Xin kính chuyển tiếP. Xin quí VỊ ĐỘc giả GÓP Ý. Xin click vàO ĐƯỜng dẫn màu xanh dưỚI ĐÂY


NÚI TỘI ÁC THỨ HAI CỦA CÔNG GIÁO:  NHỮNG CUỘC THẬP ÁC CHINH MANG TÊN “THÁNH CHIẾN”



tải về 0.96 Mb.
trang3/9
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích0.96 Mb.
#6037
1   2   3   4   5   6   7   8   9

2. NÚI TỘI ÁC THỨ HAI CỦA CÔNG GIÁO: 
NHỮNG CUỘC THẬP ÁC CHINH MANG TÊN “THÁNH CHIẾN”

Theo đúng những lời dạy trong Kinh Thánh, Cuốn Từ Điển Bách Khoa của Ca-Tô (The Catholic Encyclopedia) định nghĩa các cuộc Thập Ác Chinh là những cuộc chiến tranh để theo đuổi một lời nguyện, và nhắm vào những kẻ không tin, nghĩa là, những người Hồi Giáo, người ngoại giáo, dị giáo, và những kẻ bị tuyệt thông (lạc đạo hay rối đạo) [Crusades: wars undertaken in pursuance of a vow, and directed against infidels, i.e. against Mohammedans, pagans, heretics, or those under the ban of excommunication.]

Thật vậy, tất cả nguồn gốc và những sắc thái của những cuộc Thập Ác Chinh (Crusades) mà người Ca-Tô Rô-MaGiáo gọi là “thánh chiến” (Holy wars) do Ca-Tô Rô-MaGiáo phát động, kéo dài nhiều thế kỷ, máu đổ thành sông, xương chất thành núi, với hàng triệu sinh mạng già trẻ lớn bé vô tội, có thể thấy rõ qua vài câu trích dẫn sau đây từ cuốn “Thánh Kinh” của Ki Tô Giáo:

PHẢI TUYỆT ĐỐI TUÂN HÀNH CÁC ĐIỀU RĂN, LUẬT LỆ CỦA THƯỢNG ĐẾ... KHI ĐỨC CHÚA TRỜI DẪN CÁC NGƯƠI VÀO VÙNG ĐẤT MÀ CÁC NGƯƠI SẼ CHIẾM HỮU..CÁC NGƯƠI PHẢI TẬN DIỆT HỌ, KHÔNG ĐƯỢC LẬP GIAO ƯỚC, KHÔNG ĐƯỢC THƯƠNG XÓT... KHÔNG ĐƯỢC GẢ CON GÁI MÌNH CHO CON TRAI HỌ, HOẶC CƯỚI CON GÁI HỌ CHO CON TRAI MÌNH VÌ HỌ SẼ DỤ CON CÁI CÁC NGƯƠI THỜ CÚNG CÁC THẦN CỦA HỌ MÀ BỎ CHÚA HẰNG HỮU.. CÁC NGƯƠI PHẢI ĐỐI XỬ VỚI HỌ NHƯ SAU: PHẢI PHÁ HỦY NHỮNG BÀN THỜ CỦA HỌ, PHẢI ĐẬP PHÁ NHỮNG CỘT TRỤ THIÊNG LIÊNG CỦA HỌ, ĐẬP NÁT NHỮNG HÌNH TƯỢNG BẰNG GỖ, ĐỐT SẠCH CÁC TƯỢNG CHẠM CỦA HỌ..

THƯỢNG ĐẾ (PHỤC TRUYỀN 6:17; 7:1-5)

LÚC KÉO QUÂN ĐẾN TẤN CÔNG MỘT THÀNH NÀO, NẾU THIÊN CHÚA CHO CÁC NGƯƠI HẠ ĐƯỢC THÀNH ĐÓ, PHẢI GIẾT HẾT ĐÀN ÔNG TRONG THÀNH, NHƯNG BẮT GIỮ ĐÀN BÀ, TRẺ CON, SÚC VẬT, VÀ CHIẾM GIỮ CÁC CHIẾN LỢI PHẨM...BÊN TRONG LÃNH THỔ CHÚA BAN CHO, PHẢI DIỆT HẾT MỌI SINH VẬT. PHẢI TẬN DIỆT DÂN HÊ-TÍT, A-MO, CA-NA-AN, PHÊ-RẾT, HÊ-VÍT VÀ GIÊ-BU NHƯ CHÚA ĐÃ TRUYỀN DẠY. NHƯ VẬY HỌ KHÔNG CÒN SỐNG ĐỂ DỤ DỖ ĐỒNG BÀO HỌ LÀM TỘI ÁC, THỜ CÚNG THẦN CỦA HỌ MÀ MANG TỘI VỚI CHÚA.

THƯỢNG ĐẾ (PHỤC TRUYỀN 20: 12-18)

HÃY MANG NHỮNG KẺ THÙ CỦA TA RA ĐÂY, NHỮNG NGƯỜI KHÔNG MUỐN TA NGỰ TRỊ HỌ, VÀ GIẾT CHÚNG NGAY TRƯỚC MẶT TA.

GIÊ-SU (LƯU–CA: 19:27)

ĐỪNG TƯỞNG RẰNG TA XUỐNG TRẦN ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH TRÊN TRÁI ĐẤT. TA KHÔNG XUỐNG ĐÂY ĐỂ MANG LẠI HÒA BÌNH MÀ LÀ GƯƠM GIÁO. VÌ TA XUỐNG ĐÂY ĐỂ LÀM CHO CON CHỐNG LẠI CHA, CON GÁI CHỐNG LẠI MẸ, CON DÂU CHỐNG LẠI MẸ CHỒNG, VÀ KẺ THÙ CỦA CON NGƯỜI Ở NGAY TRONG NHÀ HẮN.

GIÊ-SU (MÃ-THI-Ơ: 10: 34-36)

Những câu trích dẫn ở trên, và nhiều câu khác cũng như nhiều chuyện trong Thánh Kinh, đã là căn bản, không những chỉ cho sách lược truyền đạo của Ca-tô Rô-maGiáo, điển hình là ở Việt Nam, cho những cuộc Thập Ác Chinh, mà còn cho cả 7 núi tội ác của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo mà giáo hoàng John Paul II cùng một số phụ tá cao cấp trong tòa Thánh, trong đó có Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, về sau được phong Hồng Y, đã công khai xưng thú với nhân loại ngày 12 tháng 3, 2000 tại thánh đường Phê-rô.

Học giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã tóm tắt lịch sử truyền bá đạo Ca-tô qua nhận định như sau trong cuốn The Final Superstition:

"Nói tóm lại, những bằng chứng tràn ngập cho thấy sự truyền bá Ki Tô Giáo trong thế giới xưa và nay phần lớn dựa vào sự cưỡng bách, bạo hành và đàn áp. Xuyên suốt lịch sử, từ những cuộc diệt trừ những người dị giáo (hay lạc đạo) ngay từ thuở ban đầu của Giáo hội, cho tới những cuộc Thập Ác Chinh, những tòa án đạo xử dị giáo, sự trấn áp những nền văn hóa khác trên khắp thế giới, Ki Tô Giáo [Ca-tô Rô-maGiáo] đã chứng tỏ những tiêu chuẩn có tính cách hủy diệt và chống loài người của tôn giáo này." 14

Riêng về những cuộc Thập Ác Chinh, trước hết tưởng chúng ta cũng nên biết vài nhận định tổng quát về những cuộc chiến tranh tôn giáo (religious wars) đã được giáo hội khoác cho nhãn hiệu “thánh chiến” (holy wars).

Trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh: Một Lịch Sử Minh Họa Về Sự Chém Giết Và Điên Rồ Tôn Giáo (Holy Horrors: An Illustrated History Of Religious Murder And Madness), tác giả James A. Haught, Chủ Biên tờ Charleston Gazette, đã viết như sau, trang 14, 19:

Khi tôn giáo (Ca-tô Rô-maGiáo) nắm toàn quyền ở Âu Châu, nó đã tạo nên một thiên sử thi tắm máu của những cuộc Thập Ác Chinh, những phòng tra tấn của Tòa Án Đạo xử dị giáo, tận diệt hàng loạt những người “lạc đạo” hay “dị giáo”, hàng trăm cuộc tàn sát người Do Thái, và 300 năm thiêu sống phù thủy.

Thời Đại Của Đức Tin” là một thời đại chém giết mang nhãn hiệu thánh. Khi tôn giáo (Ca-tô Rô-maGiáo) dần dần không còn kiểm soát được đời sống hàng ngày của người dân nữa, quan niệm về nhân quyền và tự do cá nhân đã mọc rễ.

...Trong thực tế, những cuộc Thập Ác Chinh là một cơn ác mộng thật ghê tởm với những cuộc tàn sát, hiếp dâm, cướp bóc, hỗn loạn – trộn lẫn với niềm tin vào ảo thuật.” 15

Trong cuốn Các Cuộc Thập Ác Chinh (The Crusades), sử gia Henry Treece viết trong phần mở đầu:



"Nhưng khi chúng ta đọc nhiều hơn về các cuộc Thập Ác Chinh thì cái hình ảnh(mà Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đưa ra và ngày nay các tác giả Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam nhắc lại như những con vẹt) trở thành nhơ nhuốc; sự nghiên cứu (về các cuộc Thập Ác Chinh) khó mà có thể đưa ra sự thực mà chúng ta đã từng hi vọng. Chúng ta thấy các cuộc Thập Ác Chinh và các Thập ác quân khác với những điều chúng ta thường tưởng tượng (theo như lời Giáo hội tuyên truyền), và rút cuộc chúng ta phải đồng ý với đoạn tổng kết của bậc thầy chúng ta, Ngài Steven Runcinan , trong cuốn Vương Quốc Nghĩa Trang: "Đức Tin không có trí tuệ thì thật là nguy hiểm.. Trong tương quan ảnh hưởng và hòa đồng giữa Đông và Tây liên tục và lâu dài, từ đó nền văn minh của chúng ta đã phát triển, những cuộc Thập Ác Chinh là một thời kỳ bi thảm và hủy diệt.. Đã có quá nhiều sự dũng cảm nhưng lại quá ít vinh dự, đã có quá nhiều lòng sùng tín nhưng lại quá ít hiểu biết. Những lý tưởng cao đẹp đã bị nhơ bẩn bởi sự độc ác và tham lam, hành động táo bạo và sự chịu đựng bắt nguồn từ lòng tin mù quáng và hẹp hòi tự cho mình là đúng; và chính cuộc Thập Ác Chinh cũng không gì khác hơn là một hành động kéo dài của sự bất khoan nhượng nhân danh Chúa” 16

Và trong cuốn Những Vị Thần Cuối Cùng Của Huyền Thoại: Gia-Vê và Giê-su(Mythology’s Last Gods: Yahweh and Jesus) Tiến sĩ William Harwood đã viết, trang 156:

Triết lý của Phục Truyền Luật Lệ Ký, giết những người tin vào các huyền thoại khác trừ huyền thoại của chính mình để bảo vệ các tín đồ trước những đạo khác là một hành động của Thiên Chúa và đáng tán thưởng, trong thời đại Trung Cổ đã được thực thi theo một kết luận hợp lý bởi những tín đồ Ki Tô (Ca-tô Rô-maGiáo), những người trong vài thế kỷ, đã thẳng tay tàn sát từ 30 đến 50 triệu kẻ thù của Thiên Chúa trong những biến cố như Thập Ác Chinh, tòa án đạo xử dị giáo, cuộc chiến 30 năm, và những trường hợp tàn bạo khác.” 17

Vậy, rõ ràng là những tội ác của Ca-tô Rô-maGiáo bắt nguồn từ Thánh Kinh. Nhưng những luật lệ độc ác của Thiên Chúa (Thần Gia-vê) cũng như Chúa Con (Giê-su) trong Thánh Kinh không không đủ, vì giáo dân chẳng có mấy người đọc thánh kinh, nhất là tuyệt đại đa số giáo dân trong thời Trung Cổ thuộc loại thấp kém, vô học, mà còn phải cộng thêm với chính sách nhồi sọ mê hoặc của giáo hội về chủ trương độc thần, về những huyền thoại như tội tổ tông, vai trò cứu thế của Giê-su, giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, huyền thoại về miền đất Thánh v..v.. đưa đến sự cuồng tín, tin nhảm tin nhí của đám tín đồ thấp kém, Ca-tô Rô-maGiáo mới có thể phát động được những cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ, cũng như phạm những núi tội ác khác trong suốt dòng lịch sử gần 2000 năm. Chứng minh?

Trước hết, tại sao các Thập Ác quân (crusaders) lại bỏ nhà bỏ cửa, bỏ vợ con, bỏ ruộng đất, vườn tược để đi thiêu thân trong các cuộc thánh chiến, đối diện với những cuộc hành trình gian khổ, bệnh tật, đói khát v..v..? Chúng ta có thể đọc vài giải thích sau đây.

Trong cuốn Sử Lược (The Outline of History, Vol. 2, Garden City Books, New York, 1956), sử gia H. G. Wells viết như sau, trang 540:

Trong thời đại ngu si đã có một sự sẵn sàng kỳ lạ tin rằng giới linh mục Ca-tô Rô-maGiáo là thông thái và thánh thiện. Tương đối giới linh mục khá hơn và khôn ngoan hơn trong thời đó [đối với quần chúng trong thời đó, nhưng ngày nay thì khác, giới linh mục là giới kém hiểu biết nhất trong những giới trí thức].

Khởi đầu của các cuộc Thập Ác Chinh cho ta hình ảnh của toàn thể Âu Châu bị bão hòa bởi một Ca-tô Rô-maGiáo [ý nói tập thể giáo dân Ca-tô Rô-maGiáo] ngây thơ, sẵn sàng tin cậy và đơn giản tuân theo sự chỉ đạo của giáo hoàng.” 18

Trong cuốn Năm Thế Kỷ Của Các Cuộc Thánh Chiến: Những Cuộc Thập Ác Chinh(Five Centuries of Holy Wars: The Crusades, Malcolm Billings, Sterling Publishing Co., Inc., New York, 1996), Jonathan Riley-Smith viết trong Lời Mở Đầu, trang 12:

Tại sao họ (thập ác quân) ra đi? Họ sống trong một xã hội rất khác với xã hội của chúng ta. Đó là một xã hội của những tín đồ mà đức tin của họ đã được củng cố bởi một quan điểm về thiên nhiên và vũ trụ mà ngày nay chúng ta biết là sai nhưng ít nhất cũng phù hợp với kinh nghiệm của họ.

Những hành động độc ác tồi tệ của họ – sự bạo hành những người Do Thái không tự vệ trong cuộc “tàn sát tập thể đầu tiên” [Trong cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên (1096-1099), như chúng ta sẽ thấy, sự tàn sát tập thể những cộng đồng Do Thái trên đường tiến quân của những đoàn Thập Ác quân Công Giáo, ngày nay được coi như là “the First Holocaust”. TCN] – đã phạm bởi những người mà đầu óc của họ đã bị điều kiện hóa bởi ý niệm trả thù. Họ được giáo hội (Ca-tô Rô-maGiáo) dạy là chiến đấu chống những người không tin đạo là biểu thị lòng yêu Thiên Chúa một cách quá sai lầm đến độ cuộc Thập Ác Chinh đối với họ là một hành động trả thù chống những người mà họ lên án là làm “ô danh Chúa Ki Tô”. 19

Trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng: Một Phê Bình Đánh Giá Di Sản Do Thái – Ki Tô (The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994), Joseph L. Daleiden, một học giả Ca-tô Rô-maGiáo, viết, trang 54:

Cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất được phát động bởi Giáo hoàng Urban II. Ông ta quạt những ngọn lửa thù hận chính đáng [vào tín đồ] bằng cách ban phép toàn xá – hoàn toàn tha thứ mọi hình phạt của Chúa vì những tội trong quá khứ – cho bất cứ người nào đi giết người cho danh dự và vinh quang lớn hơn của Thiên chúa. Nói cách khác, nếu Thập Ác quân bị giết, anh ta được bảo đảm là sẽ lên thiên đường ngay lập tức.” 20

Và sử gia Will Durant cũng viết trong bộ sử đồ sộ Câu Chuyện Về Nền Văn Minh (The Story of Civilization, quyển IV) về Thời Đại Của Đức Tin (The Age of Faith), trang 588, về những thành phần tham gia cuộc thánh chiến:

Một “ơn toàn xá” xóa bỏ mọi hình phạt vì tội lỗi đã được ban cho những Thập Ác quân chết trận. Các nông nô được phép rời bỏ ruộng đất mà họ bắt buộc phải lao động trong đó; các công dân được miễn thuế; những kẻ nợ nần được hoãn trả tiền lời; các tù nhân được phóng thích, và các tử tội được đổi thành khổ sai ở Palestine, do quyền lực của giáo hoàng đã được suy diễn một cách trắng trợn. Nhiều ngàn kẻ du thử du thực tham gia cuộc trường chinh thiêng liêng.” 21

Sống trong thời đại mê tín, những tín đồ vô học, hấp dẫn bởi những hứa hẹn hoang đường, không đủ đầu óc để biết đâu là sự thật, những đạo binh Thập Ác, như chúng ta đã biết, không phải là những giáo dân đi “hành hương thánh địa” (sic), hoặc là những “giáo dân Âu Châu sốt sắng, đạo đức sau những năm tháng thấm nhuần tin mừng” (sic) như vài tác giả Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã viết, mà hầu hết là những đoàn quân ô hợp gồm những nông dân ngây thơ cuồng tín, những nông nô (serfs) được giải phóng để đi giết người cho Chúa, cùng với những kẻ thành tích bất hảo như các tội phạm (criminals), ăn trộm ăn cắp (thieves), du thử du thực ăn bám xã hội (vagrants) v..v... Vì vậy các đạo binh Thập Ác mới phạm phải những tội ác vô tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Lẽ dĩ nhiên, những đạo binh thập ác này bao giờ cũng có những cấp chỉ huy là Giám mục (bishops), Linh mục (priests), Hiệp Sĩ thời đại (knights), và những nhà quý phái (noble men), hầu hết không có kinh nghiệm quân sự.



Thật vậy, chúng ta hãy đọc vài đoạn tóm tắt các cuộc Thập Ác Chinh trong cuốn Những Sự Khủng Khiếp Mang Nhãn Hiệu Thánh: Một Lịch Sử Minh Họa Về Sự Chém Giết Và Điên Rồ Tôn Giáo (Holy Horrors: An Illustrated History of Religious Murder and Madness của James A. Haught), trang 19-27:

Giáo Hoàng Urban II phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất vào năm 1096 để cướp lại Thánh Địa từ những kẻ không tin đạo (Hồi giáo). “Thiên Chúa muốn thế” (Deus Vult = God will it) là tiếng kêu gọi để tập hợp đoàn Thập Ác quân (crusaders)[Chúng ta thấy sự bịp bợm trắng trợn của Giáo hoàng Urban II đối với đám tín đồ thấp kém vô học ở dưới. Theo Công giáo, một trong những thuộc tính của Thiên Chúa là không ai có thể hiểu được (uncomprehensible) nhưng những tham vọng thế tục của giới giáo sĩ Ca-tô Rô-maGiáo, từ Giáo hoàng trở xuống cho đến các linh mục, luôn luôn được diễn giải đó là “Ý Chúa” và các tín đồ ngu dốt cứ nhắm mắt mà tin và phạm đủ mọi tội ác. Người Ca-tô Rô-maGiáo gọi crusaders là những “thánh giá binh” vì họ được dạy rằng, cái giá hình chữ thập mà người La Mã dùng để đóng đinh những tội phạm như ăn trộm, ăn cướp v..v..., một hình phạt thuộc loại man rợ nhất của người La Mã cổ xưa, đã trở thành cái “thánh giá” vì Giê-su của họ bị đóng đinh trên đó (cùng lúc với 2 tên ăn trộm). Charlie Nguyễn, một người Ca-tô Rô-maGiáo tỉnh ngộ đã phê bình: Nếu Giê-su bị treo cổ thì cái thòng lọng treo cổ Giê-su sẽ trở thành cái “thánh thòng lọng”. Qua những hành động của các “thánh giá binh” trong các cuộc Thập Ác Chinh mà chúng ta đọc sau đây, danh từ chính xác phải là “Thập Ác quân”. TCN]. Khắp Âu Châu, những đám người cuồng tín lúc nhúc trong những đoàn quân hỗn tạp ô hợp dẫn đầu bởi các linh mục có uy tín lôi cuốn quần chúng. Nhiều chục ngàn người theo một linh mục dơ dáy, Peter the Hermit, người đã trưng ra một lá thư mà ông ta nói là Thiên Chúa đã viết cho ông ta và được Giê-su trao tận tay cho ông ta [Thiên Chúa là một sản phẩm tưởng tượng của con người, còn Giê-su thì đã chết từ ngàn năm trước, thế mà sự bịp bợm của Peter the Hermit vẫn có người tin và đi theo ông ta để giết người] chứng nhận vai trò lãnh đạo của ông ta. Nhiều ngàn người khác theo linh mục Walter the Penniless.

Trong thung lũng sông Rhine ở Đức, một cánh Thập Ác quân đi theo một con ngỗng mà họ tin rằng chính là hiện thân của Thánh Linh để hướng dẫn họ. Cánh quân này hợp với cánh quân của Emich ở Leisingen, một lãnh tụ tuyên bố rằng một dấu Thập Ác đã hiện ra trên ngực ông ta như là một thánh dấu (holy sign) của một phép lạ. Emich quyết định là, trước khi đi trên 3200 cây số để giết những kẻ thù của Thiên Chúa ở vùng đất thánh, bổn phận tôn giáo của Thập Ác quân là phải giết “những kẻ không tin đạo trong giữa chúng ta”: những người Do Thái ở Mainz, Worms, và ở các thị trấn Đức khác. Đoàn Thập Ác quân tràn qua những cộng đồng Do Thái, chém giết và thiêu sống nhiều ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ con không thể tự vệ. Nhiều người Do Thái, trong những khu đã dựng lên chướng ngại vật để ngăn chận đoàn Thập Ác quân, đã phải nuốt nước mắt giết con cái của mình rồi tự tử trước khi đoàn Thập Ác quân ô hợp tràn vào.

Những đoàn quân khác dẫn đầu bởi các linh mục Volkmar và Gottschalk cũng tàn sát tương tự những người Do Thái ở Prague và Regensburg ở Bavaria. Thỉnh thoảng, trong giờ phút cuối cùng, dưới ngọn gươm, các nạn nhân được cho một cơ hội sống sót bằng cách cải đạo vào Ca-Tô Rô-MaGiáo.

Nhiều đoàn Thập Ác quân khác đi qua những xứ Ki Tô như Hung Gia Lợi(Hungary), Nam Tư (Yugoslavia) và Bulgaria. Họ cướp bóc lương thực trong các vùng quê, gây nên những cuộc đánh nhau với dân và quân lính địa phương. Trong một cuộc đụng chạm, đoàn quân của Peter the Hermit đã giết 4000 dân Ki Tô ở Zemun, Yugoslavia, và thiêu rụi Belgrade gần đó. Nhiều ngàn Thập Ác quân đã chết trong những trận đánh hỗn loạn ở Bulgaria. Sau cùng, chỉ còn có một phần của những đoàn quân ô hợp là tới được đất Thổ (Turkey) của Hồi giáo, ở đó sau bị những đoàn quân Hồi giáo tàn sát gần hết.

Sau đó, những đoàn hiệp sĩ Ki Tô chuyên nghiệp đã được tổ chức để tham gia cuộc Thập Ác Chinh. Các giám mục đi theo đoàn hiệp sĩ để ban phúc lành cho những hành động ác ôn của họ. Những đoàn quân chuyên nghiệp này chặt đầu người Hồi giáo và đeo những đầu lâu như là chiến lợi phẩm. Sau một trận thắng ờ bờ bể Syria gần Antioch, Thập Ác quân mang về trại 500 đầu lâu. 300 đầu lâu được bêu trên các cọc để khủng bố tinh thần quân Hồi đang giữ thành Antioch. Những linh mục chép sử ghi rằng một “Thập Ác quân giám mục” gọi những đầu lâu khủng khiếp đó là một cảnh ngoạn mục hoan hỉ cho dân Chúa. Trong thành Antioch, quân Hồi, để trả đũa, cũng chặt đầu các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo rồi bêu hướng ra ngoài thành. Sau cùng Thập Ác quân đã tiến vào Antioch ngày 3 tháng 6, 1098, và giết mọi dân chúng trong đó.

Rồi một đoàn quân Hồi giáo tiến đến vây lại thành Antioch. Thập Ác quân trong thành thiếu lương thực, gần chết đói, và linh mục Peter Bartholomew tuyên bố rằng một thánh đã hiện ra trước ông ta trong một viễn tượng và tiết lộ cho ông ta biết là cây giáo đâm lên cạnh sườn Giê-su khi Giê-su bị đóng đinh được chôn ở dưới một nhà thờ trong Antioch. Cây Thánh Giáo (Holy Lance) được đào lên và là một thánh tích khích động sự cuồng nhiệt của Thập Ác quân. Họ xông ra ngoài thành trong một cuộc chém giết cuồng tín khiến cho quân Hồi phải bỏ trại mà chạy, để lại vợ đàng sau. Nhà ghi sử Fulcher ở Chartres hãnh diện ghi rằng: “Khi thấy những người đàn bà ở trong trại Hồi, Thập Ác quân Pháp không làm điều gì ác ngoài việc dùng giáo mác đâm xuyên vào bụng họ”.

Tiến vào Jerusalem, Thập Ác quân thanh tẩy cái thành thánh này bằng cách giết hầu như mọi người dân trong đó. Người Do Thái trốn trong giáo đường bị thiêu sống cùng với giáo đường. Thây người chất thành đống ngoài đường phố. Nhà ghi sử Raymond ở Aguilers ghi rằng:

Thật là những cảnh kỳ diệu. Rất nhiều người Hồi bị chặt đầu... Nhiều người khác bị dùng làm bia bắn tên hay bị ép phải nhảy từ những chòi cao xuống; nhiều người khác bị tra tấn trong nhiều ngày, rồi thiêu sống. Ngoài đường phố có hàng đống những đầu lâu, tay và chân. Trong đền Solomon (đền thờ Thiên Chúa do Solomon dựng lên) ngựa lội trong máu ngập đến khuỷu chân, không phải, đến giây buộc yên ngựa. Thật đúng là một sự phán xét công bằng và tuyệt vời của Thiên Chúa, rằng chỗ này phải ngập đầy máu của những kẻ không tin Thiên Chúa. Trong hai thế kỷ sau đó, Hồi giáo chiếm lại nhiều phần trong Thánh Địa, đưa đến 7 cuộc Thập Ác Chinh khác của Ca-tô Rô-maGiáo. Hầu hết những cuộc chinh chiến của Ca-tô Rô-maGiáo này bắt đầu bằng sự tàn sát những người Do Thái ở Âu Châu.



Trong cuộc Thập Ác Chinh thứ ba, sau khi Richard the Lion-Hearted chiếm thành Acre (ở phía Tây Bắc Jerusalem. TCN) năm 1191, ông ta ra lệnh mang 3000 người dân trong thành, trong đó có nhiều đàn bà và trẻ em, ra giết ở ngoài thành. Các thây người được mổ banh bụng để tìm kiếm những châu báu có thể đã được nuốt đi. Các giám mục ngâm nga các bài kinh cầu nguyện tạ ơn Chúa. Nhà ghi sử Ambroise viết: “Mọi người đều bị giết. Vì đây là ân huệ của đấng sáng tạo”. Thánh Bernard ở Clairvaux đã chẳng nói khi phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ hai: “Người Ca-tô Rô-maGiáo thích thú trong cái chết của người ngoại đạo, vì như vậy Chúa Ki Tô đã được vinh danh”.

Trong cuộc Thập Ác Chinh thứ tư, các đoàn Thập Ác quân đã cướp sạch các thị trấn Ki Tô Constantinople và Zara. Cuộc Thập Ác Chinh của trẻ con năm 1212 là một thảm cảnh căn cứ trên niềm tin là Thiên Chúa sẽ ban sức mạnh cho những đứa trẻ ngây thơ để chiến thắng quân Hồi. Hầu hết bọn trẻ bỏ mình mà không tới được Thánh Địa.

Sau cùng, mọi sự chấm dứt năm 1291 khi Hồi giáo chiếm lại những căn cứ cuối cùng của Ca-tô Rô-maGiáo, Acre, và giết sạch những người Ca-tô Rô-maGiáo trong đó để trả thù vụ Richard tàn sát người Hồi trước đó một thế kỷ. Thánh Địa lại nằm trong tay của Hồi Giáo. Hai thế kỷ giết chóc và tàn phá vô ích, chẳng được cái gì. 22

Về những thánh tích (holy relics) trong Ca-tô Rô-maGiáo, như cây giáo đâm vào cạnh sườn Giê-su, tác giả James A. Haught có bình luận như sau, trang 24-25, chứng tỏ Ca-Tô Rô-MaGiáo là tôn giáo mê tín bậc nhất trong thiên hạ, và các vị lãnh đạo Ca-tô Rô-maGiáo đã khai thác sự mê tín của đám tín đồ tới mức nào. Xin nhắc là, đi kiếm “thánh tích” ở vùng Thánh Địa là một động cơ khích động tín đồ tham gia vào các sự chém giết trong các cuộc Thập Ác Chinh:



Cái cây Thánh Giáo (Holy Lance) có đúng là thật hay không hay chỉ là ngụy tạo không được các linh mục ghi sử quan tâm. Giáo hội Ki Tô bị ám ảnh bởi việc kiếm ra và thờ phụng các “thánh tích”. Những mảnh của cây thập giá mà Giê-su bị đóng đinh trên đó, những mảnh thân thể các thánh (pieces of saints’ bodies), những giọt nước mắt còn ướt của Giê-su (still-wet tears shed by Jesus), những mảnh từ cái mũ gai Giê-su đội, những quần áo lót của Mary (Mary’s undergarments) – đó là những vật được gìn giữ trong các hộp châu báu trong mọi nhà thờ lớn. Một ông vua Saxony hãnh diện có được 17000 thánh tích, kể cả một cành trong bụi cây cháy của Moses và một cái lông cánh của thiên thần Gabriel. Nhà thờ Canterbury trưng bày một miếng đất sét còn lại sau khi Thiên Chúa dùng nó để nặn ra Adam (Canterbury Cathedral displayed part of the clay left over after God fashioned Adam.) Sử gia Charles Mackay nói rằng các nhà thờ Tây Ban Nha có 6 hay 7 cái xương đùi của Mary đồng trinh (six or seven thighbones of the Virgin Mary), và các nhà thờ khác có những móng chân của thánh Peter có thể chứa đầy một cái bị. Voltaire ghi rằng có 6 miếng da qui đầu cắt ra khi Giê-su làm lễ cắt bì; về sau các nhà nghiên cứu đếm được 15 (Voltaire noted that 6 sacred foreskins were snipped from Jesus at his circumcision; later researchers counted fifteen) 23

Trên đây chỉ là sự mô tả sơ lược những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo. Qua sự mô tả này, chúng ta hẳn đã thấy tất cả những sự tàn bạo và những điều cực kỳ mê tín trong tôn giáo đó. Vậy mà các tác giả Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam đã mô tả những cuộc Thập Ác Chinh như là những cuộc “hành hương thánh địa” (sic) của những “giáo dân Âu Châu sốt sắng, đạo đức sau những năm tháng thấm nhuần tin mừng” (sic). Hiển nhiên là đầu óc của họ thuộc loại hết thuốc chữa. Vấn đề là, trong thời buổi này, tại sao họ vẫn còn hi vọng lừa dối độc giả bằng những luận điệu bẻ cong sự thật. Có lẽ mục đích của họ không phải để cho đại chúng đọc mà chỉ để giữ tín đồ trong vòng ngu dốt, mê tín và cuồng tín. Đây chính là sách sách lược của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo toàn cầu từ xưa tới nay.



Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐÃ NÓI GÌ VỀ NHỮNG CUỘC THÁNH CHIẾN của tác giả Ngô Triệu Lịch, nói về những luận điệu bẻ queo sự thật của Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo dạy đám tín đồ mà một số con vẹt trí thức Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam nhắc lại về các cuộc gọi là “Thánh chiến”:

Bài viết này không phải là một “khảo cứu lịch sử” về các cuộc thánh chiến, do Giáo hội Rôma phát động. Nhưng thông qua “lịch sử thánh chiến”, người viết muốn đưa ra những nhận định của mình, về quan điểm của một số tác giả Công giáo người Việt, khi họ đề cập đến “thánh chiến” mà người viết đã có dịp đọc qua trên các sách, báo, tạp chí, hoặc các website Công giáo…

Đại để, các tác giả Công giáo khi đề cập đến “thánh chiến”, họ đều có chung những nhận định mang tính hộ giáo, dù họ thừa nhận có những sai lầm nhất định trong các đợt phát động thánh chiến của giáo hội, nhưng tất cả đều vận dụng những quan điểm thần học cũ kỹ, lạc hậu, như: “ý chúa”, “sự quan phòng”, “chúa thánh thần dẫn dắt”… để biện minh cho những sai lầm ấy. Tâm lý tự ti, mặc cảm, là điều dễ thấy trong các lập luận. Ngụy biện, gượng ép, đổ lỗi cho hoàn cảnh lịch sử, cho sự hiếu chiến của Hồi giáo, cho những tham vọng chính trị của vua chúa các nước châu Âu, ngụy biện những cuộc thánh chiến do “mẹ giáo hội” phát động chỉ là sự tự vệ… Từ đó, hướng độc giả vào một cái nhìn “cảm thông”, vẽ ra chân dung của một Urban II “thánh thiện, dũng cảm và khôn ngoan”, một đoàn người hành hương “sốt sắng, đạo đức, thấm nhuần Tin Mừng”… Tội ác tày trời của đế quốc Vatican dưới ngòi bút của họ biến thành con số không…Và đặc biệt, họ say sưa ca ngợi “chúa quan phòng”, bắt “chúa” của họ phải “quan phòng” đến cả những tội ác mà giáo hội Công giáo La Mã đã gây ra cho nhân loại…

Để biện hộ cho sự hiếu chiến của “mẹ giáo hội” của họ, các tác giả Công giáo người Việt đã lập luận bát nháo, bất chấp sự tròng tréo, mâu thuẫn trong cùng một sự kiện. Ví dụ: Linh mục Phạm Đức Trị viết : “Có thể nói Ðức Urban II chỉ có ý mời gọi những binh lính đã từng cầm võ khí, và đã có kinh nghiệm gia nhập Ðạo Binh Thánh giá mà thôi, vì ngài có ý thiết lập một đội binh tinh nhuệ cho một cuộc thánh chiến. Nhưng không ngờ tiếng nói của ngài đã làm ảnh hưởng tới một Âu châu sốt sắng, đạo đức sau những tháng năm được thấm nhuần Tin Mừng.” (Lm. F.X. Phạm Ðức Trị, OMI. Giáo Hội Thời Ðạo Binh Thánh Giá, CD-rom vietcatholic 2001). Trong khi đó, lập luận của tác giả Đình Vượng hoàn toàn ngược lại: “Lời kêu gọi của Giáo hoàng Urbani II không nhằm vào các vua chúa phương tây, mà nhằm vào lòng quảng đại của người tín hữu. Sau lời kêu gọi của Giáo hoàng, tu sĩ Pierre L’Ermite và hiệp sĩ Adémar de Monteil chẳng biết gì về quân sự lại đứng ra tập hợp quần chúng thành những đoàn quân, kéo về Constantinople. Người Bazance hốt hoảng và Giáo hoàng Urbain đã không trù liệu một đoàn thập tự chinh ô hợp đã bị người Hồi tàn sát gấn hết ở Tiểu Á ” (Đình Vượng, Quan hệ Vatican và Giáo hội Công giáo, tr 269).

So sách hai trích dẫn của hai tác giả nêu trên, ta thấy, theo Lm Phạm Đức Trị, Giáo hoàng Urban II chỉ triệu tập những binh lính tinh nhuệ gia nhập đạo binh thánh giá, chứ không hề kêu gọi quần chúng tham gia. Những ông già, bà cả, trẻ con, tự nguyện tham gia thánh chiến, chẳng qua vì họ quá “sốt sắng, đạo đức sau những tháng năm được thấm nhuần Tin Mừng…”, chứ Giáo hoàng không hề kêu gọi họ. Ngược lại, tác giả Đình Vượng khẳng định: “Lời kêu gọi của Giáo hoàng Urbani II không nhằm vào các vua chúa phương tây, mà nhằm vào lòng quảng đại của người tín hữu”. Vì thế, Pierre L’Ermite và Adémar de Monteil là những người vốn mù tịt về quân sự, được giao trọng trách mang đoàn quân thập tự ô hợp đến Tiểu Á để cho quân Hồi giáo “nướng” sạch!... Cùng một sự kiện lịch sử, nhưng cả hai tác giả Công giáo này có hai lập luận mâu thuẫn, đối nghịch nhau. Tuy vậy, cả hai đều gặp nhau ở cùng một điểm: chạy tội cho “mẹ giáo hội” vốn đang rất sốt ruột vì quân Hồi chiếm giữ đất thánh Jêrusalem! Và cũng vì tín đồ rất “đạo đức, sốt sắng, thấm nhuần Tin Mừng !?” đang khao khát hành hương đất thánh…

Sự kiện Giáo hoàng Urban II triệu tập công đồng Clermont kêu gọi "tái chiếm Jêrusalem, cứu đất thánh” là một vết nhơ khó tẩy của đế quốc Vatican. Dù muốn biện hộ thế nào thì cuộc chiến do Urban II phát động vẫn là một tội ác. Urban II đã lợi dụng lòng tin mù quáng của đám tín đồ cuồng tín, hứa "ban ơn toàn xá" để bảo đảm “phần rỗi linh hồn” cho họ, đẩy họ vào cuộc chiến không cân sức với đội quân tinh nhuệ Hồi giáo. Ðiều trớ trêu là những người tham gia thánh chiến vì ham mê "ơn toàn xá" của Giáo hoàng mà gia nhập chứ họ chưa hề qua một lớp huấn luyện quân sự nào. Kết quả là nhiều người trong đoàn quân ô hợp, vô kỷ luật và cuồng tín "lên thiên đàng thẳng cẳng" nhờ ơn toàn xá của Giáo hoàng!.. Phịa chuyện “tìm thấy chiếc mác đồng đâm cạnh sườn Chúa Giêsu dưới bàn thờ đền thánh Phêrô” để kích động sự cuồng tín của tín đồ, đẩy họ vào chỗ chết, dẫu có biện hộ thế nào, vẫn cứ là một tội ác.

Chúng ta thấy, trong 2000 năm nay, Giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo đã áp dụng triệt để chủ thuyết hắc ám, nghĩa là chủ truơng làm cho tín đồ trở thành ngu muội, tối tăm, với tâm cảnh nô lệ, hoàn toàn tuân phục giáo hội và bắt buộc phải tin rồi lập lại bất cứ luận điệu nào của giáo hội giải thích về bất cứ một vấn đề nào đó, bất kể là luận điệu đó hoàn toàn sai với sự thực.

Những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo kéo dài trong bao nhiêu năm? Tất cả các học giả đều đồng ý là cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên khởi sự năm 1096. Nhưng những cuộc Thập Ác Chinh chấm dứt năm nào thì có nhiều công cuộc nghiên cứu đưa ra những năm khác nhau. Trước đây người ta thường cho rằng các cuộc Thập Ác Chinh chấm dứt vào năm 1396 hoặc chậm nhất là năm 1444. Cách đây 50 năm, sử gia Steven Runciman viết Thập Ác Chinh chấm dứt năm 1464. Và rồi có những cuộc nghiên cứu khác đưa ra những niên kỷ như 1560 và 1571. Cuối cùng là năm 1798. Sinh viên ngày nay phải đối diện với 700 năm Thập Ác Chinh song song với lịch sử của toàn thể Âu Châu, từ Greenland đến Hi Lạp, từ Tây Ban Nha đến Nga, cùng với Tây Á, Bắc Phi và Châu Mỹ La Tinh, tùy theo các học giả định nghĩa Thập Ác Chinh như thế nào.

Tuy nhiên, thường thì trong lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo, người ta chỉ kể có 8 (hoặc 9, tùy theo quan niệm) cuộc Thập Ác Chinh chính (nhà trí thức Ca-tô Rô-maGiáo Võ Đức Hạnh đã gọi cuộc xâm lược Việt Nam của các giáo sĩ thừa sai Công giáo, sát cánh với thực dân Pháp, là "cuộc Thập Ác Chinh thứ 9"). Có học giả còn cho rằng Ca-Tô Rô-MaGiáo vẫn tiếp tục tung ra những cuộc Thập Ác Chinh, và một vài luận điệu thần học của nhóm Ca-tô Rô-maGiáo hiếu chiến trong thế kỷ 20 đã dập theo khuôn của giáo hoàng Urban II và thánh Bernard (Much of the world of the crusaders is still in evidence. Some of the theology of the 20th century “militant” Christianity, now prevalent in Africa, Asia and South America, might well have come from the lips of Pope Urban II or St. Bernard of Clairvaux), dưới một hình thức khác với các cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ.

Gần đây, có nhiều dư luận cho rằng cuộc xâm chiếm Iraq của Mỹ có hình thức một cuộc Thập Ác Chinh của Ki Tô Giáo chống Hồi giáo. Tổng thống Bush đã dùng danh từ “Thập Ác Chinh ” (crusade) sau vụ 11 tháng 9, 2000. Và tổng thống Bush cũng quyết định gạt Âu Châu ra ngoài, chỉ trao khế ước xây dựng lại Iraq cho những tổ chức Mỹ, coi đó như là phần thưởng cho những người ủng hộ chiến tranh (Chicago Tribune, Dec.12, 2003: President Bush says war’s backers should be rewarded).

Đại cương thì các cuộc Thập Ác Chinh trong thời Trung Cổ là do các giáo hoàng phát động hoặc cổ võ, khuyến khích và chấp thuận, và kết quả là những cuộc tàn sát tập thể người Do Thái, Hồi Giáo, và cả những người Ki Tô Giáo không cùng đức tin với Ca-tô Rô-maGiáo, không đồng thuận và không chấp nhận quyền lực của giáo hoàng, vừa để tiêu diệt những người khác đạo, vừa để giành lại vùng Thánh Địa Jerusalem mà người Ca-tô Rô-maGiáo tin là thuộc về họ theo lời hứa của Chúa, và nhất là để cướp bóc vơ vét của cải thế gian.

Ở đây, hiển nhiên tôi không thể viết đầy đủ về các cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo, mà chỉ có thể đưa ra những nét chính của vài cuộc thánh chiến quan trọng nhất. Có ba cuộc Thập Ác Chinh phản ánh trung thực nhất sự tàn bạo của Ca-Tô Rô-MaGiáo và ảnh hưởng mê hoặc của Ca-tô Rô-maGiáo lên đầu óc con người, từ già tới trẻ: đó là cuộc Thập Ác Chinh đầu tiên (The First Crusade) với chủ đích chính là giành lại thánh địa Jerusalem và ngôi mộ Giê-su; cuộc Thập Ác Chinh Albigense (The Albigensian Crusade) để tận diệt những người Ki Tô không có cùng niềm tin với người công giáo; và cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ (The children’s Crusade) mà nguyên nhân là sự ngu dốt và cả tin của những đầu óc ngây thơ vào những điều hoang đường trong thánh kinh mà chúng được nghe giảng dạy.. Chúng ta đã biết sơ lược về cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất và vài cuộc Thập Ác Chinh sau đó qua sự mô tả ở trên của James A. Haught. Sau đây tôi sẽ trình bày sơ lược về cuộc Thập Ác Chinh Albigense và cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ để chúng ta thấy rõ sự tàn bạo và mê tín của Ca-Tô Rô-MaGiáo lên đến mức nào. Những phần viết sau đây được lấy từ những nguồn tài liệu khác nhau.

Cuộc Thập Ác Chinh Albigense.-

Ca-tô Rô-maGiáo giết người theo Hồi Giáo trong các cuộc Thập

Ác Chinh. Ca-tô Rô-maGiáo cũng giết những người Do Thái trong những cuộc tàn sát vô tiền khoáng hậu. Nhưng không phải tất cả chỉ có thế. Ca-tô Rô-maGiáo cũng còn xuống tay giết những người Ki Tô Giáo mà họ cho là lạc đạo hay dị giáo (heretics), nghĩa là những người không chịu tin theo những tín lý nhảm nhí của Ca-Tô Rô-MaGiáo. Cuộc tàn sát những người “lạc đạo” dã man, tàn nhẫn và ghê tởm nhất của giáo hội Công giáo là cuộc Thập Ác Chinh Albigense, phát động bởi giáo hoàng Innocent III năm 1208.

Giáo phái Ki Tô Albigense tương tự như đạo Cao Đài của Việt Nam. Giáo phái này tin vào giáo thuyết của một nhà cải cách Ba Tư, Mani, người bị đóng đinh trên thập giá năm 277. Đầu óc cởi mở của Mani chấp nhận tất cả những nhà lập giáo lớn – Moses, Zoroaster, Đức Phật và Giê-su. Ngoài ra, Giáo phái này còn lên án sự giàu sang và phi luân của giới giáo sĩ Công giáo (denounced the riches and immorality of the clergy), cho nên giáo hoàng Innocent III đã phát động một cuộc “Thập Ác Chinh” chống giáo phái này, cho phép các thập ác quân được cướp bóc, hãm hiếp và giết bọn người xấu số này (The Pope preached a “crusade” against them, so giving complete licence to any wandering scoundrel to rob, rape and kill these unfortunates).

Sau đây là sơ lược diễn tiến của cuộc Thập Ác Chinh Albigense, được kể trong cuốn Máu Thánh, Chén Thánh ("Holy Blood, Holy Grail", Michael Baigent, Richard Leigh, and Henry Lincoln, trg. 49-50):

"Năm 1209, một đoàn quân khoảng 30 ngàn người, gồm các kỵ sĩ và bộ binh, như 1 cơn gió lốc từ miền Bắc Âu Châu tràn xuống Languedoc - vùng chân núi phía Đông Bắc của dãy núi Pyrenees, ngày nay là miền Nam nước Pháp. Trong cuộc chiến tranh này, toàn vùng bị tàn phá, mùa màng phá hoại, các thành phố và thị trấn thành bình địa, cả 1 dân tộc bị chém giết. Cuộc tiêu diệt này rộng lớn và khủng khiếp đến độ ta có thể coi đó như là trường hợp đầu tiên của chính sách "diệt chủng" trong lịch sử Âu Châu hiện đại. Thí dụ, chỉ nguyên trong thành phố Béziers, ít nhất là có 15 ngàn người: đàn ông, đàn bà, trẻ con bị tàn sát, nhiều người bị giết ngay chính trong cung Thánh của nhà thờ. Khi một sĩ quan hỏi vị đại diện của Giáo Hoàng: 'làm sao phân biệt được ai là tín đồ và ai là tà đạo?' thì câu trả lời là: "Giết hết đi. Thiên Chúa sẽ nhận biết ai là tín đồ của Người." Sau đó, chính vị đại diện trên hãnh diện báo cáo với giáo hoàng Innocent III ở La Mã là: "Không một ai, bất kể thân phận, tuổi tác, hay trai gái, được sống sót."

Sau Béziers, đoàn quân xâm lăng tràn qua toàn vùng Languedoc. Các vùng như Perpignan, Narbonne, Carcassonne, Toulouse lần lượt rơi vào tay đoàn quân này. Và bất cứ nơi nào đoàn quân đi qua cũng để lại dấu vết của cảnh tàn sát, máu đổ, chết chóc. Cuộc chiến này, kéo dài trong 40 năm, ngày nay được biết dưới tên "Cuộc Thập Ác Chinh Albigense." Đây là cuộc Thập Ác Chinh theo đúng nghĩa của nó. Chính giáo hoàng đã huy động cuộc Thập Ác Chinh này. Đoàn Thập ác quân, mang dấu thập ác trên quân phục, như những Thập ác quân ở Palestine trước đó. Phần thưởng cho họ cũng giống như phần thưởng cho những Thập ác quân trong vùng đất Thánh: được tha mọi tội lỗi, được giải tội, được bảo đảm một chỗ trên Thiên Đàng, và được làm chủ tất cả những tài vật có thể chiếm đoạt được." 24

Với lịch sử tàn bạo giết người Ki Tô không cùng niềm tin với người Công giáo của Giáo hội Công giáo ngay từ đầu, chúng ta không lấy gì làm lạ khi thấy Công giáo đã ra tay tàn sát những người Tin Lành trong thế kỷ 17, 18 và còn kéo dài cho đến ngày nay tại một vài vùng địa dư, điển hình là ở Bắc Ái Nhĩ Lan. Tuy nhiên, ngày nay giáo hội Công giáo đã mất đi quyền lực thế tục nên ít còn khả năng giết người “lạc đạo” cũng như người “ngoại đạo”. Nhưng lịch sử rất có thể tái diễn bất cứ ở nơi nào mà Công giáo nắm được quyền lực thế gian. Những cuộc giết người khác đạo của Công giáo trong thời cận đại, điển hình là Palevich ở Croatia đã giết 700000 người Chính Thống (Orthodox) và Hippies ở Croatia, Ngô Đình Diệm giết hoặc cưỡng bách nhiều ngàn Phật tử và người ngoài đạo cải đạo ở Nam Việt Nam là những kinh nghiệm để cho chúng ta luôn luôn phải đề phòng khi người Công giáo nắm được địa vị thế quyền. Avro Manhattan, tác giả cuốn Vatican’s Holocaust, cũng đã báo động trong cuốn sách nổi tiếng trên của ông:

Những đoan quyết (về đức tin) căn bản của Công Giáo chưa bao giờ thay đổi chút nào. Cho đến nay, cũng như tự bao giờ, sự chấp chặt của giáo hội Công giáo vào tính cách duy nhất của mình vẫn còn chắc như đá hoa cương. Cũng chính vì sự chấp chặt này mà đã xảy ra những tòa án xử dị giáo, Croatia và chế độ độc tài Công giáo ở (Nam) Việt Nam.

Nếu quá khứ là một dấu hiệu về sự thành hình những việc có thể xảy ra trong tương lai, thì khi nắm được cơ hội và trong một bối cảnh chính trị thích hợp, những tòa án xử dị giáo mới, những Cratia mới và Việt Nam mới sẽ lại được tạo ra hoài hoài. Khi nào, ở đâu, và như thế nào, chỉ có tương lai mới trả lời được.” 25

Trong thời Trung Cổ, giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo ở vị thế quyền lực thế gian tuyệt đối. Giáo hoàng đứng trên vua chúa, giáo dục quần chúng nằm trong tay giáo hội. Nền giáo dục Công giáo, hay nói cho đúng hơn, chính sách nhồi sọ của giáo hội trên những đầu óc còn non dại đã khiến cho lớp trẻ mê mẩn về những điều giáo hội dạy về Ca-tô Rô-maGiáo, về Thánh Kinh, tuyệt đối tin vào những điều mê tín hoang đường. Thí dụ điển hình về chính sách nhồi sọ của giáo hội Công giáo đã đầu độc đầu óc lớp trẻ, đưa đến cuộc Thập Ác Chinh của những đứa trẻ vị thành niên như chúng ta sẽ thấy sau đây.



Cuộc Thập Ác Chinh Của Những Đứa Trẻ.-

Sau đây là lời tường thuật cuộc Thánh chiến của những đưa trẻ vị thành niên trong cuốnCác cuộc Thập Ác Chinh (The Crusades by Henry Treece, trg. 182-185). Thực ra đây không phải là một cuộc Thập Ác Chinh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ là một thảm trạng bắt nguồn từ một niềm tin tôn giáo sai lầm, mang tinh thần Thập Ác Chinh, của những trẻ vị thành niên bị đầu độc tư tưởng bởi những huyền thoại trong Thánh kinh.



"Năm 1212 một sự việc vô tiền khoáng hậu trong lịch sử thế giới đã xảy ra: trẻ em Pháp và Đức đã tổ chức một cuộc Thập Ác Chinh, không được sửa soạn kỹ càng, không có vũ khí và không có gì giúp chúng ngoài sự ngay thẳng ngây thơ của chúng.

Vua Pháp là Philip, đang ở St. Denis, thì một em bé trai chăn cừu 12 tuổi, tên là Stephen ở vùng Cloyes, gần Orleans, đến yết kiến ngài với một lá thư mà em nói rằng do chính Chúa Ki tô gửi cho em, bảo em tổ chức một cuộc Thập Ác Chinh tiến vào Jerusalem.. Vua Pháp ra lệnh cho em nhỏ trở về nhà cha em, nhưng Stephen đang ở trong sự say mê điên cuồng tôn giáo. Hắn dám bất tuân ngay cả lệnh vua, tuyên bố rằng, trong một kiến giác (vision) (ngày nay chúng ta gọi là ảo giác (delusion)), Chúa KiTô đã hứa là biển sẽ khô cạn để cho Stephen và tất cả những ai theo hắn có thể an toàn đi trên biển như đi trên bộ tới Jerusalem. giống như câu chuyện hoang đường ngày xưa (trong Thánh Kinh): Hồng Hải đã mở ra cho Moses, con người chăn cừu kia.

Một vài giáo sĩ thất kinh về cái sự phỉ báng của đứa trẻ - nhưng, kỳ thay, Giáo hoàng Innocent III tuyên cáo là "chính những đứa trẻ đặt chúng ta vào sự ô nhục" (một lời khuyến khích có ý nói là lòng tin của những đứa trẻ mãnh liệt hơn của chúng ta), và, chắc hẳn Stephen có một khả năng thuyết phục làm cho người ta ngỡ ngàng trước một người còn quá trẻ và vô học như Stephen. Trẻ em từ nhiều vùng trong nước Pháp tụm lại quanh Stephen, mang theo cờ xí trên có dấu cờ hiệu của Vua. Đến tháng 6, 1212, ở nơi họp, Vendôme, có tới 30,000 đứa trẻ tập họp lại để bắt đầu cuộc tiến quân lâm ly tới vùng đất Thánh, không có bản đồ và không có ngay cả lương thực. Họ sắp sửa dự phần trong cái mà ta chỉ có thể gọi là một niềm tin thống thiết.

Chúng ta không thể biết được có bao nhiêu em lẩn tránh được sự ngăn cấm của bố mẹ: có thể các bậc cha mẹ, nghe lời tán thán của giáo hoàng, sợ không dám tranh đua với sự chấp thuận của giáo hoàng, có thể họ không có mấy quyền trong những địa hạt mà chính họ đã đi theo Boniface và Dandolo (2 tư lệnh trong cuộc Thập Ác Chinh thứ 4; TCN); và có thể vì cái khả năng quyến rũ của Stephen đã khiến cho đám trẻ trai gái này trở thành điếc trước mọi lời khiển trách. Dù sao thì, đám trẻ này đã lên đường mùa hè năm đó, có nhiều người lớn thuộc loại ăn bám nhập bọn, kể cả những linh mục bị lôi cuốn bởi cái sự ngây ngất truyền nhiễm này, và đi qua những vùng Tours, Lyons xuống tới Marseilles, dọc đường kiếm ăn ở nơi nào có thể kiếm được.

Nhưng mùa hè năm 1212 nóng một cách bất thường, mùa màng chưa gặt, thực phẩm và nước uống hiếm hoi vì hạn hán. Nhiều em chết ở dọc đường trong khi một số khác tìm đường quay trở về quê. Sau cùng, khi số còn lại tới được Marseilles thì chúng bị thất vọng lớn vì thấy biển không khô cạn như đứa trẻ chăn cừu Stephen đã hứa để chúng đi tới vùng đất Thánh.

Sau vài ngày sống cực khổ ở hải cảng này, chúng được hai người lái buôn vô lương tâm đến tiếp xúc. Hai người này, tên là Hugh the Iron và William the Pig đề nghị chở đoàn trẻ này tới Palestine bằng 7 chiếc tàu, hoàn toàn miễn phí.

Stephen vui vẻ nhận lời, coi đó như là cánh tay của Thiên Chúa cứu vớt chúng một cách huyền nhiệm. Những tàu này ra khơi nhưng đi xuống phía Nam chứ không đi tới vùng đất Thánh. Nơi tới là hải cảng Bougie của dân Saracen, nơi đây tất cả các đứa trẻ Pháp này đều bị bán đi làm nô lệ.

...Người ta cho rằng trong số 30000 trẻ em phát xuất từ Vendôme, chỉ có một người duy nhất, một linh mục trẻ, trở về được nước Pháp, sau 18 năm bị làm nô lệ."

Cái cơn sốt Thập Ác Chinh này lan tới các trẻ em Đức. Chúng bị kích động bởi lời thuyết giảng của một em trai tên là Nicholas. Nicholas cũng nói với chúng về biển cả sẽ mở ra để chúng có thể an toàn bước qua tới Jerusalem. "Quân đội" của Nicholas ước lượng khoảng 20000 đứa trẻ và những kẻ ăn bám, tốt và xấu. Cái đoàn trẻ tả tơi này vất vả đi qua dãy núi Alps và, hao hụt một cách đáng buồn bởi chết chóc và đào ngũ, sau cùng cũng tới được Genoa. Ở đây chúng bị một ông thống đốc, vì không muốn dung dưỡng một đám trẻ lộn xộn đói khát và bệnh tật, đuổi đi không cho vào thành. Thế rồi, như những sinh vật trong giấc mộng chết chóc, chúng lê lết xuống phía Nam, những viễn tượng về sự giải thoát Thánh địa đã bị quên đi trong đói khát và hấp hối.

Giáo hoàng Innocent III đã nói:."Chính những đứa trẻ đã đặt chúng ta vào vòng ô nhục". Ngài đã nói đúng như thực, dù có thể trong một nghĩa khác với ý định của ngài. Sự ô nhục thuộc chính giáo hoàng vì đã không ngăn cấm sự phí phạm độc ác này; thuộc các bậc cha mẹ vì đã để cho con cái ra đi; và thuộc các nông dân vì đã từ chối không cho bọn trẻ ăn, ở, hoặc thuộc những người chấp chứa chúng chỉ để kiếm lời trên sức lao động nô lệ của chúng. Người ta ước tính trong số 20000 trẻ em dự cuộc hành trình để cứu những nước KiTô, không quá 2000 được trở về nhà. Kể ra chúng còn tốt số hơn là những đứa trẻ Pháp." 26

Có lẽ tôi cũng nên ghi thêm ở đây là, Joseph L. Daleiden, Ibid., trg. 55, có một nhận định như sau về những cuộc Thập Ác Chinh:



"Càng suy nghĩ về vấn đề này tôi càng thấy cả 9 cuộc Thập Ác Chinh đều là những cuộc Thập Ác Chinh của trẻ con. Tất cả những người lính nông dân chất phác đó đều ngu tối như đám trẻ, mù quáng tuân theo sự cổ võ của các giáo hoàng để đi giết những người dân Ả Rập đang bảo vệ đất đai của họ." 27

Đó là những sắc thái và đặc tính của những cuộc Thập Ác Chinh, và Thập Ác Chinh là sản phẩm đặc thù của Công Giáo La Mã ở Âu Châu, khi các giáo hoàng ở vị thế nắm quyền thế gian, dùng quyền hành và khai thác lòng mê tín dị đoan của các tín đồ, gây ra những cuộc tàn sát khủng khiếp, xương chất thành núi, máu chảy thành sông, để chiếm đất, giành dân.

Tưởng chúng ta cũng nên biết thêm vài chi tiết về những sự kiện xung quanh các cuộc Thập Ác Chinh. Tháng 4, 1095, một trận mưa thiên thạch lớn rơi xuống Âu Châu. Giám mục Gislebert ở Lisieux diễn giải đó là dấu hiệu của Thiên Chúa kêu gọi một cuộc Thập Ác Chinhchiếm lại Thánh Địa ở miền Đông. Đến tháng 11 năm 1095, giáo hoàng Urban II triệu tập một công đồng ở Clermont, Auvergne, để phát động cuộc Thập Ác Chinh thứ nhất. Trong một bài diễn văn nẩy lửa, giáo hoàng nói: “Ngày tận thế đã gần kề. Ngày cáo chung của tên Chống Chúa (Antichrist = Satan) cũng sắp tới. Tuy nhiên, nếu hắn tới, hắn sẽ không thấy một tín đồ Ki Tô nào ở Thánh Địa (đang ở trong tay Hồi giáo), vì ngày nay không còn ai ở đó để mà chống hắn.”

Rồi giáo hoàng đưa ra nhiều hứa hẹn với đám giáo dân thấp kém như ban “ơn toàn xá” và cho vé lên thiên đường nếu chết trận, hứa sẽ săn sóc gìn giữ của cải của các chiến binh để lại hậu phương, điều mà giáo hoàng không hề giữ lời, được giữ những tài vật chiếm đoạt được, và nhất là được quyền cướp những thánh tích trong các mộ thánh tử đạo (Pope Urban gave sanction to a repetition of such an act of relic-gathering, of expiation by the robbery of martyr-tombs). Điều này rất hấp dẫn đối với dân Âu Châu vì họ đang sống trong một thời đại mà bất cứ cái gì còn lại của các “thánh”, hay đã được các “thánh” sờ tới, đều được tin là có những năng lực siêu nhiên. (It was an age in which the remains of “holy” people, or things touched by “saints”, were believed to be imbued with supernatural power). Jerusalem không những chỉ là miền đất mà các “thánh” đã đi qua đi lại, mà chính Giê-su, hiện thân của Thiên Chúa, cũng đã từng đi trên miền đất đó, chết đi và sống lại ở đó. Đối với những giáo dân và những kẻ đi thâu thập “thánh tích” cho những nhà thờ, giáo xứ để thờ phụng, thì không còn gì hấp dẫn hơn là Jerusalem. Vì ở đó có ngọn “thánh giáo” (holy lance) đã đâm lên cạnh sườn Giê-su, có cây “thánh giá” mà Giê-su bị đóng đinh trên đó, có xá lị của John the Baptist, thân thể của Thánh George, những mảnh đá trong mồ Chúa, và ngay cả nước sông Jordan mà Giê-su, con Thiên Chúa, đã được rửa tội trên đó. [Người Ca-tô Rô-maGiáo thời đó tin rằng nước sông Jordan mà Giê-su rửa tội trên đó không có chảy đi đâu hết, vẫn còn nguyên vị ở chỗ cũ. TCN]. Hơn nữa, trong thế kỷ 11, vì để tự cứu linh hồn, họ có thể ăn cắp bất cứ cái gì để tránh bị thiêu đốt bởi ngọn lửa dưới hỏa ngục mà các linh mục đã bảo họ là đã liếm mỗi bước chân của họ (To save his soul, the man of 11th-century Europe would have stolen anything to avoid the hot flames of Hell which, the priests had told him, licked his legs at every step).

Trong nhiều tháng tiếp theo, giáo hoàng đích thân cổ động và ra lệnh cho các giám mục, linh mục trong các giáo xứ địa phương ở Âu Châu cũng phải cổ động cho cuộc Thập Ác Chinhnày. Giáo dân khắp nơi reo hò cuồng nhiệt: “Thiên Chúa muốn thế” (Deus Vult = God wills it). Rất nhiều kẻ trộm cướp, sát nhân được thoát khỏi vòng lao lý với điều kiện là chuộc tội bằng cách làm đổ máu dân ngoại đạo (Many thieves and murderers who escaped block and gallows only on condition that they redeemed themselves by spilling heathen blood).

Trên đây chỉ là vài nét về những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo. Trước những sự thật lịch sử đen tối, bạo tàn của giáo hội Ca-tô Rô-maGiáo mà chính giáo hoàng John Paul II ngày nay và tòa thánh Vatican đã thú nhận, tôi xin đặt một câu hỏi cho các tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo Việt Nam: Có thật là quý vị đang ở trong một “hội thánh” hay không? Và quý vị có tin rằng cái lịch sử đẫm máu của “hội thánh” Ca-tô Rô-maGiáo kéo dài suốt 2000 năm hoàn toàn không dính líu gì đến niềm tin của quý vị không? Muốn trả lời câu hỏi này, quý vị cần biết rõ điều sau đây:

Thật ra, những cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo không chỉ có mục đích giết dân Ả Rập mà còn giết những người Do Thái và giết luôn cả những người Ki Tô giáo khác không có cùng quan niệm tôn giáo với Công giáo, như chúng ta đã thấy trong cuộc Thập Ác ChinhAlbigense mô tả ở trên. Các cuộc Thập Ác Chinh của Ca-tô Rô-maGiáo đã nhận chìm Âu Châu trong vòng chiến tranh tàn sát suốt hai thế kỷ 11 và 12, dài gần 200 năm.

Nhưng, ngoài sách lược tiêu diệt văn hóa nhân loại và các cuộc Thập Ác Chinh, lịch sử Ca-tô Rô-maGiáo còn một vết nhơ vĩ đại khác, đó là những Tòa Án xử những người Dị Giáo (khác đạo) hay những người mà Giáo hội kết tội là lạc đạo, nghĩa là không công nhận quyền lực của Giáo hoàng và của hàng giáo phẩm, những người Do Thái và cả những người theo Ki Tô Giáo nhưng không cùng tín ngưỡng với Ca-tô Rô-maGiáo. Những tòa án xử dị giáo này kéo dài hơn 500 năm và đã làm cho trên 11 triệu người chết vì tra tấn bởi những hình cụ khủng khiếp nhất, phát minh bởi những tín đồ Ca-tô Rô-maGiáo, vì thiêu sống v...v... (Zindler, p. 183: The Roman Catholic Church killed over 11 million people in the course of the Inquisition)) Tôi sẽ đi vào chi tiết của những hành dộng dã man tàn bạo nhân danh Chúa của các tòa án xử dị giáo của Công giáo trong một phần sau, qua một số tài liệu lịch sử.

 


Каталог: groups -> 73907505
groups -> Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
73907505 -> Vbiqve” “vbiqve” ĐẾn thời tổng đÀn the knights of malta luâN ĐÔn quyếT ĐỊnh : thu hồi búa liềm và xhcn
73907505 -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam

tải về 0.96 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương