Anh cũng đưa ra những hứa hẹn chính trị cho Ấn Độ theo hướng này. Đúng như K.R.Bomwall, trong cuốn Indian polities and government (Since 1885), đã nhận xét khi nghiên cứu tình hình chính trị Ấn Độ trong thời gian chiến tranh: Ngay trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, chính sách của Anh đối với Đảng Quốc Đại và các lãnh tụ của nó đã trở nên mềm mỏng hơn.

Việc chính quyền thực dân thay đổi thái độ đối với tư sản Ấn Độ, trao cho nó những quyền lợi kinh tế và những lời hứa hẹn chính trị là nhằm mục đích giữ vững sự kiểm soát Ấn Độ trong thời gian chiến tranh và thời kỳ bất ổn định sau chiến tranh. Nước Anh muốn có một hậu phương ổn định để tiến hành chiến tranh và nó đã đưa ra những nhân nhượng và cải cách kinh tế, chính trị nhằm tạo ra khả năng tư sản Ấn Độ hứa hẹn trước sự giúp đỡ của mình đối với nước Anh. Chính sự nhượng bộ này từ phía chính quyền Anh đã mở ra một con đường cho các lãnh tụ Đảng Quốc Đại trong cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị cho Ấn Độ. Họ hy vọng rằng nước Anh sẽ trao quyền tự trị cho Ấn Độ sau khi chiến tranh kết thúc nếu như Ấn Độ giúp đỡ cho nước Anh chiến thắng trong cuộc chiến tranh này. Không chỉ những người ôn hoà mà ngay cả những lãnh tụ cực đoan của Đảng Quốc Đại cũng đã tin tưởng, hy vọng điều này. B.G.Tilak đã viết trên tờ Maharatta rằng: “Nghĩa vụ của mọi người Ấn, dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, là ủng hộ giúp đỡ Chính phủ của Bệ hạ với khả năng tốt nhất của mình” và tư tưởng của ông là nhấn mạnh tầm quan trọng của tự trị vào thời điểm Ấn Độ được đền đáp trước “sự phục vụ huy hoàng” cho Đế quốc Anh. A. Besant cũng đã nhìn thấy trong hoàn cảnh chiến tranh một cơ hội để nhấn mạnh lại một lần nữa đối với quyền Ấn Độ về tự trị… Chính những tư tưởng này sẽ góp phần giải thích vì sao trong những năm chiến tranh Đảng Quốc Đại Ấn Độ đã cổ động tích cực cho sự giúp đỡ Đế quốc Anh.

Vấn đề tự trị (Swaraj) đã được Đảng Quốc Đại Ấn Độ xem là một trong những nhiệm vụ chính trị cơ bản của Đảng từ năm 1906. Tuy nhiên, khái niệm tự trị ở đây mang nặng ý nghĩa của việc tiến hành cải cách từng phần bộ máy chính quyền hiện hành, đồng thời sự suy yếu của Đảng Quốc Đại do bị chia rẽ làm cho vấn đề tự trị chỉ là vấn đề nằm trên giấy tờ trong những năm tiếp theo. Khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra, cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị của Đảng Quốc Đại đã trở nên sôi động hơn dưới tác động của những nhân tố mới, đặc biệt là thông qua Phong trào tự trị (Home rule Movement). Việc thực dân Anh đưa ra những hứa hẹn chính trị và tiến hành một số nhượng bộ về chính trị và kinh tế cho người ấn trước hết là để huy động tối đa sức người và sức của của Ấn Độ, phục vụ cho cuộc chiến tranh đế quốc, sau đó là để giữ Ấn Độ–một hậu phương quan trọng của Anh được yên ổn. Chính những hứa hẹn và nhượng bộ này đã gợi ra cho các lãnh tụ phong trào dân tộc Ấn Độ một cách thức, một con đường để đạt đến nền tự trị cho dân tộc, đó là giúp cho nước Anh thắng trận và chuẩn bị tiếp nhận nền tự trị sau khi chiến tranh kết thúc.

Dù rằng con đường đó, cách thức đó phản ánh sự “ngây thơ” của tư sản Ấn Độ và nó đã không đem lại hiệu quả thực tiễn nhưng cuộc đấu tranh này có một ý nghĩa lớn trong cuộc đấu tranh vì tự trị của dân tộc Ấn Độ. Trên cơ sở cuộc đấu tranh này, năm 1920 M.Gandhi đã kế thừa để đề ra đường lối mới cho dân tộc: Huy động quần chúng nhân dân tiến hành đấu tranh đòi quyền tự trị trên cơ sở bất hợp tác, bất bạo động. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, đường lối bất hợp tác, bất bạo động của Gandhi vẫn tuân thủ theo nguyên tắc sử dụng các biện pháp hòa bình và hợp pháp.

Cuộc đấu tranh đòi quyền tự trị của nhân dân Ấn Độ trong những năm Chiến tranh thế giới lần thứ nhất đã có bước phát triển mới về quan niệm, khái niệm tự trị được mở rộng thêm. Đúng như A. Bessant, một lãnh tụ của Đảng Quốc Đại đã viết trong số báo đầu tiên trên tờ New India, ra ngày 14/7/1914, rằng: Từ Swaraj (tự trị) vào năm 1906 có nghĩa là thực hiện cải cách từng phần, còn từ Home rule (tự trị) trong những năm chiến tranh có nghĩa là yêu cầu quyền tự trị, “từ Home rule đã được sử dụng như một khẩu hiệu quần chúng với ý nghĩa là điều khiển cuộc đấu tranh không chống lại nước Anh và vì sự tự do trong thành phần của Đế quốc”.



III. Đảng Quốc Đại và đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX

1. Đảng Quốc Đại và một vài nét về tiểu sử M.Gandhi

Qua nhiều thế kỉ bị chinh phục, nhân dân Ấn Độ không ngừng đấu tranh giành độc lập dân tộc nhưng trong buổi đầu các phong trào đấu tranh ấy đều bị đàn áp thất bại. Phải đến năm 1885, khi Đảng Quốc đại của giai cấp tư sản ra đời và đặc biệt đến những năm 1917-1920 với sự xuất hiện của Gandhi thì phong trào giải phóng dân tộc mới có đường lối đúng đắn phù hợp và kết quả là đã giành độc lập vào năm 1947.

Năm 1885, Đảng Quốc Đại ra đời theo "ý muốn" của chính quyền thực dân nhưng ngay 10 năm sau đó nó đã bắt đầu nói tiếng nói của riêng mình và đến những năm 1917-1920, nó đã có một đường lối chính trị vững chắc-đó là chủ nghĩa Gandhi.

Lòng căm thù của nhân dân lao động Ấn Độ đối với ách ngoại xâm đã tạo nên những khả năng để Đảng Quốc Đại hướng họ vào mục đích đấu tranh của mình. Đường lối chính trị của M.Gandhi dần dần chi phối hoạt động của Đảng Quốc Đại. Điều này được thể hiện tại Hội nghị thường niên của Đảng họp vào tháng 12/1920 ở Nagpur. Tuy nhiên còn cần phải thấy rằng: "Đảng Quốc Đại bị chi phối bởi M.Gandhi, nhưng đó chỉ là sự chi phối đặc biệt, vì Đảng Quốc Đại là một tổ chức hành động, bạo loạn, mang nhiều sắc thái rất khác nhau" . Mặc dù vậy, thông qua Đảng Quốc Đại, đường lối đấu tranh của M.Gandhi đã được nhân dân Ấn Độ tiếp nhận và nó đã góp phần tạo nên con đường riêng của Ấn Độ trong cuộc đấu tranh đòi độc lập dân tộc.

Dưới sự thúc đẩy của Gandhi, Đảng Quốc Đại đã trở thành một chính đảng có hệ thống tổ chức ở Trung ương và khắp các địa phương, trở thành một chính đảng mang tính quần chúng có người thành thị và người thôn quê tham gia; sự đấu tranh từ trong vòng nhỏ hẹp của các phần tử tầng lớp trên đã mở rộng ra đến quảng đại quần chúng.

Mahātmā Gāndhī (2/10/1869–30/1/1948), nguyên tên đầy đủ là Mohandas Karamchand Gandhi (Devanagari: मोहनदास करमचन्द गांधी; Gujarati: મોહનદાસ કરમચંદ ગાંધી), là anh hùng dân tộc Ấn Độ, đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân. Trong suốt cuộc đời, ông phản đối tất cả các hình thức khủng bố bạo lực và thay vào đó, chỉ áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức tối cao.

Từ lúc lãnh đạo cuộc đấu tranh giành tự do và đứng đầu Đảng Quốc dân Đại hội Ấn Độ (Indian National Congress) năm 1918, ông được hàng triệu dân Ấn Độ gọi một cách tôn kính là Mahātmā, nghĩa là "Linh hồn lớn", "Vĩ nhân" hoặc "Đại nhân". Danh hiệu có gốc tiếng Phạn này được triết gia và người đoạt giải Nobel văn chương Rabindranath Tagore dùng lần đầu khi đón chào Gandhi tại Mumbai (hay Bombay) ngày 9/1/1915. Mặc dù Gandhi không hài lòng với những cách gọi tôn vinh nhưng đến ngày nay, danh hiệu Mahātmā Gāndhī vẫn thường được dùng hơn tên Mohandas Gāndhī trên thế giới. Ngoài việc được xem là một trong những môn đồ Ấn Độ giáo và những nhà lãnh đạo Ấn Độ vĩ đại nhất, ông còn được nhiều người Ấn tôn kính như một Quốc phụ (gọi theo tiếng Hindi là Bapu). Ngày sinh của ông, 2/10, là ngày lễ quốc gia của Ấn Độ. Năm 2007, Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết lấy ngày 2/10 là Ngày Quốc tế Bất Bạo động.

Bằng phương tiện bất hợp tác, Gandhi đã dần đưa đến nền độc lập cho Ấn Độ, đưa nước mình thoát sự đô hộ của Anh, khích lệ những người dân bị đô hộ khác phấn đấu cho nền độc lập của nước nhà và đả đảo triệt để Đế quốc Anh.
2. Đường lối đấu tranh của M.Gandhi trong phong trào giải phóng dân tộc ở Ấn Độ nửa đầu thế kỉ XX

Mohandas Karamchand “Mahatma” (“Thánh nhân”) Gandhi đi vào lịch sử bằng cuộc đấu tranh chống lại chính quyền Anh Quốc ở Nam Phi và kế tiếp là vai trò lãnh đạo của ngài trong phong trào đòi độc lập cho Ấn Độ. Bất bạo động là nền tảng cho tất cả các chiến dịch vận động đấu tranh của ngài, điều đó thể hiện các chiều sâu đạo đức trong hoạt động chính trị của Gandhi. Hoạt động chính trị của Gandhi chỉ đơn thuần là sự áp dụng các ý tưởng xã hội và đạo đức vào trong hành động, và các ý tưởng này mới chính là mối quan tâm thực sự của ngài.  Ba triết lý nền tảng trong tư tưởng của Gandhi là Ahimsa, Satya và Satyagraha.


a) Bất bạo động và Ahimsa (tính bất hại)

“Tín điều của ta là bất bạo động trong mọi trường hợp. Phương pháp của ta là cải biến tâm tính con người chứ không dùng sự áp chế; là tự chịu khổ nạn chứ không phải gây khổ nạn cho kẻ nắm bạo quyền”. Tuyên cáo này của Gandhi kết tinh các nguyên tắc căn bản nhất của triết lý bất bạo động.

Triết lý bất bạo động là một trong những di sản quan trọng nhất trong tư tưởng của Gandhi, và nó là nền tảng cho nhiều di sản tư tưởng khác của ngài, đặc biệt là Satyagraha (sức mạnh của chân lý). Tính kiên định của Gandhi đối với nguyên tắc bất bạo động trong lĩnh vực chính trị là biểu hiện về sự hiến thân của ngài cho một nguyên tắc tinh thần sâu sắc hơn thế và hướng đến việc cải đổi cuộc sống của từng con người.

Theo Gandhi, bất bạo động là một hành vi “tẩy uế bản thân mình”. Khái niệm “bất bạo động” thực ra là một từ Sanskrit, ahimsa (tính bất hại). Ahimsa nghĩa đen là sự thương yêu hoặc sự thống nhất trọn vẹn của bất bạo động trong cả ý nghĩ và hành động. Gandhi nói rằng “không có gì mới về tính bất hại cả. Triết lý này cổ xưa như núi đồi”. Điều này khá chính xác vì triết lý về tính bất hại là trung tâm của nhiều tôn giáo gốc Ấn Độ, thí dụ như đạo Giai-na, đạo Hindu và đạo Phật.

Gandhi định nghĩa tinh tuý của tính bất hại là: “bất hại đích thực phải có nghĩa là sự tự do hoàn toàn khỏi tất cả các ý muốn tối tăm, sự giận dữ và bao gồm một tấm lòng yêu thương đích thực chảy mênh mang đối với mọi loài”. Triết lý của Gandhi về “tính bất hại tích cực” (active ahimsa) bao gồm không chỉ việc xa lánh tất cả các hình thức bạo lực, mà còn dành tình yêu thương đến ngay cả kẻ thù của mình. Nó đòi hỏi “sự tự chịu khổ nạn một cách có chủ tâm” và vì thế “cần đến đức vô uý (không khiếp nhược) ”. Một tông đồ của thuyết bất hại “dùng tâm linh của mình đối chọi với nhục thể của đối phương”. Cuối cùng, sự tự chịu đựng của một người đi theo thuyết bất hại là nhằm đánh thức và lay chuyển tâm tính của kẻ thù, người này sau đó sẽ bị chế ngự bởi lòng trắc ẩn và tình thương yêu.


b) Satya (Đạo/Chân lí)

Gandhi đặt ngang hàng Satya (Đạo) với Đức Chúa Trời. Ngài nói rằng “Chân lý là Đức Chúa Trời của ta. Bất bạo động là phương tiện để đạt được ngài”. Gandhi giới thiệu cuốn tự truyện của mình bằng “ta chỉ muốn kể lại câu chuyện về những trải nghiệm của đời mình với chân lý, vì cuộc sống này của ta không có gì khác hơn ngoài những trải nghiệm đó.” Với việc theo đuổi Chân lý như là “mục đích duy nhất”, Gandhi đã tiến hành các thí nghiệm suốt đời này trong tiểu thế giới là cuộc đời ngài và đại thế giới là cả xã hội nói chung.

Dựa trên những huấn dụ trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita), Gandhi xác định rằng Chân lý chỉ có thể đạt được qua bất bạo động. Không thể ngộ ra Chân lý đích thực và nó chỉ được dùng như một thứ vũ khí thay vì một nguồn gốc của tri thức, trừ phí Chân lý được tách khỏi những động cơ ích kỷ. Cuộc kiếm tìm Chân lý của Gandhi đòi hỏi những thử thách liên tiếp về các động cơ cá nhân của ngài. Qua những cuộc thử thách như thế, ngài đã thể nghiệm một cách sâu sắc đức hi sinh cá nhân và quên mình. Gandhi nhận ra rằng Chân lý có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngài tin rằng một khi ngộ ra tính đa nghĩa của Chân lý, tất cả các động cơ ích kỷ sẽ biến mất. Chúng sẽ được thế chỗ bởi lòng trắc ẩn, sự dấn thân cho triết lý bất bạo động, và khả năng tự hi sinh cá nhân vô hạn. Gandhi cũng tin rằng trong khi mưu cầu Chân lý, phải thường xuyên từ bỏ những tà tín (conviction), cũng như thường phải từ bỏ các điều phi lý. Ngài nói: “Nếu nhãn quan của ta được minh định là lầm lạc, ta sẽ sẵn sàng từ bỏ chúng”.
c) Satyagraha (Sức mạnh chân lí)

Satyagraha có nghĩa đen là “bám vững vào Chân lý”. Cũng có thể giải nghĩa từ này là “sức mạnh của lòng thương yêu, sức mạnh của tâm linh, và được biết đến nhiều hơn nhưng kém chính xác hơn, là phản kháng thụ động”. Gandhi mô tả khởi nguyên của khái niệm này khi còn ở Nam Phi:

“Sadagrah có nghĩa là kiên định với lý tưởng chính đáng. Ta thích từ này nhưng nó không diễn đạt hoàn toàn chính xác những gì ta muốn nói đến. Vì thế, ta hiệu chỉnh lại thành Satyagraha. Đạo hay Chân lý (Satya) hàm ý tình yêu thương, và Sự kiên định (Agraha) sinh ra và vì thế được dùng làm từ đồng nghĩa cho sức mạnh… nói thế tức là, Sức mạnh được sinh ra bởi Chân lý và Tình yêu thương hoặc Bất bạo động”.

Với Gandhi, Sức mạnh chân lý là “con đường duy nhất” để đạt được swaraj (tự trị). Nó liên quan mật thiết đến tính bất hại (ahimsa) vì Sức mạnh chân lý bản chất là tính bất hại “trong hành động”. Sức mạnh chân lý dẫn đến bất bạo động, bất hợp tác với cái ác và tự hi sinh. Tấm lòng sẵn sàng hi sinh và chịu khổ nạn tràn đầy yêu thương của một tông đồ của Sức mạnh chân lý là nhằm khơi dậy giao cảm và đánh thức tính bất hại trong tâm (heart) và thức (mind) của đối phương.

Gandhi giải thích rằng “tính tự chịu khổ nạn, được sinh ra bởi lòng can đảm, có thể làm tan chảy ngay cả trái tim của đá… đó là chìa khoá dẫn tới Sức mạnh chân lý”. Nói cách khác, “hành vi bất bạo động có nghĩa là việc chịu khổ nạn tự nguyện… chống đối phải được chuyển thành đồng cảm, vì trong sâu thẳm mỗi người, cho dù bị che giấu thế nào, vẫn ẩn chứa sự giác ngộ về tính thiện của con người”. Sức mạnh chân lý phải được thực hành không chỉ đơn thuần bằng tính bất hại và tự hi sinh; chúng phải luôn tuân thủ “đức thanh tịnh tuyệt đối, chấp nhận sự nghèo túng, đi theo Chân lý và gieo trồng đức vô uý”.

Trong khi tính bất hại là động lực dẫn đường, bất hợp tác với cái ác là hành vi chủ yếu của phong trào Sức mạnh chân lý. Phần tinh tuý của “bám vững vào Chân lý là nhằm từ bỏ việc tiếp tay cho những điều phi lý. Nếu có đủ số người làm như vậy nếu… thậm chí chỉ có một người làm như vậy với công phu đủ thâm sâu- cái ác sẽ phải sụp đổ vì không còn chỗ nương tựa”. Như Gandhi đã từng khẳng định, “khi ta từ chối không thực hiện một việc làm trái với lương tri của mình, ta sử dụng sức mạnh của tâm”. Gandhi đưa ra ngụ ý chính trị của nguyên tắc này khi ngài nói rằng “Chính quyền sẽ không thể điều khiển chúng ta nếu chúng ta bất hợp tác”.

Lúc ngài còn sinh thời, người ta thường lẫn lộn giữa Sức mạnh chân lý với phản kháng thụ động. Gandhi đã làm sáng tỏ sự khác biệt này: “Có sự khác biệt rất lớn và căn bản giữa phản kháng thụ động và Sức mạnh chân lý… Nếu ta tiếp tục tin, và để người khác cũng tin, rằng ta yếu đuối và tuyệt vọng, và vì thế phản kháng một cách thụ động, sự phản kháng này sẽ không khi nào làm chúng ta mạnh lên được, và khi bất cứ cơ hội nào khác xuất hiện, ta sẽ chụp lấy nó và từ bỏ phản kháng thụ động vì nó là vũ khí của kẻ yếu. Mặt khác, nếu chúng ta là những người có sức mạnh của Chân lý, và vì thế, thực hiện Sức mạnh chân lý, tin tưởng rằng chúng ta có sức mạnh… thì chúng ta sẽ mạnh lên từng ngày… Phản kháng thụ động thường được nhìn nhận như là một sự chuẩn bị để sử dụng vũ lực, trong khi Sức mạnh chân lý không bao giờ được sử dụng theo cách ấy… Sức mạnh chân lý hàm ý việc chinh phục đối phương được thực hiện bởi sự tự chịu khổ nạn của bản thân”.

Tuy nhiên, Gandhi vẫn thường dùng hai khái niệm này thay thế cho nhau: “Phản kháng thụ động, đó là sử dụng tâm lực, là phương pháp không có đối thủ”. Gandhi nhìn nhận Sức mạnh chân lý không chỉ là một sức mạnh hơn hẳn sức mạnh của súng đạn, mà ngài còn coi đó là sức mạnh dẫn dắt cả vũ trụ. Gandhi nói, “sức mạnh của tình yêu cũng giống như sức mạnh của tâm hồn hoặc chân lý… Vũ trụ sẽ chẳng còn nếu không có sức mạnh ấy”. Tương tự, ngài tuyên bố rằng “ví dụ rõ ràng nhất và không thể chối cãi được về sức mạnh này của chân lý hoặc tình yêu sẽ được tìm thấy trong sự thật là, mặc cho đã trải qua bao nhiêu cuộc chiến tranh trên thế giới này, sức mạnh ấy vẫn còn sống mãi”.

Vì Gandhi nhìn nhận Sức mạnh chân lý là sức mạnh dẫn dắt của tình yêu và chân lý trong vũ trụ, tầm nhìn của Gandhi khi lãnh đạo các phong trào Sức mạnh chân lý không chỉ hướng tới sự thay đổi chính trị, mà còn hướng tới sự thay đổi đạo đức và tâm hồn của từng cá nhân. Ngài khẳng định “sự kết thúc của phong trào Sức mạnh chân lý chỉ có ý nghĩa khi nó khiến những tông đồ của Sức mạnh chân lý trở nên mạnh mẽ hơn so với lúc ban đầu”.

Người soạn tiểu sử cho Gandhi đã nắm bắt được tinh tuý trong các phong trào Sức mạnh chân lý: “Sức mạnh chân lý không nhằm ‘đoạt’ lấy một đối tượng nào, cũng không nhằm ‘nghiền nát’ một đối thủ nào, mà để kích hoạt các sức mạnh có thể dẫn tới sự cải biến tâm tính; bằng chiến lược này, hoàn toàn có thể thua ở tất cả các trận đánh nhưng vẫn là người chiến thắng trong cuộc chiến. Thực ra, chiến thắng hoặc thua cuộc không mô tả chính xác mục đích của phong trào Sức mạnh chân lý: một nền hoà bình đáng trân kính cho cả hai bên.”

Nguyên lí bất bạo lực được ông đề xướng với tên Chấp trì chân lí (hay Sức mạnh chân lí) (sa. Satyāgraha). Đó là cốt lõi của đường lối đấu tranh do Gandhi đề xướng. Nó đã ảnh hưởng đến các phong trào đấu tranh bất bạo động trong và ngoài nước cho đến ngày nay, bao gồm phong trào Vận động Quyền công dân tại Hoa Kỳ (American Civil Rights Movement) được dẫn đầu bởi Martin Luther King, Jr..

Nguyên lí Chấp trì chân lí của Gandhi (có gốc tiếng Phạn: satya là "chân lí" và ā-graha là "nắm lấy", "nắm chặt"), cũng thường được dịch là "con đường chân thật", "truy tầm chân lí", đã cảm kích những người chủ trương hành động giành tự do như Đạtlại Lạtma Đăngchâu Giamụcthố (Tenzin Gyatso), Lech Wałęsa, Stephen Biko, Aung San Suu Kyi và Nelson Mandela. Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà lãnh đạo nêu trên đều theo nguyên tắc bất bạo lực và bất kháng cự khắt khe của Gandhi.

Gandhi thường nói là nguyên tắc của ông đơn giản, lấy từ niềm tin truyền thống của Ấn Độ giáo: Chân lí (satya) và bất bạo lực (ahiṃsā). Chính ông nói rằng: "Tôi chẳng có gì mới mẻ để dạy đời. Chân lí và bất bạo lực đều có từ xưa nay".

          Điều chú ý là Gandhi kiên quyết chống lại việc áp dụng cho thuật ngữ Satyagraha bằng thuật ngữ "phản kháng thụ động", bởi chúng khác nhau "như cực Bắc khác với cực Nam", đó là sự khác nhau giữa một "vũ khí mạnh mẽ nhất" với một vũ khí yếu ớt. Theo Gandhi, người Ấn Độ cần sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo lực, vì: "Nếu chúng ta đối xử với người Anh một cách công bằng và hợp lý, thì ngày giải phóng đất nước Ấn Độ chúng ta càng sớm đến. Trái lại, nếu ta coi họ như thù nghịch, thì ngày đó chưa biết đến bao giờ", vả lại "bản ngã của con người là sự ôn hoà, mực thước" và "người Ấn Độ còn nhiều sứ mệnh cao cả phải theo đuổi chứ đâu chỉ có mục đích trừng trị những kẻ độc ác trên trái đất này", hơn nữa "tôn giáo không dạy ta ghét bỏ người ngoại quốc. Tôi còn để lòng nhân lên trên lòng yêu nước của tôi".

          Cùng với tư tưởng bất bạo lực, Gandhi đề ra tư tưởng "bất hợp tác" và xem đó là một trong những biện pháp đảm bảo sự thắng lợi của cuộc đấu tranh. Tẩy chay hàng hoá của người Anh chưa đủ, còn phải tẩy chay các học đường, các toà án, các công sở, tư sở, các huy chương khen tặng của người Anh. Tóm lại, bất hợp tác trong tất cả mọi ngành. Bởi vì "phong trào bất hợp tác không có tính cách tranh đấu tích cực như hội họp và kích thích dân chúng công nhiên kháng Anh, nên không thể gây ra đổ máu được.

          Để đảm bảo cho công cuộc giải phòng Ấn Độ theo đường lối "bất hợp tác trong bất bạo lực”, Gandhi chủ trương tiến hành đoàn kết các lực lượng dân tộc. Ông luôn đấu tranh cho sự hoà hợp dân tộc, đặc biệt là vấn đề đẳng cấp và tôn giáo.

          Học thuyết của Gandhi về bất bạo lực thể hiện tính chất phức tạp và hai mặt trong lập trường của tư sản Ấn Độ. Một mặt tư sản Ấn Độ muốn thoát khỏi sự lệ thuộc vào tư bản Anh nên ban đầu huy động quần chúng đấu tranh, mặt khác tư sản Ấn Độ cũng không muốn quyền lợi của mình bị đe dọa nên họ đã hạn chế cuộc đấu tranh này trong phạm vi bất bạo lực. Tuy nhiên, trong một xã hội mà sự phân chia đẳng cấp và tôn giáo cùng với ách thống trị thực dân đã làm mờ đi những mâu thuẫn về giai cấp thì đường lối của Gandhi đã được chấp nhận.

Ông là người đã tiến hành "Tổng kết hệ thống qua điểm triết học và đường lối chính trị, xã hội của tư sản Ấn Độ” và được toàn thể nhân dân Ấn Độ gọi bằng cái tên trìu mến Mahatma (Tâm hồn vĩ đại).

Dưới sự thúc đẩy của Gandhi, Đảng Quốc Đại đã trở thành một chính đảng có hệ thống tổ chức ở Trung ương và khắp các địa phương, trở thành một chính đảng mang tính quần chúng có người thành thị và người thôn quê tham gia; sự đấu tranh từ trong vòng nhỏ hẹp của các phần tử tầng lớp trên đã mở rộng ra đến quảng đại quần chúng.

Kiên trì đấu tranh cho mục đích của mình bằng phương pháp hoà bình là nét quán xuyến nổi bật nhất của Đảng Quốc Đại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ giai đoạn (1919-1950). Đây là thời điểm đặc sắc nhất trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc của Ấn Độ. Tư tưởng đấu tranh hoà bình phản ánh một cách đi riêng, một cách hiểu riêng của người Ấn Độ và con đường tiến tới tự do và tất nhiên cách đi riêng ấy, cách hiểu riêng Ấn Độ được quy định bởi những truyền thống văn hoá, lịch sử của dân tộc Ấn Độ.

Từ đối sánh lực lượng tư tưởng đấu tranh bất bạo lực, sự lãnh đạo của tư sản Ấn Độ (Đảng Quốc Đại) đã quy định con đường đấu tranh của nhân dân Ấn Độ-con đường đó là: tự trị-độc lập hoàn toàn. Đó là bước chuyển hoá tuần tự. Đồng thời, chính con đường tiên tiến này (tự trị-độc lập; Swaraj-Purna Swarij) cũng là điều kiện đảm bảo cho nhân dân Ấn Độ tiến hành cuộc đấu tranh một cách hoà bình. Giai cấp tư sản Ấn Độ đã đoàn kết các giai cấp, tầng lớp trong xã hội vào cuộc đấu tranh chung-đó là nhân tố cơ bản để tư sản Ấn Độ có thể đảm nhận sứ mệnh giải phóng dân tộc.

Đảng Quốc Đại-chính đảng của giai cấp tư sản Ấn Độ dù có những hạn chế nhất định đã đóng vai trò của một tổ chức lãnh đạo có thế lực nhất và có ảnh hưởng nhất trong nhân dân, giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các lực lượng yêu nước Ấn Độ đã tham gia tích cực vào sự nghiệp của toàn dân tộc chống thực dân Anh. Thành tựu vẻ vang của sự nghiệp đấu tranh giải phóng Ấn Độ là kết quả thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước dưới ngọn cờ của Đảng Quốc Đại.



Каталог: file -> downloadfile2 -> 211
downloadfile2 -> HƯỚng dẫN ĐỔ MỰc và khắc phục sự CỐ MÁy in dụng cụ phục vụ cho việc đổ mực và sửa chữa
211 -> Luận Văn “Thiết kế xưởng sản xuất supe phốt phát đơn ”
downloadfile2 -> Đề tài: Chính Sách ngoại Giao giai đoạn 1954-1964 Chính sách ngoại giao trong giai đoạn 1954 1964 Mở bài
downloadfile2 -> HỌc thuyết pháp trị KẾt cấu bài làm chính I. Hoàn cảnh ra đời. II. Nội dung chính
downloadfile2 -> Lớp Bồi Dưỡng Kiến Thức Giáo Viên: Huỳnh Phước Hùng oxi và LƯu huỳnh bài 1
downloadfile2 -> Một số câu nói hay và những câu khuyên dăn trên đời
downloadfile2 -> Nghề nào làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc nhất?
211 -> BÀi tiểu luận phân tích môi trưỜng bên ngoài công ty

tải về 310.14 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương