Vài nét về thị trường cà phê thế giới và tình hình sản xuất, chế biến



tải về 0.81 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích0.81 Mb.
#17114
1   2   3   4   5   6   7

Sơ đồ chế biến cà phê nhân sống


Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ Cộng hoà liên bang Đức, Braxin. Một loạt hơn một chục dây chuyền chế biến của hãng Pinhalense -Braxin được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo, mô phỏng có cải tiến công nghệ của Braxin. Các cơ sở chế biến với thiết bị mới, chất lượng sản phẩm khá được xây dựng trong vòng 5-7 năm trở lại đây đảm bảo chế biến được khoảng 150.000 tấn đến 200.000 tấn cà phê nhân xuất khẩu.

Tuy nhiên tốc độ phát triển của công nghệ chế biến không đáp ứng kịp sự gia tăng về sản lượng. Có thể nói cà phê là một trong những ngành sản xuất nông nghiệp phát triển với một tốc độ rất cao ở Việt Nam. Chỉ sau 20 năm, từ năm 1982 đến năm 2002 sản lượng cà phê ở nước ta đã tăng từ 6.000 tấn lên tới trên 1 triệu tấn tấn nghĩa là tăng hơn 100 lần và chỉ sau 10 năm (1992-2002) sản lượng cà phê đã tăng trên 7 lần. Đặc biệt là trong 2 năm lại đây sản lượng mỗi năm tăng khoảng 100.000 tấn đến 150.000 tấn. Có thể nói đó là một mức tăng trưởng kỷ lục trong lịch sử của ngành cà phê toàn cầu. Sự tăng trưởng vượt bậc của sản lượng cà phê Việt Nam là một nhân tố quan trọng làm tăng nhanh sản lượng cà phê thế giới và nhiều người cũng coi đó là nguyên nhân của việc giảm giá cà phê trên thế giới. Mặt khác, do sản xuất cà phê phát triển nhanh như vậy đã tạo nên sự mất cân đối giữa sản xuất và công nghiệp chế biến. Với sản lượng cà phê nhân hàng năm là 700.000 tấn và cà phê vối có tỉ lệ tươi: nhân tạm tính là 4,6:1 thì mỗi năm ngành cà phê phải thu hái và chế biến trên 3 triệu tấn cà phê quả tươi. Đó là một khối lượng sản phẩm không nhỏ, nó đòi hỏi sự phát triển tương ứng của công nghiệp chế biến. Trong tình hình hiện nay, thị trường thế giới đòi hỏi ngày càng cao không chỉ về mặt hàng và chất lượng cà phê thử nếm mà còn phải đảm bảo ở mức độ cao tiêu chuẩn an toàn về vệ sinh nước uống. Ngoài ra để chế biến trên 3 triệu tấn quả cà phê vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường sống cũng đòi hỏi đầu tư giải quyết.

Ở nước ta, phần lớn các nhà chế biến đều thuộc loại nhỏ. Hiện tại cả nước có khoảng trên 50 dây chuyền thiết bị chế biến cà phê nhân, trong đó có 14 dây chuyền nhập ngoại (Braxin, Anh…) còn lại là sản xuất trong nước. Quy mô công suất các dây chuyền này từ 2 đến 9 tấn/giờ, phần lớn đều do các nông trường, doanh nghiệp Nhà nước trang bị. Khu vực sản xuất và chế biến cà phê trong nhân dân hầu hết đều qua sơ chế bằng các máy có công suất nhỏ từ 300 đến 500 kg/giờ. Nhiều nơi chúng ta dùng các máy xay xát nhỏ để xay cà phê quả khô ra cà phê nhân bán cho nhiều người thu gom. Tình hình chế biến như vậy dẫn đến kết quả là sản phẩm chất lượng không đồng đều.

Các nhà chế biến này tiến hành giai đoạn sơ chế đầu tiên với công suất dưới 100 tấn/năm, chỉ có thể sơ chế được nửa tổng sản lượng. Ở Đăk Lăk - đại diện tiêu biểu trong chế biến cà phê, chiếm khoảng 60% tổng sản lượng toàn quốc - có khoảng 10-15 nhà chế biến tư nhân, công suất trong khoảng từ 1000 đến 2000 tấn/năm và 3 công ty tư nhân có công suất 5000 tấn trở lên.

Nông trang Nhà nước là các nhà cung cấp cho hầu hết các nhà máy chế biến của Nhà nước. Có khoảng 14 nhà máy chế biến liên kết với các nông trang Nhà nước ở Đăk Lăk. Các nhà máy này thường có quy mô vừa với công suất 3000 tấn/năm. Tổng công ty cà phê Việt Nam (VINACAFE) có 7 nhà máy chế biến được cung cấp đầu vào từ 7 nông trang Nhà nước.

Khâu chế biến là một trong những khâu quyết định chất lượng cà phê thương phẩm, thế nhưng có đến 70% sản lượng là sơ chế phân tán tại các hộ gia đình với phương pháp thủ công, phơi nắng tự nhiên nên không đảm bảo yêu cầu. Điều kiện sân thì rất hạn chế, tại Đăk Lăk 217 ha cà phê mới có 1 ha sân phơi, trong khi đó tiêu chuẩn quốc tế là 100 ha cà phê cần 1 ha sân phơi, chưa kể điều kiện độ ẩm của Việt Nam khá cao, cao hơn mức chuẩn 13%.

Một khâu không kém phần quan trọng rất dễ thực hiện nhưng ta lại không làm được đó là khâu thu hái. Thực tế cho thấy vì thu hái xanh nên cà phê nhân của Việt Nam có nhiều hạt đen vỡ, nhăn nhúm, kích thước nhỏ, dễ bị mốc. Đây là lí do chủ yếu làm cà phê Việt Nam chưa đẹp, bị đánh giá thấp. Khâu vận chuyển từ nơi thu hoạch đến nơi chế biến không được thực hiện ngay làm phẩm cấp giảm do hạt cà phê tươi có thể nảy mầm ngay.

Về tiêu chuẩn xếp loại, qua biểu 10 có thể thấy hệ thống xếp loại cà phê Việt Nam quá đơn giản. Có 3 hạng cà phê dựa trên 4 tiêu thức trong khi Colombia có 6 hạng cà phê xuất khẩu chất lượng Excelo dựa trên 7 tiêu thức: độ ẩm, hương thơm, màu sắc, cỡ hạt, hàm lượng hạt lỏng, tạp chất và mùi vị.

Biểu 6: Tiêu chuẩn chất lượng cà phê Việt Nam



Tiêu thức

Tiêu chuẩn cho mỗi loại

Loại 1

Loại 2

Loại 3

Độ ẩm

12%

12%

13-15%

Tạp chất

0,5%

0,5%

1%

Hạt vỡ

2-3%

2-3%

4-5%

Kích cỡ hạt

7mm

6-7mm

5mm

Nguồn: Hiệp hội cà phê -ca cao Việt Nam (Vicofa)

Việc không đủ tiêu thức để phân loại cà phê (đặc biệt là chỉ tiêu màu sắc) dẫn tới việc cà phê hạt được chấp nhận trong nước lại không được quốc tế chấp nhận, vì thế danh tiếng của cà phê Việt Nam giá cả trên thị trường thế giới đều bị giảm sút. Bên cạnh đó tiêu chuẩn xếp loại cà phê ở Việt Nam ít khi tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế. Điều này dẫn đến tình trạng là cà phê được xuất khẩu theo yêu cầu của nhà nhập khẩu quy định trong hợp đồng mà không có một tiêu chuẩn chính thức nào. Vì thế các nhà xuất khẩu, chế biến Việt Nam trở nên phụ thuộc vào người mua nước ngoài, mất đi tính chủ động của mình và dễ bị ép giá.

Mấy năm gần đây, do cung vượt cầu, giá cả xuống thấp liên tục, người mua đòi hỏi chất lượng cao hơn và áp đặt các yêu cầu cho người bán như đòi nếm thử hàng, lấy đó làm cơ sở giao dịch, thanh toán. Ngành cà phê Việt Nam đang phải đường đầu với những thách thức mới về mặt công nghiệp chế biến. Ngoài đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng về chất lượng, còn có nhiều vấn đề mới nảy sinh trên thị trường cà phê thế giới như:


  • Hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC) ủng hộ ý kiến đề xuất của một số nước sản xuất cà phê ở Trung Mỹ chủ trương loại bỏ cà phê chất lượng thấp ra khỏi thị trường và coi đó là một cách cải thiện cán cân cung cầu.

  • Tổ chức cà phê thế giới (ICO) đã đưa ra tiêu chuẩn cà phê tối thiểu dành cho các nước xuất khẩu cà phê: Độ ẩm không được cao hơn 12,5%; đối với cà phê Robusta số lỗi không được quá 150 lỗi trên mẫu 300g. Tiêu chuẩn này đã bắt đầu được áp dụng từ 1/10/2002 vừa qua.

  • Các nước EU dự định từ 1/1/2003 áp dụng ngưỡng ô nhiễm Ochrattoxyn A trong cà phê, nếu áp dụng tại Việt Nam thì tương đương với 40.000 tấn-trị giá gần 200 tỷ đồng, sẽ không thể tiêu thụ. Những điều đó đòi hỏi ngành cà phê nước ta phải có một chuyển biến trong công nghệ chế biến để có thể tiếp tục tồn tại và phát triển.

Tóm lại, do công nghệ lạc hậu, đầu tư ít và không tập trung vào cà phê xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng nghiền thô, chưa qua chế biến cao cấp. Vì vậy, cải tiến công nghệ và thiết bị chế biến cà phê để nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu là một trong những yêu cầu bức thiết cần được quan tâm một cách triệt để.

II. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU.

1. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu.

1.1. Những thuận lợi của Việt Nam khi xuất khẩu cà phê ra nước ngoài.

Trong những năm gần đây, ngành cà phê Việt Nam đã có những bước phát triển lớn, có thể nói là vượt bậc về nhiều mặt, cả về mở rộng diện tích, tăng năng suất, sản lượng và nâng cao khối lượng cà phê xuất khẩu. Việt Nam đã từ một vị trí xuất phát thấp vươn lên đứng đầu về xuất khẩu cà phê vối, và đứng thứ hai chỉ sau Braxin về xuất khẩu cà phê trên thế giới.

Đạt được những thắng lợi trên là nhờ cây cà phê VN có những thuận lợi sau:

a. Về khách quan

Cà phê Robusta được trồng tập trung trên những vùng đất tốt có biên độ ngày đêm lớn, có lợi cho sự hình thành và tích luỹ các hợp chất hữu cơ. Hơn nữa, lại được trồng phần lớn ở độ cao từ 450-1000m so với mặt nước biển, khí hậu thích hợp nên cà phê Robusta của nước ta có hương vị đậm đà được nhiều nước ưa chuộng. Nếu cà phê Robusta của châu Phi bị đánh giá là gắt (strong) thì cà phê Robusta của Việt Nam được khách hàng châu Âu đánh giá là dịu (mild) đến trung tính (neutral), được sử dụng trong việc đấu trộn và sản xuất cà phê hoà tan.

Cà phê Arabica ở Việt Nam được trồng ở độ cao 500m trở lên ở vùng á nhiệt đới và 2500m ở vùng xích đạo với điều kiện sinh trưởng rất thích hợp. Lần đầu tiên dược trồng thử vào năm 1858, đến thập kỷ 30,40 cà phê Arabica của Việt Nam đã nổi tiếng trong các hội chợ quốc tế dưới tên gọi "Moka Tonkin", "Tonkin Superieur".

b. Về chủ quan

Thứ nhất, chúng ta có nguồn nguyên liệu rất dồi dào cho xuất khẩu. Những năm qua, nhờ đẩy mạnh phong trào phát triển cà phê trong các hộ gia đình nên cà phê đã tăng nhanh cả về diện tích, năng suất, sản lượng. Ở Việt Nam, 80% khối lượng cà phê xuất khẩu có nguồn gốc từ các hộ nông dân. Đó là thế mạnh của chúng ta trong khâu tạo ra nguồn nguyên liệu.

Thứ hai, là nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới, mức tăng trưởng lượng xuất khẩu hàng năm lớn (khoảng 20,35%), Việt Nam đã thực sự có ảnh hưởng to lớn đến giá giao dịch của cà phê Robusta trên thị trường thế giới. Có thể nói, giá cà phê Robusta trên thế giới tăng giảm theo vụ mùa thu hoạch cà phê của Việt Nam và Indonesia. Trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, đây là một điểm hết sức thuận lợi cho cà phê Việt Nam.

Thứ ba, trong công tác xuất khẩu cà phê, Việt Nam với lợi thế là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất khu vực châu Á-Thái Bình Dương nên có thể đẩy mạnh lượng hàng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và Trung Quốc - hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn của thế giới. Đối với hai thị trường đặc biệt này, Việt Nam có lợi thế hơn hẳn các nước xuất khẩu cà phê khác về vị trí địa lý nên có thể tiết kiệm được chi phí vận chuyển vốn chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí cho xuất khẩu. Trong kinh doanh, nếu chi phí này giảm sẽ dẫn đến việc giá cà phê giảm, từ đó làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá.

1.2. Những khó khăn của Việt Nam khi xuất khẩu cà phê ra nước ngoài.

Bên cạnh những thuận lợi kể trên, khả năng cạnh tranh của mặt hàng cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém. Trong hoạt động xuất khẩu cà phê, chúng ta gặp phải những khó khăn sau:

a. Về chủ quan

Trước hết về nguồn nguyên liệu. Cà phê trồng ở Việt Nam phần lớn là cà phê Robusta (chiếm khoảng 95% diện tích), trong khi đó cà phê Arabica chỉ chiếm 5% diện tích lại là loại cà phê có chất lượng thơm ngon hơn hẳn, chiếm trên 70% tổng khối lượng cà phê tiêu thu trên thế giới. Vì thế, khi xuất khẩu cà phê Việt Nam thường phải chịu giá thấp (trên thế giới, cà phê Arabica thường bán với giá cao hơn hơn Robusta từ 650-750 USD/tấn). Thêm vào đó, cà phê của ta chỉ phơi nắng ngoài trời nên chất lượng thấp, tỷ lệ hạt đen vỡ cao, lẫn nhiều tạp chất, hàm lượng nước cao hơn mức chuẩn.

Thứ hai là khâu chế biến vẫn còn manh mún: Nhờ hương vị đậm đà tự nhiên, cà phê Việt Nam được nhiều khách hàng ưa chuộng. Nhưng công nghệ chế biến lạc hậu nên khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới còn hạn chế. Giá cà phê nhân xuất khẩu của ta bị thua thiệt lớn so với thế giới và ngay cả các nước trong khu vực (bình quân vài trăm USD/tấn), lượng xuất khẩu lớn mà kim ngạch chưa cao. Hiện phần lớn sản phẩm bán ra của ta còn là cà phê nhân xô làm nguyên liệu tái chế ở nước ngoài. Có thể nói, trong những năm qua, diện tích và sản lượng cà phê có sự gia tăng mạnh mẽ nhưng trình độ công nghiệp chế biến chưa được nâng cao tương xứng. Nhìn chung tình hình chế biến cà phê trong nước hiện còn phân tán và khá tuỳ tiện. Còn tới 70-80% cà phê được chế biến trong các hộ gia đình với công nghệ giản đơn là phơi khô, xát vỏ bằng thiết bị thủ công, chắp vá, không đúng quy cách, tiêu chuẩn. Cà phê được chế biến như vậy nếu không được tái chế trước khi xuất khẩu thì thường có chất lượng rất kém.

Ngay trong khâu thu hoạch và sau thu hoạch, người ta cũng chỉ chú ý đến vấn đề số lượng mà quên đi chất lượng. Người trồng cà phê nhiều khi hái cả quả xanh và quả chín lẫn lộn nhau. Bên cạnh đó, vấn đề sân phơi cũng còn nhiều nhức nhối. Đa số các hộ nông dân không có sân phơi tốt, phơi cà phê cả trên sân đất, đường đi khiến cà phê bị lẫn tạp chất. Thậm chí các nông trường cũng không có đủ diện tích sân phơi theo yêu cầu nên khi thu hái dồn dập phải đổ đống khiến cà phê bị thối và mốc. Nếu có cứu được thì cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cà phê nhân.



Trong điều kiện cạnh tranh mua bán sản phẩm cà phê trên thị trường thế giới ngày càng gay gắt, nền công nghiệp chế biến vẫn ở trong tình trạng manh mún như hiện nay thì cà phê Việt Nam sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với sản phẩm cà phê của các nước khác như Braxin, Ấn Độ, Inđônêxia… Nhiều năm qua, các nhà xuất khẩu cà phê Việt Nam đã phải chịu nhiều thiệt thòi vì giá của cà phê Việt Nam thường thấp hơn so với các nước khác mặc dù chất lượng tự nhiên của cà phê Việt Nam được đánh giá là tốt hơn. Các nhà quản lý ngành cà phê vẫn nói đến vấn đề là ở chỗ thiếu vốn để đầu tư. Song có một nghịch lý là, khi thu được lãi dường như không ai nghĩ đến việc sử dụng một phần thích đáng để đầu tư cho chế biến cà phê. Có những hộ nông dân vào năm bán cà phê được giá đã thu lãi hàng chục, hàng trăm triệu đồng cũng không xây dựng được một sân phơi đúng qui cách. Trong nhận thức của lãnh đạo nhiều doanh nghiệp, vấn đề đầu tư cho chế biến vẫn chưa được chú trọng.

Ba là, chất lượng cà phê xuất khẩu còn nhiều tồn tại. Do công nghệ chế biến còn lạc hậu như đã nói ở trên nên chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam còn một số mặt yếu kém sau:

  • Hàng cà phê Việt Nam chưa đồng đều, có sự khác nhau giữa các lô hàng (lô tốt, lô xấu) và khác nhau ngay trong cùng một lô hàng.

  • Độ ẩm cà phê Việt Nam cao thường là trên 13%. Trong cà phê lẫn nhiều hạt chưa chín do hái lẫn nhiều quả xanh và lẫn cả quả khô chưa xay.

  • Cỡ hạt cà phê không đều, đặc biệt số hạt lồi, vỡ, đen còn khá lớn.

  • Hương vị có chỗ không đạt yêu cầu như có mùi đất vì phơi lâu trên sàn hay các vị lạ khác.

  • Cà phê gần đây xuất hiện hiện tượng nấm mốc và chúng ta đã nhận được nhiều lưu ý của khách hàng về vấn đề này.

  • Hàng giao đôi khi không đúng với mẫu.

  • Hụt trọng lượng.

Rõ ràng chất lượng cà phê là một vấn đề nổi bật trong ngành cà phê Việt Nam. Vấn đề này càng trở nên đáng lo ngại hơn khi trên thị trường thế giới cung đang vượt cầu và yêu cầu của người tiêu dùng ngày một cao hơn. Những năm qua nhờ đẩy mạnh phong trào phát triển cà phê, chúng ta đã tăng nhanh lượng hàng xuất khẩu nhưng do chất lượng không có sức cạnh tranh nên thường phải bán với giá thấp. Bởi vậy, chúng ta không có lý do gì để chậm chễ trong việc nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu.

Bốn là vấn đề thiếu vốn. Thiếu vốn nghiêm trọng luôn là vấn đề nan giải của nhiều ngành kinh tế nói chung và ngành cà phê nói riêng. Vì thiếu vốn mà nhiều doanh nghiệp kinh doanh cà phê không thể găm hàng chờ giá lên cao để xuất khẩu. Theo Tổng công ty cà phê Việt Nam (VINACAFE), để xuất khẩu được 70.000 tấn cà phê cần tới trên 1000 tỷ đồng vốn. Trong khi đó, vốn của VINACAFE chỉ có hơn 10 tỷ đồng, phần còn lại phải vay của ngân hàng 150 tỷ đồng, quay vòng 9 tháng, lãi suất phải trả hơn 1,1 tỷ đồng/tháng. Thiếu vốn, lãi suất phải trả ngân hàng lớn buộc VINACAFE không thể tăng mua cà phê vào mùa thu hoạch rộ, không thể gom hàng chờ giá lên cao rồi mới xuất khẩu, mà phải nhanh chóng bán hàng ra để quay vòng vốn nhanh, vì vậy thua thiệt trong xuất khẩu là điều khó tránh khỏi. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu làm cho giá cà phê trong nước xuống thấp trong mùa thu hoạch gây thua thiệt cho người trồng. Cũng do thiếu vốn mà Việt Nam chưa thể gia nhập Hiệp hội các nước sản xuất cà phê thế giới (ACPC) bởi Việt Nam khó có thể thực hiện được nguyên tắc cơ bản của ACPC là khi giá trên thị trường thế giới xuống thấp, ACPC sẽ hạn chế xuất khẩu, tăng dự trữ để tăng giá đảm bảo quyền lợi chung cho cả người sản xuất và xuất khẩu.

Thứ năm, sản phẩm cà phê được bán tự do trên thị trường không có tổ chức. Do không có quy định quản lý xuất khẩu theo đầu mối nên số công ty và tư nhân tham gia xuất khẩu tăng lên nhiều. Điều này đã bộc lộ những hạn chế trong quản lý cũng như trong điều hành xuất khẩu cà phê. Những người chuyên làm nghề buôn bán cà phê, các đại lý, các chân hàng cung cấp cà phê cho các nhà xuất khẩu không chỉ ở thị trường cà phê Tây Nguyên mà họ còn chuyên chở cà phê về cho các công ty xuất nhập khẩu cà phê ở thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang... Tình hình thị trường như vậy dẫn đến giá cả thất thường, nhiều lúc giá cà phê tại Tây Nguyên cao hơn giá xuất khẩu (FOB HCM) và xấp xỉ giá thị trường London. Khi giá cà phê trên thị trường thế giới có những biến động đột ngột và không dự đoán được thì ở Tây Nguyên xảy ra những vụ đổ bể của nhóm người buôn bán, môi giới cà phê và dẫn đến những thiệt hại lớn cho các nhà xuất khẩu, các cơ quan, các công ty Nhà nước.

Ở đây cũng cần nói thêm về các hãng buôn nước ngoài dưới các nhãn hiệu liên doanh, liên kết, uỷ thác... cũng đã đặt chân lên Tây Nguyên và nếu trước đây họ mua cà phê ở cửa khẩu thì nay họ đã mua cà phê tại nhà vườn, góp thêm phần không nhỏ vào tình trạng tranh mua tranh bán hết sức gay gắt trên thị trường cà phê Tây Nguyên.

Không chỉ ở Tây Nguyên, thị trường cà phê Đăk Lăk cũng khá nhộn nhịp. Trong các khách hàng làm nhiệm vụ cung ứng cà phê cho các nhà xuất khẩu cũng có khách hàng Việt Nam nhận tiền mua hộ cho khách hàng nước ngoài gây nên tình trạng giá cả có lúc không phù hợp với giá xuất khẩu. Theo Câu lạc bộ xuất khẩu cà phê tỉnh Đăk Lăk thì tình hình phân tán, manh mún này làm mất đi sự phối hợp thống nhất hành động của các nhà xuất khẩu, các nhà sản xuất cà phê lớn của Việt Nam nhằm bảo đảm lợi ích của ngành cà phê nước ta và đảm bảo chất lượng hàng hoá, giữ vững uy tín của mặt hàng cà phê trên thị trường thế giới.

Thứ sáu, các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cà phê của Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trên thị trường thế giới đã phải chấp nhận cuộc cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia có nhiều kinh nghiệm trên thương trường. Dù cà phê Việt Nam đã có mặt trên 60 quốc gia nhưng nói chung các thị trường tiềm năng vẫn còn nhiều. Chúng ta vẫn phải xuất khẩu qua một số trung gian và chưa khôi phục được hoàn toàn các thị trường truyền thống như Nga, các nước SNG, Đông Âu. Ở những thị trường phát triển như Mỹ, Đức, Nhật, Anh, Pháp… hiện nay của Việt Nam thì những đòi hỏi của khách hàng về sản phẩm cà phê là rất cụ thể và nghiêm ngặt. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu còn ít, hơn nữa chất lượng cà phê lại chưa cao nên mặt hàng cà phê Việt Nam sẽ không những khó thâm nhập, mở rộng thêm thị trường mà còn phải cố gắng rất nhiều thì mới mong duy trì được những khách hàng hiện tại. Nếu chất lượng không đảm bảo, không đáp ứng được yêu cầu của những khách hàng khó tính, trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khách hàng sẽ tìm đến loại cà phê có phẩm chất, hương vị thơm ngon hơn của các đối thủ cạnh tranh như Braxin, Colombia.

b. Về khách quan :

Cà phê là mặt hàng nông sản khá nhạy cảm, mang tính chất toàn cầu. Nhu cầu cà phê khá ổn định song nguồn cung cấp rất bấp bênh, tuỳ thuộc vào sản lượng thu hoạch của các nước sản xuất lớn như Braxin, Colombia, Indonesia và dự trữ tồn kho ở các nước tiêu thụ chính như Mỹ, EU và Nhật Bản. Vì thế, giá cà phê trên thị trường thế giới diễn biến không ổn định, lên xuống thất thường. Năm 1992, giá cà phê chỉ khoảng 600 USD/tấn. Nhưng đến năm 1994, giá cà phê lại tăng vọt, có thời điểm đạt 4000 USD/tấn. Kể từ năm 1999 đến nay giá cà phê lại liên tục giảm, có thời điểm giảm xuống mức thấp kỷ lục là 380 USD/tấn.

Chỉ cần một diễn biến của thời tiết, khí hậu hay một chính sách kinh tế đối với cà phê của một trong 10 nước sản xuất và xuất khẩu cà phê đứng đầu thế giới, bất kỳ ở châu lục nào, lập tức ảnh hưởng đến giá cả cà phê quốc tế, tất yếu ảnh hưởng đến giá cả thị trường cà phê Việt Nam. Chẳng hạn như trong tháng 8 năm 1999: giá cà phê các loại trên các thị trường lớn trong tuần 20/8 - 26/8 đều vững lên mà động lực chính đẩy giá cà phê lên trên các thị trường là tin thời tiết lạnh hơn ở Braxin. Giá cà phê giao tháng 9 tại London đã tăng lên 1359 USD/tấn từ mức 1335USD/tấn. Giá cà phê Arabica giao cùng kỳ tại New York cũng tăng 25-60 USD/tấn, đạt 2115-2140 USD/tấn. Điều đó kéo theo tại châu Á, giá cà phê Việt Nam và Indonesia cũng tăng 10-35 USD/tấn, lên 1120-1140 USD/tấn (FOB) và 1130-1165 USD/tấn (FOB) tương ứng. Ngoài ra, đầu năm 1999, cơn bão Mitch hoành hành ở Trung Mỹ đã làm giảm đáng kể chất lượng cà phê của các nước này kéo theo giá giảm. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở châu Á, đặc biệt là ở Indonesia cũng như cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Braxin đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giá cà phê quốc tế.

Gần đây, bội thu cà phê tại Braxin và Việt Nam - hai nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, chính là nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng của giá cà phê thế giới từ tháng 12/1999 kéo dài đến hiện nay.

Ngoài ra, giá cà phê còn phụ thuộc vào tương quan lực lượng giữa các nước trồng cà phê, phần lớn là các nước chậm phát triển với các nước tiêu thụ cà phê là các nước phát triển. Từ năm 1989, Hiệp định về cà phê thế giới mất hiệu lực, Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) không còn kiểm soát được hạn ngạch xuất nhập khẩu cà phê. Hiệp hội các nước sản xuất cà phê thế giới (ACPC- mà Việt Nam chưa tham gia) thoả thuận hạn chế lượng cà phê xuất khẩu để nâng giá lên. Do đó, thị trường thế giới có tính độc quyền và chịu sự chi phối của những nước tiêu thụ chính và các nước sản xuất lớn. Các nước sản xuất và xuất khẩu cà phê chưa tham gia vào các tổ chức cà phê thế giới, chưa phối hợp cùng các bạn hàng xuất khẩu nên thường bị động và lúng túng mỗi lần giá cà phê thế giới biến động. Việt Nam tuy đã là thành viên của ICO song sự phối hợp hành động cùng các bạn hàng xuất khẩu cà phê chưa cao, hơn nữa do trình độ quản lý còn hạn chế nên tất yếu khó tránh khỏi những thiệt hại đáng tiếc.

Không chỉ có vậy, việc phối hợp hành động giữa các đơn vị kinh doanh xuất khẩu cà phê trong nước cũng rất lỏng lẻo, chưa chặt chẽ còn thiếu theo dõi sát sao diễn biến thị trường và các yếu tố khác. Thị trường cà phê thế giới manh tính đầu cơ trục lợi cao, những thông tin về thị trường cà phê thế giới rất phức tạp, với mục đích đầu cơ, trục lợi, khó dự đoán được diễn biến thị trường. Các nhà xuất khẩu Việt Nam còn thiếu tổ chức chặt chẽ trong việc xuất khẩu cà phê nên thường bị thua thiệt sau mỗi lần biến động giá cà phê. Tệ nạn tranh mua, tranh bán là một trong những nguyên nhân làm giảm đáng kể giá cà phê xuất khẩu. Một số tính toán chuyên gia cho thấy sự sai lệch về giá cả trong nước và giá xuất khẩu cạnh tranh kiểu trên làm giảm kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam với giá trị đáng tiếc. Vì thế, cần có chế độ thông tin, hợp tác giữa các đơn vị xuất khẩu, tránh tình trạng tranh mua trong nước, bị ép giá khi xuất khẩu.

2. Chất lượng và chủng loại cà phê xuất khẩu.



2.1. Chất lượng cà phê xuất khẩu.

Thực chất cà phê Việt Nam được liệt vào loại có hương vị đậm đà, được khách hàng đặc biệt ưa chuộng do được trồng ở độ cao về vĩ độ so với mặt biển. Nhưng do yếu kém trong khâu thu hái, chế biến nên đã làm giảm đi nhiều chất lượng vốn có của nó. Theo Cafecontrol, nếu chế biến đúng quy trình thì chất lượng cà phê Việt Nam không phải là thấp: 35% rất tốt, 50% tốt, 10% trung bình, 5% kém.

Chất lượng là yếu tố quan trọng trong mua bán quốc tế, đặc biệt trong thời điểm hiện nay khi mà cung cà phê lớn hơn cầu cà phê, người mua ngày càng đòi hỏi chất lượng cao hơn. Khách hàng nước ngoài thường phàn nàn về độ ẩm, kích cỡ sàng, hạt lỗi, tạp chất và mốc của cà phê Việt Nam. Rõ ràng khả năng phơi, chế biến, sấy, tồn trữ cà phê không theo kịp tốc độ tăng của sản lượng. Một yếu tố nữa là các nhà xuất khẩu cà phê của Việt Nam chủ yếu là thu gom từ các hộ gia đình cho nên chất lượng hạt cà phê không đều và yếu kém. Một số nhà buôn quốc tế nhận xét rằng cà phê Việt Nam chưa có tiêu chuẩn qui chiếu để xác định chất lượng. Ngoài ra, tính pháp lý của TCVN áp dụng cho xuất khẩu cà phê trong suốt thời gian qua là vô cùng thấp vì hầu hết các hợp đồng thương mại trong đó TCCL phần lớn là do khách hàng nước ngoài đặt ra. TCVN chỉ dừng lại ở tính hướng dẫn, thậm chí khách hàng nghe hay không là tuỳ ở họ. Tình trạng này đã làm lu mờ tính pháp lý của bộ TCVN về chất lượng cà phê và chính nó tạo ra sự chủ quan từ khâu sản xuất đến khâu thu mua, chế biến, bảo quản và xuất khẩu với rất nhiều lỗi. Do đó khách hàng thường ép giá cà phê của ta thấp hơn các nước khác trong khu vực như Indonesia, Thái Lan từ 50-100 USD/tấn.

Tại cuộc hội thảo về cà phê Việt Nam được tổ chức gần đây tại Buôn Mê Thuột, gần 100 đại biểu đều nêu ý kiến lo lắng về sự giảm sút chất lượng của cà phê Việt Nam. Nếu như năm 2001, cà phê xuất khẩu của Việt Nam nói chung thường có 2% hạt đen, 25-27% hạt có kích cỡ lớn thì năm 2002, lượng hạt đen lại tăng lên 6-7%, hạt kích cỡ lớn chỉ chiếm 8-10% (trong khi đó, cà phê Robusta loại 2 của ta nếu có 5% hạt đen, hạt vỡ thì về chất lượng chỉ tương đương với cà phê loại 5, loại 6 của Indonesia). Đây là hồi chuông báo động cho ngành cà phê Việt Nam, nếu chỉ chạy theo sản lượng mà không quan tâm nâng cao chất lượng thì dẫu sản phẩm sản xuất ra có nhiều thì cũng không mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Ngoài ra cơ cấu sản phẩm xuất khẩu còn đơn điệu. Mặc dù trên thị trường thế giới, 95% lượng cà phê xuất khẩu là cà phê nhân sống, các dạng cà phê chế biến không quá 5%, nhưng sản phẩm cà phê chế biến hết sức đa dạng, chủ yếu là cà phê hoà tan, cà phê rang và một số dạng khác như dạng lỏng đóng hộp, ở Braxin và Colombia đã phát triển công nghệ sản xuất dạng cà phê cô đặc. Ngành cà phê Việt Nam do công nghệ còn yếu kém nên cơ cấu sản phẩm hết sức đơn điệu, 95% lượng xuất khẩu là cà phê Robusta. Trong đó, cà phê nhân chiếm một tỷ lệ rất cao. Có thể thấy rõ điều này qua bảng 7:


Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id24231 50525
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Lời mở đầu 1 Chương 1: Sự phát triển của các hệ thống thông tin di động 3
UploadDocument server07 id24231 50525 -> ĐẠi học quốc gia thành phố HỒ chí minh trưỜng đẠi học kinh tế luậT
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Dự án vie/61/94 Hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu ở Việt Nam nguyên tắc marketing
UploadDocument server07 id24231 50525 -> MỤc lục phòng tổ chức nhân sự VÀ tiền lưƠng 11 phòng kiểm tra và kiểm toán nội bộ 12 trung tâm thông tin và CÔng nghệ tin họC 12
UploadDocument server07 id24231 50525 -> Tại các thị trường Nhật, eu, Hoa Kỳ
UploadDocument server07 id24231 50525 -> TÀi liệu tham khảo môn học tư TƯỞng hồ chí minh phần: Tập trích tác phẩm của Hồ Chí Minh TÀi liệU ĐỌc thêM
UploadDocument server07 id24231 50525 -> THỜi kì SƠ khai củA ĐIỆn từ HỌC: 2 những phát hiệN ĐẦu tiên về ĐIỆn và TỪ CỦa ngưỜi hy lạP: 2
UploadDocument server07 id24231 50525 -> MỤc lục danh mục bảng danh mục hình chưƠng I. TỔng quan về CÔng ty 1 SỰ HÌnh thành và phát triển của công ty

tải về 0.81 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương