Đề tài Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945


IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945



tải về 310.14 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu04.08.2016
Kích310.14 Kb.
#12745
1   2   3

IV. Phong trào độc lập dân tộc ở Ấn Độ trong những năm 1919-1945

1. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1919 -1922

 Như đã thực hiện trong cuộc chiến Nam Phi, Gandhi khuyến khích việc ủng hộ người Anh trong cuộc chiến (Thế chiến thứ nhất) và chủ động khích lệ người Ấn tham gia quân đội. Khác với quan niệm của nhiều người khác, cách biện luận duy lí của ông cho trường hợp này là quyền công dân đầy đủ, tự do và quyền lợi trong Đế quốc Anh, và như vậy thì việc giúp nó phòng vệ không có gì sai. Ông thuyết trình trước Quốc dân Đại hội Ấn Độ, nhưng phần lớn ông cũng chịu ảnh hưởng từ Gopal Krishna Gokhale, nhà lãnh đạo được tôn trọng nhất của Đảng Quốc dân Đại hội bấy giờ.

Những thành tích lớn đầu tiên của Gandhi xảy ra vào năm 1918 với cuộc kích động tại Champaran và phong trào Chấp trì chân lí tại Kheda mặc dù ông chỉ thực hiện trên mặt danh nghĩa trong trường hợp thứ hai và người chính chủ đạo là Sardar Vallabhbhai Patel, cánh tay phải của Gandhi. Tại Champaran, một khu vực nằm trong tiểu bang Bihar, ông tổ chức cuộc kháng cự cùng với hơn 10.000 nông dân không có đất, nông nô và những nông gia nghèo khổ có số lượng đất không đáng kể. Họ bị ép buộc phải trồng indigo và những nông sản bán được trên thị trường thay vì gieo trồng những loại cung cấp thực phẩm cần thiết cho sự sinh tồn của họ. Bị đàn áp bởi dân binh của điền chủ (phần lớn là người Anh), họ được trả công rất ít nên cuộc sống rất vất vả cơ hàn. Thôn làng của họ rất dơ bẩn, thiếu vệ sinh. Những vấn đề như uống rượu, kì thị dân ti tiện (untouchable) và khăn che (purdah) ngày càng lan tràn. Giờ đây, ngay trước một cuộc chống đói kinh hoàng, thực dân Anh lại đưa ra một loại thuế tàn ác, cứ y vào sự gia tăng theo chu kì mà thu thuế. Tình thế rất tuyệt vọng và tại Kheda, bang Gujarat thì sự việc nhìn chung cũng không khác.

Gandhi đã tổ chức một công trình nghiên cứu để có được một tổng quan về các thôn làng, xem xét những sự tàn bạo và những tình tiết thống khổ bao gồm những trạng thái thoái hóa của cuộc sống nói chung. Lập cơ sở trên lòng tự tin của người làng, Gandhi bắt đầu chỉnh lí các thôn xóm, lập trường học và bệnh viện, khuyến khích chủ làng xoá bỏ những việc hủ nát như phân biệt tiện dân, bắt phụ nữ mang khăn che và áp chế họ.

Nhưng cuộc phát động có tổ chức đầu tiên của Gandhi xảy ra khi ông bị cảnh sát bắt giam với lí do gây bạo động và được yêu cầu rời địa phương này. Hàng trăm nghìn người biểu tình chống đối, vây quanh nhà giam, các trạm cảnh sát và quan tòa đòi trả tự do lại cho ông, một sự việc pháp tòa không muốn nhưng sau cũng phải thực hiện. Gandhi đứng đầu những cuộc biểu tình có tổ chức chống lại điền chủ, và họ, dưới sự lãnh đạo của chính quyền Anh, đã kí một hiệp định đảm bảo trả lương cao hơn và kiểm soát việc cho nông dân nghèo địa phương thuê đất, xoá bỏ việc tăng thuế cũng như việc thu thuế đến khi nạn đói chấm dứt. Chính trong thời gian kích động này, Gandhi được quần chúng tôn xưng là Bapu (người cha già dân tộc) và Mahātmā (tâm hồn vĩ đại). Tại Kheda, Patel đại diện các nông gia trong những cuộc thương lượng với chính quyền Anh với kết quả là họ tạm dừng thu thuế, đảm bảo trợ cấp. Tất cả những người bị tù đều được thả ra. Danh tiếng Gandhi từ đây như một ngọn lửa lan truyền khắp nước và ông đã trở thành năng lực ảnh hưởng nhất định trong phong trào chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ.

Dự thảo pháp luật Rowlatt được duyệt năm 1919, cho phép chính phủ bắt giam những người bị vu khống gây loạn mà không cần đưa ra tòa duyệt. Khi Gandhi bắt đầu đề ra phong trào bất hợp tác chống lại Đạo luật Rowlatt, Hội nghị Đảng Quốc Đại ở Calcutta đã thảo luận sôi nổi vấn đề này và tại Hội nghị Nagpur (12/1920) đã thông qua chương trình bất hợp tác theo dự án của M.Gandhi.

Gandhi và đảng Quốc dân Đại hội tổ chức những cuộc biểu tình lớn phản đối và đình công, và tất cả những cuộc phản đối này đều được tổ chức rất hòa bình trên khắp nước. Tất cả những thành phố và thị xã lớn đều đóng cửa; các hoạt động cơ quan chính phủ đều phải được quân đội đảm nhiệm. Hàng nghìn người bị bắt giam, lệnh giới nghiêm được áp dụng ở nhiều vùng của Ấn Độ. Tại Punjab, cuộc đại tàn sát ở Amritsar với 379 người dân bị giết bởi quân đội Anh và Ấn Độ đã gây chấn thương nặng nề cho đất nước, gia tăng phẫn oán nơi quần chúng cũng như những hành vi bạo lực.

Gandhi phê bình cả hai hành vi của người Anh và bạo lực phục thù của người Ấn. Ông viết một bài phân ưu cùng với những nạn nhân Anh và lên án những cuộc bạo động. Bài này ban đầu bị phản đối trong đảng, nhưng được chấp thuận sau một bài thuyết giảng của Gandhi mà trong đó, ông đề cao nguyên tắc là tất cả những hành vi bạo lực đều có hại, không thể được biện minh. Người Ấn không mang tội vì sự kì thị của người Anh, và không nên trừng phạt công dân Anh vô tội.

Nhưng sau cuộc tàn sát lớn và bạo lực này, Gandhi nhận thức được là không chỉ người Ấn chưa được chuẩn bị cho việc kháng cự số đông, mà sự cai trị của người Anh đích thật tàn ác và nó có bản chất là đàn áp. Gandhi giờ đây chú tâm đến việc giành quyền tự trị và quyền quản lí tất cả những cơ quan chính quyền Ấn Độ, vươn đến trạng thái tự chủ (svarāj), nghĩa là sự tự chủ toàn vẹn về mặt cá nhân, tâm linh và chính trị.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc Đại theo đường lối của Gandhi, cuộc đấu tranh chống thực dân Anh đã nổ ra hết sức mạnh mẽ trong những năm 1919-1922. Nét đặc trưng của phong trào đấu tranh trong thời kỳ này là sự tham gia của đông đảo các tầng lớp, từ công nhân đến nông dân, những người buôn bán, người Ấn, người Hồi. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1920 ở Ấn Độ đã nổ ra 200 cuộc bãi công với 1,5 triệu người tham gia. Công nhân đã thành lập các tổ chức nghiệp đoàn. Năm 1920, Hội Công Liên Ấn Độ được thành lập. Từ những cuộc đấu tranh của công nhân, phong trào đã phát triển mạnh mẽ với sự tham gia của mọi tầng lớp cư dân thành thị và các khu vực nông thôn lân cận nhằm chống lại đạo luật Râulét.

Ngày 30/3 và ngày 6/4/1919, ở các thành phố nhân dân đã tiến hành Hartan. Trong quá trình đấu tranh, tình đoàn kết anh em giữa người Ấn và người Hồi được củng cố vững chắc ở phong trào Khaliphát. Trước sự phát triển của phong trào, thực dân Anh đã tiến hành đàn áp hết sức dã man.

Đặc biệt ngày 13/4/1919, dưới sự chỉ huy của Tướng Đaiơ, quân đội đã xả súng bắn vào một đám đông đang tiến hành một cuộc biểu tình ở Amritsa, giết hại khoảng 1.000 người và làm bị thương khoảng 2.000 người . Sự kiện này đã làm cho cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ ngày càng mạnh mẽ. Từ Pengiáp, phong trào đấu tranh lan ra các nơi khác như Ahmêdabat, Gutgierat, Bombay, Cancuta, các tỉnh liên hiệp, Biha, Orisa. Cuộc vận động bất hợp tác được triển khai trong toàn quốc. Hoảng sợ, chính quyền thực dân đã bắt tất cả các nhà lãnh đạo nổi tiếng của đảng Quốc đại, trừ Gandhi (1921). Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của quần chúng đang phát triển đến đỉnh cao. Giữa lúc đó sự kiện Sauri-Saura và Bácđôli diễn ra.

Tháng 4/1920, Gandhi được bầu làm chủ tịch hội Liên hiệp Tự trị Toàn Ấn Độ (All India Home Rule League). Căn cứ vào tình hình chính trị trong nước, Gandhi quyết định thay đổi đường lối và nhiệm vụ của Liên đoàn Tự trị. Nhằm mục đích đó, đầu tháng 9/1920, một ủy ban nghiên cứu điều lệ và cương lĩnh của Liên đoàn được thành lập. Ngày 3/10/1920, tại Bombay đã tổ chức Hội nghị toàn thể của Liên đoàn, dưới sự chủ tọa của Gandhi. Hội nghị đã thảo luận dự án của Ủy ban nghiên cứu cương lĩnh và điều lệ Liên đoàn với các nội dung chính như sau:


  1. Đổi tên liên đoàn từ Home Rule League thành Svatja Sabha.

  2. Mục đích Svatja Sabha (Liên đoàn tự trị) là phải “đạt được quyền tự trị (Svatja) hoàn toàn ở Ấn Độ để đáp ứng nguyện vọng của nhân dân”.

  3. Việc giải thích từ Svatja (tự trị ) phải phù hợp với điểm I trong Điều lệ của Đảng Quốc Đại Ấn Độ .

Một số các lãnh tụ do M.Jinnah, K.Dwarkadas đứng đầu đã phát biểu chống lại sự thay đổi này. Sau cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài Hội nghị đã thông qua dự án với đa số phiếu. Do vậy, 20 thành viên do M.Jinnah đứng đầu đã tuyên bố ra khỏi Đảng Quốc Đại. Từ đây Liên đoàn tự trị đã chấm dứt sự tồn tại độc lập và trở thành một bộ phận của Đảng Quốc Đại.

Đến tháng 12/1921, ông được trao uy quyền chấp hành trong Đảng Quốc dân Đại hội. Dưới sự lãnh đạo của Gandhi, Quốc dân Đại hội được tổ chức lại với một hiến pháp mới có mục đích là tự chủ. Ai cũng có thể trở thành đảng viên sau khi đóng một lệ phí trên danh nghĩa. Một tổ chức có giai cấp của các uỷ ban được thành lập nhằm cải thiện kỉ luật và kiểm soát những phong trào từ trước đến giờ không có định hình và khuếch tán, chuyển biến đảng từ một tổ chức tinh duệ số ít thành một đảng lớn với sức lôi cuốn toàn quốc.

Gandhi mở rộng mặt trận bất bạo lực, bao gồm chính sách "bản quốc" (svadeshi)-nghĩa là tẩy chay những sản phẩm ngoại lai, đặc biệt là những sản phẩm Anh. Liên hệ với chính sách này là sự ủng hộ việc mang y phục tự dệt ở nhà, được gọi là khadi, của ông, khuyên tất cả các người Ấn ăn mặc như vậy thay vì dùng đồ vải của người Anh. Gandhi khuyến cáo toàn dân, nam cũng như nữ, mỗi ngày dành chút thời gian để dệt vải ủng hộ phong trào đấu tranh giành độc lập. Đây là chiến thuật nhằm khắc sâu kỉ luật và sự cống hiến để loại trừ những người không có thiện ý và những người hoài bão, và bao gồm phụ nữ vào phong trào ở một thời điểm mà nhiều người cho rằng, những việc làm như vậy không đáng trọng cho phụ nữ.

Thêm vào việc tẩy chay các sản phẩm Anh, Gandhi cũng khuyến khích dân chúng tẩy chay các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh, từ chức không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và huỷ bỏ những danh hiệu, huy chương Anh. Chương trình mới này đã đạt được sức lôi cuốn và thành công rộng lớn, gia lực cho người Ấn chưa từng có từ xưa nay. Nhưng khi phong trào vừa đạt đỉnh điểm thì đã chấm dứt một cách đột ngột vì một cuộc xung đột bạo lực tại thị xã Chauri Chaura, bang Uttar Pradesh vào tháng 2/1922.

          Chauri Chaura là một ngôi làng nhỏ ở quận Gorakhpur của bang Uttar Pradesh. Ngày 5/2/1922, cảnh sát ở đó bắn vào một nhóm người biểu tình. Những người biểu tình trả đũa bằng cách đốt cháy đồn cảnh sát, gây ra cái chết của 22 người cảnh sát tại đây. Thực tế này cho thấy đường lối "Bất bạo lực" đã bị vượt qua. Trước tình hình đó, Gandhi vội vã triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Đảng Quốc Đại vào ngày 12/2/1922 ở Bácđôli, quyết định đình chỉ phong trào bất hợp tác, thay vào đó là một chương trình "Xây dựng” (kéo sợi, giáo dục) mang tính chất ôn hoà. Quyết định này đã làm cho phong trào đấu tranh bị giảm sút nhanh chóng. G.Nêru cũng thừa nhận là quyết định này "đã phần nào gây ra tình trạng mất tinh thần. Có thể nói rằng việc bóp nghẹt đột ngột phong trào rộng lớn đã góp phần tạo ra một tình hình bi thảm trong nước”. Phải mất 6 năm sau phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ mới phát triển trở lại.
          2. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ từ năm 1923-1928

          Sau nghị quyết Bácđôli (1922), thực dân Anh càng tăng cường hơn nữa chính sách đàn áp phong trào đấu tranh, Gandhi bị kết án 6 tháng tù giam (tháng 3/1922). Đây không phải lần đầu Gandhi bị bỏ tù nhưng là lần bị giam cầm lâu nhất. Bắt đầu từ ngày 18/3/1922, ông ngồi tù khoảng hai năm và được thả tháng 2/1924 sau một ca mổ viêm ruột thừa.

Đồng thời với sự đàn áp là chính sách chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa các tôn giáo, thực dân Anh đã kích động để gây ra những cuộc xung đột máu thê thảm giữa người Ấn và người Hồi vào năm 1925 nhằm phá vỡ tình đoàn kết Ấn-Hồi đã được cũng cố từ năm 1916. Cũng trong thời gian này, thực dân Anh tiến hành đàn áp gắt gao trước hoạt động của những người cộng sản Ấn Độ trên đường tiến đến thành lập Đảng.

Không có nhân cách hùng mạnh của Gandhi để kiềm chế các người đồng sự, Đảng Quốc Đại bắt đầu tan vỡ, phân thành hai phái trong thời gian ông ngồi tù. Một phái được dẫn đầu bởi Chitta Ranjan Das và Motilal Nehru, ủng hộ việc đảng tham dự cơ quan lập pháp. Phái thứ hai được dẫn đầu mởi Chakravarti Rajagopalachari và Sardar Vallabhbhai Patel, phản đối việc này. Thêm vào đó là việc hợp tác giữa tín đồ Ấn Độ giáo và Hồi giáo mạnh mẽ trong những chiến dịch bất bạo động giờ đây sa sút.

          Lúc bấy giờ uy tín của Đảng Quốc Đại Ấn Độ bị giảm sút nghiêm trọng trong quần chúng nhân dân. Số lượng đảng viên từ chỗ 10 triệu người đến năm 1924 chỉ còn khoảng 30 vạn người. Đảng Quốc Đại thực hiện “chương trình xây dựng” do Gandhi đề ra, kêu gọi nhân dân khôi phục các nghề thủ công truyền thống, chống các tệ nạn xã hội (uống rượu, hút thuốc phiện), đấu tranh xoá bỏ chế độ đẳng cấp. Năm 1925, hội những người kéo sợi được thành lập do Gandhi đứng đầu. Hội có nhiệm vụ truyền bá tư tưởng của Gandhi trong nhân dân, góp phần đấu tranh bài trừ hàng ngoại hoá nhằm giúp người lao động thoát khỏi sự bóc lột của chủ nghĩa đế quốc. Trong thực tế, Hội đã có ảnh hưởng rộng rãi trong quần chúng ở nông thôn.

          Nhìn chung, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân đã lắng xuống. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ chuẩn bị lực lượng cho một cuộc đấu tranh mới.


* Sự ra đời của các Đảng Công nông và sự phát triển của phong trào công nhân-nông dân Ấn Độ

Theo những bản thống kê nǎm 1921, tại Ấn Độ, có 105.510.858 công nhân nam, nữ làm trong nông nghiệp, 346.349 người trong các mỏ, 16.728.373 trong công nghiệp, 5.819.375 trong thương mại. Theo Factory inspection report nǎm 1923, trong thời kỳ này, có 1.418.000 công nhân nữ, nam làm việc trong các nhà máy thực sự là nhà máy so với 1.270.000 người nǎm 1921. 

Phần đông những người vô sản nông nghiệp làm việc trong các đồn điền trồng cây công nghiệp (đồn điền cà phê, cao su và cây chàm: 382.300 công nhân; đồn điền chè: 695.100; đồn điền trồng bông: 2.875.122; những đồn điền khác trồng cây có sợi: 15.672.372). 

Lương rất thấp, một công nhân có trình độ tay nghề trong ngành dệt lĩnh 29 rupi (bằng 250 phrǎng) mỗi tháng. Một nữ công nhân cũng làm việc như thế chỉ lĩnh một nửa số tiền này. Ngày làm việc rất dài, những người thợ mỏ làm hơn 12 giờ mỗi ngày. 

Những điều kiện vệ sinh trong nhà máy cũng như trong nhà ở của công nhân thật tồi tệ. Người ta thường thấy sáu gia đình với tổng số 30 người sống chen chúc trong một nhà dành cho công nhân dài 5 mét và rộng 4 mét. Phần lớn các nghiệp đoàn đều chịu ảnh hưởng chủ nghĩa cải lương của Công Đảng Anh.

Trong thời kì này, phong trào cách mạng thế giới cũng như các thành tựu của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, những tin tức thắng lợi cuộc cách mạng Trung Quốc đang đấu tranh đã tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ.

Từ những nhóm cộng sản đầu tiên xuất hiện vào năm 1922 đến 1924, các nhóm cộng sản đã bí mật hoạt động ở Ấn Độ và ngày càng tăng cường truyền bá các tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào Ấn Độ. Năm 1923, nhóm những người cộng sản ở Bombay đã xuất bản tạp chí "Người xã hội chủ nghĩa” do S.A.Dange làm chủ biên. Những người cộng sản Ấn Độ tham gia họat động trong các chi bộ cơ sở của Đảng Quốc Đại và tích cực tiến hành các cuộc đấu tranh cùng với công nhân.

Năm 1926, Đảng Công nông ra đời ở Bengan và tháng 5/1927 đã thông qua một bản cương lĩnh trong đó có những điểm mới đối với Ấn Độ: đấu tranh giành độc lập hoàn toàn cho Ấn Độ, tiến tới thành lập một nước Cộng hoà Dân chủ Ấn Độ, thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của đại địa chủ phong kiến, quốc hữu hoá những xí nghiệp quan trọng có lợi ích công cộng, ban hành luật ngày làm 8 giờ và quy định tiền lương tối thiểu.

Vào nǎm 1926 có 130 cuộc bãi công với 131.655 người tham gia. Nǎm 1927, có 128 cuộc bãi công với 186.811 người tham gia. Như vậy nǎm 1927 có kém nǎm 1926 hai cuộc bãi công, nhưng số người bãi công cao hơn nhiều (hơn 55.156 người) và số ngày bỏ việc nǎm 1927 tǎng gấp đôi nǎm 1926. 

Trong quá trình đấu tranh của phong trào công nhân trong thời kỳ này, công nhân Bombay đã dẫn đầu phong trào. Năm 1925, Bombay chiếm 51% tổng số các cuộc bãi công trong toàn quốc. Cũng trong năm 1925 đã diễn ra cuộc bãi công của công nhân đường xe lửa Tây Bắc Ấn Độ. Năm 1926 công nhân đường sắt Bengan-Nátpua đã tiến hành một cuộc bãi công lớn, chính quyền thực dân phải huy động quân đội đến đàn áp.

Nǎm 1928 bắt đầu bằng dấu hiệu phục hồi mạnh mẽ của phong trào công nhân. Không kể những cuộc bãi công chính trị chống Uỷ ban Ximông, số cuộc đấu tranh mang tính chất thuần tuý kinh tế diễn ra trong sáu tuần lễ đầu của nǎm đó như sau: ngày l0/1, bãi công của 22.000 thợ dệt ở Bombay. Ngày 22/1, bãi công của 400 thợ thuyền đường xe hoả tại Nắcpua; 21/1, thợ luyện kim ở Chalima bãi công đòi tǎng lương; 31/l, 700 công nhân xe lửa Cancutta cũng bãi công đòi tǎng lương. Ngày 2/2, bãi công của lái xe tắc xi tại Rangun chống một thứ thuế mới do thống đốc Anh đặt ra; 11/2, bãi công của 2.500 công nhân khuân vác ở Rangun; 16/2, bãi công của 8.000 thợ nhà máy, Kôhinpua ở Bombay; 17/2, bãi công của 1.700 công nhân nhà máy Đarivan. 

Trong những năm 1927-1928, nhiều Đảng Công nông khác được thành lập ở Bombay, Biha, các tỉnh biên giới Tây Bắc và nhiều tỉnh khác.

          Nhìn chung, các Đảng Công nông chưa phải là đội tiền phong chân chính của công nhân Ấn Độ bởi tính chất phức tạp của nó. Riêng Đảng Công nông Bombay tỏ ra cách mạng nhất với tờ báo "Tia sáng”-một tờ báo chủ yếu tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, giáo dục đường lối cách mạng vô sản cho giai cấp Ấn Độ.

Gandhi trở về địa vị hàng đầu vào năm 1928. Một năm trước đó, chính quyền Anh đề cử một hội đồng cải cách hiến pháp dưới sự lãnh đạo của Sir John Simon mà không có tên một người Ấn nào trong hội đồng. Kết quả của việc này là sự tẩy chay hội đồng của các đảng Ấn Độ. Tại Quốc dân Đại hội Calcutta vào tháng 12/1928, Gandhi đã đề nghị Đại hội thông qua một bản Nghị Quyết đòi chính quyền thuộc địa Anh trong vòng một năm phải công nhận quyền tự trị của người dân Ấn; nếu không sẽ tiến hành một cuộc đấu tranh bất bạo động để giành lại độc lập. Chính quyền thuộc địa Anh hoàn toàn im lặng và đã không quan tâm gì đến yêu sách của Đảng Quốc Đại.



3. Phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ trong những năm 1929-1939

          Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1939 ở các nước tư bản chủ nghĩa đã tác động mạnh mẽ đến Ấn Độ. Nền kinh tế Ấn Độ trở nên hết sức khó khăn. Công nghiệp bị thu hẹp lại. Tiền lương công nhân bị hạ xuống 30-40%, số công nhân bị sa thải ngày càng tăng. Sản xuất nông nghiệp cũng bị giảm sút nghiêm trọng, đời sống của nhân dân trở nên cùng cực. Cũng trong thời gian này, quá trình tập trung và tích tụ tư bản, quá trình thành lập các công ty tư bản Anh-Ấn được đẩy mạnh. Hai ngành công nghiệp mới ở Ấn Độ ra đời là công nghiệp đường và xi măng, phần lớn nằm trong tay tư bản Ấn Độ. Thực tế cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ấn Độ đã làm cho mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc và đế quốc Anh càng trở sâu sắc và nó đã tạo ra phong trào đấu tranh sôi nổi trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai.


a) Hoạt động đấu tranh của Gandhi và Đảng Quốc Đại

 Lúc bấy giờ, trong nội bộ Đảng Quốc Đại đã xuất hiện nhóm "tự trị” với những chủ trương cấp tiến của G.Nêru. Phái tả trong Đảng do G.Nêru đứng đầu gồm những đảng viên trẻ tuổi chủ trương họat động chính trị trong và ngoài nước, liên hệ và tìm sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Mục tiêu của phái tả đề ra là "tự trị” hoàn toàn. Đại hội Laho năm 1929 đã bầu Nêru làm Chủ tịch Đảng Quốc Đại. Sự chuyển biến này của Đảng Quốc Đại đánh dấu một bước tiến mới của phong trào đấu tranh đòi độc lập ở Ấn Độ .

          Thực tế, sự phục hồi của phong trào quần chúng đã diễn ra từ năm 1928, khi chính phủ Anh cử phái đoàn Simơn đến Ấn Độ để "Nghiên cứu một bản dự thảo Hiến pháp” cho Ấn Độ. Đảng Quốc Đại kêu gọi quần chúng tẩy chay phái đoàn Simơn với khẩu hiệu "Simơn cút đi”.

          Với việc Đảng Quốc Đại nêu cao khẩu hiệu "Tự trị hoàn toàn”, phong trào đấu tranh của quần chúng càng phát triển mạnh mẽ. Vào lúc nửa đêm ngày cuối cùng của năm 1929, bước sang năm 1930, Nêru đã trịnh trọng kéo lá cờ 3 sắc (đỏ, trắng, xanh lá cây) được chọn làm Quốc kỳ của nước Ấn Độ độc lập trong tiếng hô vang của các đại biểu Cách mạng muôn năm. Ngay sau đó, nhiều cuộc biểu tình rầm rộ được tổ chức khắp đất nước vào ngày 26/1/1930. Trong các cuộc biểu tình này, người Ấn Độ đã đọc lời thế đấu tranh cho nền độc lập của đất nước. Gandhi đề nghị Đảng Quốc Đại chọn ngày 26/1/1930 làm ngày Kỷ niệm Độc lập. Đề nghị này đã được hầu hết các đảng phái và các nhóm quần chúng ủng hộ mạnh mẽ.

Sau ngày 26 /1/1930, Gandhi đã nêu yêu sách 11 điểm trên tờ “Ấn Độ trẻ” đòi thực dân Anh cải cách kinh tế, trả tù chính trị. Tiếp đó, Gandhi yêu cầu nhà cầm quyền Anh phải bỏ chính sách độc quyền về muối. Chính quyền Anh đã bác bỏ các yêu cầu này và Gandhi chính thức phát động một chiến dịch "phản kháng bất bạo lực” mới gọi là "chấp trì chân lí phản đối thuế muối” vào tháng 2/1930. Cuộc Hành trình muối (Salt March) từ Ahmedabad đến Dandi nổi tiếng kéo dài từ 21/3 đến 6/4/1930. Đây là cuộc hành trình nổi tiếng nhất trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ do Gandhi hướng dẫn. Ông đã đi bộ 400 cây số để tự lấy nước biển làm muối đem về dùng, chống lại lệnh cấm làm Muối của chính quyền Anh. Hàng ngàn người dân đã đi theo Gandhi đến bờ biển Dandi. Trên đoạn đường này đã có mấy chục ngàn người dân bị bắt, bị cưỡng chế trở về và bị quản chế tại nhà; nhưng hành động đàn áp này đã không làm nao núng, số người tham dự ngày một quá đông.

Tháng 4/1930, Gandhi tiếp tục phát động phong trào "Bất hợp tác” với mục tiêu:

          - Không tuân theo luật lệ về độc quyền muối.

          - Tẩy chay hàng vải ngoại hoá.

          - Tổ chức các đội kiểm soát việc mua bán vải vóc ở các cửa hàng.

          - Kiểm soát sự lui tới ở các quán rượu và tiệm hút.

          - Bãi bỏ sự đối xử bất công với những người thuộc đẳng cấp "không thể đụng đến”.

          - Tổ chức biểu tình chống đế quốc Anh và các cuộc bãi công, bãi khoá của công nhân học sinh sinh viên và viên chức.

          Phong trào này được mọi tầng lớp trong xã hội Ấn Độ hưởng ứng đông đảo. Điều này làm cho thực dân Anh hết sức lo sợ. Tháng 5/1930 chính quyền Anh ra lệnh bắt giam Gandhi và sau đó tuyên bố đặt mọi tổ chức, đảng phái chính trị (kể cả Đảng Quốc Đại) ra ngoài vòng pháp luật, chỉ trong năm 1930 có 60.000 người bị bắt.

           Sự đàn áp của thực dân Anh càng làm cho phong trào quần chúng trở nên mạnh mẽ quyết liệt. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân vùng Sôlaqua, Petsava, các cuộc bãi công ở Bombay, Bengan, Pengiáp, Mađrát. Trong phong trào đấu tranh, các tầng lớp nhân dân đã hình thành một cách tự nhiên mặt trận nhân dân thống nhất chống thực dân Anh. Tuy nhiên các cuộc đấu tranh đều tự phát, thiếu sự lãnh đạo, tổ chức chu đáo nên đã thất bại trước sự đàn áp của chính quyền thực dân.

          Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào quần chúng, ngày 26/1/1931 thực dân Anh vội thả Gandhi và nhiều lãnh tụ khác của Đảng Quốc Đại. Ngày 5/3/1931, Gandhi ký với Phó vương Irwin một bản "hiệp định Gandhi-Irwin”, Qua hiệp ước này, chính phủ Anh đồng ý trả tự do cho tất cả các tù nhân chính trị, đổi lại Gandhi phải ngưng toàn bộ cuộc đối đầu bất bạo động. Ngoài ra, chính quyền Anh còn mời Gandhi sang London tham dự một Hội nghị bàn tròn với tư cách là người đại diện Đảng Đại Hội Quốc Dân Ấn Độ. 

Tại "hội nghị bàn tròn” Gandhi hy vọng đàm phán với chính phủ Anh trên cơ sở "dự án Môtilan Nêru”, còn chính phủ Anh đi đến hội nghị với ý đồ củng cố địa vị thống trị Ấn Độ bằng chính sách chia rẽ các cộng đồng tôn giáo và đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ, do đó hội nghị không đạt được một kết quả nào. Nhưng Gandhi đã không hài lòng với Hội nghị bàn tròn vì chính quyền Anh không thực sự muốn trao trả quyền độc lập lại cho dân Ấn. Hơn thế nữa, sau khi Lord Irwin về hưu người thay thế là Lord Willingdon lại tung ra chính sách đàn áp mạnh mẽ những người lãnh đạo trong các lực lượng đấu tranh giành độc lập nên Gandhi đã tuyên bố tiếp tục thực hiện các cuộc đấu tranh cho đến khi nào chính quyền trao trả độc lập cho Ấn. Chính quyền Anh đã bắt giữ Gandhi và tìm cách cô lập mọi ảnh hưởng của ông đối với phong trào giành độc lập; nhưng mọi nỗ lực của chính quyền thực dân Anh đều thất bại vì tiếng nói của Gandhi đã được hầu hết dân Ấn tin tưởng dù ông ở bất cứ đâu.

Tháng 1/1932, Gandhi về nước và tuyên bố phát động lại phong trào bất hợp tác mới trong toàn quốc. Phong trào bất hợp tác mới kéo dài đến cuối năm 1932 mới kết thúc, tuy nhiên do sự đàn áp mạnh mẽ của chính quyền thực dân nên quy mô của nó không rộng lớn như năm 1930. Ngày 8/5/1933, Gandhi bắt đầu một cuộc tuyệt thực 21 ngày để phản đối sự đàn áp của người Anh tại Ấn Độ. Mùa hè năm 1934, ông ba lần bị mưu hại không thành công.

Mùa hè năm 1933, khi Đảng Quốc Đại thảo luận về việc nên hay không nên tham gia tuyển cử vào quốc hội liên bang, Gandhi thấy là sự hiện hữu của ông ở trong Đảng có thể tạo khó khăn cho việc chọn lựa hướng đi mới của Đảng vào lúc đó; đồng thời tránh sự khai thác tuyên truyền của chính quyền Anh đối với việc Đảng Quốc Đại công nhận quyền lực chính trị của Anh, nên Gandhi đã rút lui khỏi Đảng. 

Năm 1936, Gandhi phục hoạt trở lại, khi đồng minh của ông là Nehru lên làm chủ tịch Đảng Quốc Đại. Nhưng vào lúc này, Gandhi đối diện với rất nhiều vấn đề phức tạp ở trong Đảng. Đó là ông chỉ muốn chuyên tâm vào con đường đấu tranh giành độc lập và chưa nghĩ nhiều về viễn cảnh xây dưng chính quyền tương lai; nhưng khuynh hướng chung của các nhà lãnh đạo đảng vào lúc đó là muốn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là Subhas Chandra Bose, một đối thủ chính trị của Nehru cho rằng cách đấu tranh của Gandhi quá chậm và không hiệu quả.

Khi S.Bose lên làm chủ tịch Đảng Quốc Đại, sự tranh cãi về phương thức đấu tranh giữa Gandhi và Bose đã xảy ra một cách khá gay gắt từ năm 1938. Nhiều người đã tuyên bố rút lui khỏi đảng hay từ chức các trách vụ để phản đối Bose đã không thi hành các quan niệm bất bạo động của Gandhi.
b) Hoạt động đấu tranh của Đảng Cộng Sản và công nhân Ấn Độ

          Cũng trong thời kỳ này, phong trào công nhân Ấn Độ được củng cố qua các cuộc đấu tranh. Các tiểu tổ cộng sản đã tăng cường các họat động chung và tháng 11/1933, các tiểu tổ cộng sản đã hợp nhất với nhau, thành lập Đảng Cộng sản Ấn Độ, cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng. Một chương trình hành động chung đã được Ban chấp hành Trung ương lâm thời đưa ra nhằm tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Ấn Độ. Tuy nhiên, trong điều kiện của xã hội Ấn Độ, cùng với sự đàn áp tàn bạo những người cộng sản của chính quyền thực dân, những họat động của Đảng Cộng sản Ấn Độ được tiến hành trong điều kiện cực kỳ khó khăn. Tháng 7/1934, Đảng Cộng sản Ấn Độ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật và mãi đến năm 1943 Đảng mới có thể tiến hành Đại hội lần thứ nhất.

          Năm 1933, Nghị viện Anh thông qua một đạo luật mới về việc cai trị Ấn Độ. Và đến năm 1935, nó được công bố cho nhân dân Ấn Độ với tên gọi là "Hiến pháp mới” của Ấn Độ. Thực chất đây là một đạo luật thống trị, không thừa nhận quyền tự trị của nhân dân Ấn Độ. "Hiến pháp mới” đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ ở Ấn Độ, nhân dân  Ấn Độ gọi đây là "Hiến pháp nô dịch”, Đảng Quốc Đại tuyên bố sẽ đấu tranh đòi triệu tập Hội nghị lập hiến toàn Ấn Độ. Liên đoàn Hồi giáo cũng lên tiếng phản đối.

          Phong trào phản đối bản "Hiến pháp nô dịch” đã đoàn kết được tất cả các lực lượng chính trị thành một mặt trận thống nhất trên thực tế. Biểu hiện rõ nhất là cuộc mít tinh của nhân dân Bombay để phản đối "Hiến pháp mới”, tổ chức ngày 7/2/1935, hầu hết các đảng phái chính trị và tổ chức quần chúng yêu nước đều tham gia tích cực vào cuộc mít tinh này. Tháng 4/1936, Đại hội Tổng nông hội toàn quốc họp tại Lắcnao, kết án "Hiến pháp mới” và kêu gọi nông dân toàn quốc đoàn kết với các lực lượng tiến bộ đấu tranh chống thực dân. Tháng 5/1936, tổng công hội Ấn Độ cũng tiến hành đại hội và ra Nghị quyết thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất, chủ trương hợp tác với Đảng Quốc Đại. Chính trong thời kỳ này Đảng Cộng sản Ấn Độ  đã tích cực tuyên truyền và tổ chức cho sự hình thành Mặt trận thống nhất chống đế quốc. Do vậy phong trào công nhân phát triển rất mạnh mẽ. Trong những năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hàng năm ở Ấn Độ có gần 400 vụ đình công, thu hút từ 40 đến 50 vạn công nhân tham gia, trong số đó có khoảng 1/2 các cuộc đình công kết thúc thắng lợi.

          Thực dân Anh đã tìm đủ mọi cách để phá họai sự thống nhất của các lực lượng tiến bộ ở Ấn Độ vào một mặt trận dân tộc phản đế. Chúng ra sức lợi dụng các lãnh tụ phản động của Liên đoàn Hồi giáo và tổ chức Hinđu Mahasabha, gây ra nhiều vụ xung đột giữa người Ấn và người Hồi. Từ năm 1937 đến 1939, ở Ấn Độ đã xảy ra 57 vụ xung đột đổ máu giữa các cộng đồng tôn giáo. Điều này đã làm suy yếu phong trào đấu tranh của quần chúng.


Каталог: file -> downloadfile2 -> 211
downloadfile2 -> HƯỚng dẫN ĐỔ MỰc và khắc phục sự CỐ MÁy in dụng cụ phục vụ cho việc đổ mực và sửa chữa
211 -> Luận Văn “Thiết kế xưởng sản xuất supe phốt phát đơn ”
downloadfile2 -> Đề tài: Chính Sách ngoại Giao giai đoạn 1954-1964 Chính sách ngoại giao trong giai đoạn 1954 1964 Mở bài
downloadfile2 -> HỌc thuyết pháp trị KẾt cấu bài làm chính I. Hoàn cảnh ra đời. II. Nội dung chính
downloadfile2 -> Lớp Bồi Dưỡng Kiến Thức Giáo Viên: Huỳnh Phước Hùng oxi và LƯu huỳnh bài 1
downloadfile2 -> Một số câu nói hay và những câu khuyên dăn trên đời
downloadfile2 -> Nghề nào làm cho bạn cảm thấy hạnh phúc nhất?
211 -> BÀi tiểu luận phân tích môi trưỜng bên ngoài công ty

tải về 310.14 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương