VỚi các nưỚc và khu vựC


[15] Có thể tham khảo: Trần Văn Thọ, tlđd



tải về 1.8 Mb.
trang7/23
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích1.8 Mb.
#15173
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   23

[15] Có thể tham khảo: Trần Văn Thọ, tlđd.



NH¢N Tè V¡N HO¸ TRONG QUAN HÖ §A PH¦¥NG
CñA VIÖT NAM THêI Kú §æI MíI

T



KYÛ YEÁU HOÄI THAÛO QUOÁC TEÁ VIEÄT NAM HOÏC LAÀN THÖÙ BA

TIÓU BAN QUAN HÖ QUèC TÕ CñA VIÖT NAM VíI C¸C N¦íC Vµ KHU VùC






S Nguyễn Thái Yên Hương*


Trong thời đại ngày nay, có những diễn biến không dự đoán trước hệ thống chính trị quốc tế được và xuất hiện hàng loạt các vấn đề mới. Vai trò của văn hoá đang thu hút sự chú ý hơn trong nghiên cứu quan hệ quốc tế nhất là khi toàn cầu hoá văn hoá trở thành tiêu điểm của mọi cuộc tranh luận. Bên cạnh đó, vai trò của văn hoá trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của các quốc gia cũng là vấn đề mới được quan tâm. Bởi vì chính sách đối ngoại, chứa đựng các giá trị vật chất và tinh thần, là sự tiếp nối của chính sách đối nội nên gắn liền với nền văn hoá chính trị của mỗi quốc gia. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là chính sách ngoại giao đa phương hoá, đa dạng hoá, là bạn với các nước trên thế giới. Ngoại giao văn hoá là một nhiệm vụ được đề cao. Mối quan tâm hiện nay là những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam có vai trò như thế nào trong chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới? Dựa vào mối quan hệ giữa cơ sở văn hoá và chính sách đối ngoại và một số phương thức văn hoá được vận dụng để làm rõ cách thức triển khai chính sách là nội dung bài viết này sẽ cố gắng chuyển tải. Các nội dung chính sẽ được đề cập như sau:

1. Giá trị văn hoá Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Như chúng ta đã biết, khi nói đến giá trị là nói đến những chuẩn mực xã hội mà các dân tộc đã hình thành nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình. Những chuẩn mực đó tạo nên sự gắn kết giữa các cá nhân trong một cộng đồng và sự liên thông giữa các thế hệ. Nếu không tồn tại sự liên thông đó thì bất kỳ xã hội nào cũng khó mà tồn tại và phát triển.

Ngoài ra, đề cập đến giá trị của một dân tộc là nói đến những thành tựu kết tinh sáng tạo của con người, là thành tựu về khoa học, về giáo dục, về nghệ thuật, về các hoạt động kinh tế - xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phát biểu: “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người sản sinh ra nhằm mục thích ứng với yêu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1]. Hoặc như ông Ph. Mayo, nguyên Tổng Giám đốc của UNESCO, đó là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Trải qua thời gian phát triển của các quốc gia, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”[2]. Như vậy, văn hoá sinh ra cùng con người, có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội và cả trong thái độ đối với tự nhiên. Đồng thời, cũng như mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, văn hoá luôn nằm trong quá trình phát triển và không ngừng biến đổi. Sự phát triển từ thấp đến cao, sự thay đổi từ nền văn hoá này sang một nền văn hoá khác là hiện tượng thường xuyên xảy ra trong lịch sử.

Văn hoá cũng luôn chứa đựng trong nó khả năng bao dung (tolerance) và khả năng tiếp biến (accumulation), nghĩa là khả năng tiếp thu những giá trị văn hoá của nước khác. Trong lịch sử dân tộc, ở thời kỳ đầu lập quốc, văn hoá của dân tộc Việt Nam đã tiếp thu các giá trị các nước láng giềng như Ấn Độ, Trung Quốc, sau đó là thời gian tiếp thu văn hoá của phương Tây. Trong thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước, các vùng văn hoá cũng có sự tiếp nhận khác nhau về văn hoá, miền Bắc chịu ảnh hưởng của văn hoá Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trong khi miền Nam chịu ảnh hưởng của văn hoá phương Tây. Văn hoá Việt Nam đã được hiện đại hoá. Hiện nay, trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và toàn cầu hoá văn hoá, văn hoá Việt Nam sẽ tiếp tục có cơ hội để phát triển dựa trên thành tựu của các nền văn hoá phát triển trên thế giới. Những yếu tố tiến bộ của văn hoá nước ngoài, một khi đã được dân tộc ta chấp nhận và biến thành sở hữu của mình rồi, thì có thể trở thành một bộ phận của giá trị bản sắc văn hoá Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành các giá trị truyền thống tốt đẹp cho dân tộc Việt Nam. Từ hàng nghìn năm nay, nhân dân Việt Nam đã phải vượt qua mọi gian khổ, khó khăn trong việc chống chọi với những khắc nghiệt của thiên nhiên, đồng thời phải huy động lực lượng để tiến hành chiến đấu chống lại giặc ngoại xâm thường mạnh hơn rất nhiều lần. Cốt lõi của các giá trị truyền thống đó là tinh thần yêu nước, ý thức chủ quyền quốc gia dân tộc, tinh thần đoàn kết, đùm bọc, tương thân tương ái. Đó còn là tính cố kết dân tộc. Chính trong cuộc sống lao động, mà chủ yếu là việc trồng lúa nước, sự hợp tác chung sức làm thuỷ lợi, đào mương, đắp đập…đã hình thành nên tính cộng đồng của người dân Việt. Tính cộng đồng, tinh thần đoàn kết đã tạo thành sức mạnh dân tộc, là cơ sở vững chắc của chủ nghĩa yêu nước. Và đến lượt nó, giá trị dân tộc hay là bản sắc dân tộc Việt vốn được hun đúc qua các thế hệ đã tạo nên bản lĩnh và nhân cách cho con người Việt Nam. Những giá trị cơ bản trong truyền thống văn hoá dân tộc này không phải là kết quả của những sự lựa chọn ngẫu nhiên hay sắp xếp một cách tuỳ tiện mà đã được nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ, được xã hội tiếp nhận và phát triển, trở thành lương tâm và danh dự của mỗi người dân Việt.

Lịch sử đã chứng minh rằng, cái tạo nên sức mạnh Việt Nam, cái đảm bảo cho dân tộc Việt Nam tự khẳng định mình, vượt qua mọi khó khăn và thử thách của thiên tai và giặc ngoại xâm là sức mạnh tinh thần của dân tộc - những giá trị văn hoá, chuẩn mực nhân nghĩa trong đạo lý làm người. Sức mạnh đó còn là hệ thống các chuẩn mực giá trị mà các thế hệ của dân tộc liên tục lưu giữ và để lại cho đời sau.

Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, đất nước đang bước vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá, trải qua những biến động trong xã hội. Thực tế này cho thấy, những phẩm chất cần thiết của con người hiện đại ở nước ta có phần thay đổi. Ngoài những phẩm chất truyền thống như lòng trung thực, sự chung thuỷ còn có thêm những phẩm chất mới như khả năng thích nghi tốt, có học vấn, có tay nghề giỏi. Thế hệ trẻ ngày nay rất nhạy cảm với những vấn đề mới nảy sinh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật. Lý do chính là vì khi trí tuệ con người được mở rộng, ý thức về cá nhân, về quốc gia, về dân tộc được nâng cao thì con người sẽ có được những hành động hướng đến cái chân, thiện, mỹ vốn vẫn được đề cao bấy lâu nay. Bên cạnh đó, những tính thực tế, thực dụng cũng đâu đó len lỏi vào trong đời sống cộng đồng dân cư. Vì vậy, với mục đích xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc quan tâm và bảo vệ, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc trở thành yêu cầu cấp bách bởi vì nó không chỉ tạo nên sức mạnh vượt qua những thách thức gay gắt đang đặt ra, mà còn tạo ra động lực quan trọng để vươn tới tương lai. Kinh nghiệm lịch sử của đất nước đã chỉ ra rằng mỗi lần ý thức về dân tộc được dịp trỗi dậy và nâng cao thì sức mạnh của dân tộc lại được phát huy một cách rực rỡ. Truyền thống và hiện đại hoá không có gì mâu thuẫn với nhau. Muốn hiện đại hoá có hiệu quả cao phải giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Truyền thống không cản trở sự nghiệp hiện đại hoá mà là động lực của hiện đại hoá. Và chính những giá trị văn hoá hiện đại có sự tiếp nhận và kế thừa truyền thống của dân tộc sẽ là điều cốt lõi cho cách thức ứng xử của Việt Nam đối với bạn bè khu vực và trên thế giới.

2. Mối quan hệ giữa văn hoá và chính sách đối ngoại

Chính sách đối ngoại nếu hiểu một cách đầy đủ sẽ là tổng hợp các mục tiêu, chủ trương, biện pháp mà một quốc gia theo đuổi, thực hiện trong quan hệ với các quốc gia khác hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế, nhằm phục vụ lợi ích quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử [3]. Vì vậy, khi xem xét chính sách đối ngoại cần phải có cái nhìn tổng thể về nhiều phương diện cấu thành và tác động lên nó, từ nhân tố bên ngoài – tình hình thế giới, khu vực - đến các vấn đề bên trong như sức mạnh quốc gia, nội lực, tính toán chiến lược… Dựa trên sự cân nhắc về các yếu tố này, giới lãnh đạo của mỗi quốc gia sẽ tạo nên một chính sách cụ thể để triển khai và thu nhận những kết quả cũng như những tác động từ thực tế hoạt động trên trường quốc tế. Những kết quả này, đến lượt nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích quốc gia và quan hệ quốc tế có liên quan, qua đó tác động trở lại chu trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Đây là một quá trình mà ở mỗi giai đoạn đều thấy sự hiện diện của vai trò xã hội, cá nhân, cộng đồng, cách ứng xử của mỗi dân tộc… những yếu tố gắn liền với tính cách, bản sắc văn hoá của mỗi nước, mỗi dân tộc.

Ngoài ra, trao đổi văn hoá tạo thành một khía cạnh quan trọng trong quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại của các nước. Trong nhiều trường hợp, trao đổi văn hoá góp phần gia tăng sự hiểu biết giữa các nước. Sự gia tăng hiểu biết này có dẫn đến những tác động tích cực trở lại đối với chính sách đối ngoại hay không còn là chủ đề gây nhiều tranh cãi. Samuel Huntington thì cho rằng càng tiếp xúc với nhau nhiều về mặt văn hoá, nguy cơ xung đột lại càng tăng. Mặc dù không có sự thống nhất trong đánh giá về mối liên hệ giữa văn hoá và chính sách đối ngoại nhưng nhiều ý kiến học thuật đã thừa nhận tính chất quan trọng không thể thiếu của nội dung văn hoá với tư cách là một nội dung và đồng thời là một yếu tố tác động lên chính sách đối ngoại. Đó là mối quan hệ tương tác hai chiều mà tác nhân chính là con người - nhà lãnh đạo, nhà hoạch định chính sách, các nhóm, tổ chức... bởi vì hoạt động đối ngoại của một nước sẽ liên quan đến quan điểm chính trị của giới lãnh đạo và phương thức đề xuất và triển khai chính sách đối ngoại của nước đó. Nói đến quan điểm là nói đến quan điểm đường lối, là nói đến vấn đề bảo vệ lợi ích cho ai và quyền lực thuộc về ai. Và nói đến phương thức là đề cập đến những tổ chức, thiết chế nhằm triển khai các quan điểm và đường lối đối ngoại của quốc gia đó.

Tất cả các quốc gia trên thế giới, dù lớn hay nhỏ, trong sự nghiệp bảo đảm an ninh và phát triển cũng như trong các mối quan hệ quốc tế đều đặt lợi ích dân tộc mình lên trên hết. Tính thực dụng, thực tế, các nhân tố về lợi ích (an ninh, chính trị, kinh tế xã hội, văn hoá… vị thế quốc tế) luôn là tiêu chí hàng đầu, mục tiêu nội dung xuyên suốt trong chủ trương chính sách, biện pháp đối ngoại cũng như cách ứng xử trong quan hệ quốc của mỗi nước. Trong bối cảnh quốc tế đã thay đổi cơ bản, yếu tố này càng được khẳng định và đề cao.

Các hoạt động ngoại giao là phương thức để thực hiện các mục tiêu đối ngoại của một nước. Bên cạnh đó, các hoạt động ngoại giao, xét trên phương diện thực tế, là những mối giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa nhóm này với nhóm khác và cao hơn nữa là giữa các cộng đồng, quốc gia với nhau nhưng vẫn thông qua những con người cụ thể trên tư cách đại diện. Đây là vấn đề khá phức tạp và tinh tế. Như vậy, nếu đứng trên cách tiếp cận đặc điểm xã hội - văn hoá là toàn bộ cuộc sống vật chất và tinh thần (lối sống, nếp nghĩ) của từng cộng đồng [4], thì xã hội và văn hoá sẽ có tác động bao trùm, có ảnh hưởng theo từng mức độ nhất định đến mọi khía cạnh của chính sách đối ngoại. Ví dụ, khi nói về mối quan hệ giữa văn hoá và chính sách đối ngoại Mỹ, chính Tổng thống Mỹ, B.Clinton từng phát biểu: “trong nhiều trường hợp, văn hoá, phương tiện mà nhờ đó, một xã hội rộng lớn và không có nguồn gốc như thế này (nước Mỹ) duy trì được bản sắc và vai trò lãnh đạo toàn cầu, là một trong những nhân tố quyết định quan trọng nhất đến hoạt động đối ngoại”[5].

Khi xem xét ảnh hưởng của văn hoá đối với chính sách đối ngoại, cần có cách tiếp cận phù hợp. Có hai cách tiếp cận văn hoá khác nhau từ hai góc độ. Theo góc độ nhìn rộng, dân tộc học, góc nhìn chung của nhiều ngành khoa học xã hội, văn hoá là toàn bộ cuộc sống (lối sống, nếp sống) vật chất và tinh thần của từng cộng đồng [6]. Như vậy, văn hoá sẽ có tác động bao trùm, có ảnh hưởng theo từng góc độ nhất định đến tất cả các khâu và khía cạnh của chính sách đối ngoại. Theo góc nhìn hẹp, góc thông dụng trong cuộc sống hay còn gọi là góc nhìn báo chí, văn hoá gắn với tri thức [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: văn hoá vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, văn hoá là một yếu tố tác động đến chính sách ngoại giao bên cạnh các yếu tố khác như: mục tiêu quốc gia, sức mạnh kinh tế, ổn định chính trị, vai trò cá nhân lãnh đạo…

Một nền văn hoá của một nước thường được xác định qua ba thông số: chủ thể của nền văn hoá đó là ai, không gian văn hoá ở đâu và thời gian văn hoá như thế nào. Các thông số này cho biết đặc tính của nền văn hoá mà nó tạo ra. Đó cũng là những yếu tố có tác động chi phối đến chính sách đối ngoại. Văn hoá Việt Nam là nền văn hoá được hình thành từ nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã, cách đây khoảng hơn vài ngàn năm. Điều đó khiến cho bản sắc văn hoá Việt Nam có những nét tương đồng với các nền văn hoá láng giềng khác, nhưng cũng có rất nhiều điểm khác biệt thể hiện rõ rệt ở tính đoàn kết, tình yêu thương đồng loại và sự bao dung nhờ quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong tấm gương văn hoá, có sự phản chiếu đặc trưng của con người và xã hội, những điều kiện địa lý, những tính chất của thời đại – các nhân tố tham gia trực tiếp và có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và triển khai đường lối ngoại giao. Xây dựng chính sách đối ngoại là một quá trình chính trị xuất hiện trong lòng việc xây dựng xã hội [8]. Chính vì vậy, chính sách đối ngoại của Việt Nam thể hiện sắc thái văn hoá Việt, tức là bị tác động bởi tính cách dân tộc, lối tư duy, cách ứng xử của con người Việt Nam, chịu sự chi phối của điều kiện tự nhiên và xã hội, đồng thời có những biến đổi theo từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

Văn hoá là một khái niệm rộng lớn, bền lâu. Văn hoá còn được coi là sự tích luỹ được lý tưởng hoá và tổng quát của quá khứ, là sự trừu tượng nằm sau chính phủ, tôn giáo, chính sách đối ngoại và thái độ xử thế về kinh tế hay quân sự [9]. Đồng thời, do tính giai cấp, văn hoá cũng gắn với chính trị và phục vụ mục đích chính trị của giai cấp cầm quyền. Do vậy, ảnh hưởng của văn hoá đến chính sách của quốc gia với bên ngoài (một yếu tố luôn biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp, khôn lường) tuy đều đặn, bao quát nhưng lại là điều không dễ nhận thấy. Vì văn hoá gắn bó chặt chẽ với quá trình nhận thức, gồm thói quen, nếp nghĩ và cả những giả định nằm sau các động cơ của mỗi quyết định và hành động nên tất yếu đóng một vai trò quan trọng đối với chính sách đối ngoại quốc gia. Cách tiếp cận chính sách đối ngoại bằng đặc trưng văn hoá sẽ đem lại một cách nhìn nhận khác về mặt bản chất và nguồn gốc của vấn đề.

Có ba thông số xác định một nền văn hoá: chủ thể, không gian và thời gian văn hoá. Ba thông số này đều có tác động riêng biệt và phối hợp đến chính sách đối ngoại của mỗi nước. Chủ thể - những người đã gây dựng nên nền văn hoá, tất yếu có ảnh hưởng bao trùm về nhiều mặt. Họ gồm cộng đồng dân cư và đội ngũ lãnh đạo, mang trong mình tâm thức của nền văn hoá bản địa. Cộng đồng sẽ có những đòi hỏi nhất định, đặt ra các yêu cầu về trách nhiệm với cơ quan đề ra chính sách. Từ đó, chính sách đối ngoại, cũng như các chính sách quốc gia khác, được hình thành và triển khai trên cơ sở dung hoà lợi ích quốc gia với lợi ích giai cấp cầm quyền, để thúc đẩy quan hệ với bên ngoài nhằm tiến tới mục tiêu hỗ trợ và phục vụ cho việc phát triển đất nước. Các đối sách ngoại giao, nhờ vậy, mang sắc thái của một dân tộc gồm các giai cấp bị chi phối bởi nền văn hoá riêng. Và bản sắc văn hoá Việt Nam đã được vận dụng một cách sáng tạo trong chính sách đối ngoại từ khi chính sách đổi mới được triển khai.

3. Bản sắc văn hoá trong chính sách ngoại giao đa phương hoá của Việt Nam

Như trên đã phân tích, giữa văn hoá và chính sách đối ngoại của một quốc gia, dân tộc có sự gắn kết sâu sắc do sự gắn kết giữa quan điểm đường lối, phương thức hình thành và triển khai chính sách và nhân cách của giới lãnh đạo đường lối đó. Tất cả những yếu tố này đều liên quan đến văn hoá, đều thể hiện trình độ văn hoá của giai cấp cầm quyền và chế độ chính trị. Chính sách đối ngoại đa phương hoá của Việt Nam là một minh chứng cho sự đáp ứng phù hợp các đòi hỏi của lịch sử vốn bao giờ cũng chứa đựng trong nó bản chất văn hoá.

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất nước và con người Việt Nam đã luôn theo đường lối hoà hiếu với các nước bạn bè, láng giềng xung quanh. Có thể nói tư tưởng “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” luôn là kim chỉ nam trong đường lối đối ngoại của nhân dân Việt Nam. Bất cứ khi nào đất nước ở trong thời kỳ buộc phải cầm súng chống lại giặc ngoại xâm, con người Việt Nam đều cố gắng tìm những cách thức tốt nhất có thể để hạn chế những nguy cơ xảy ra xung đột. Khi xung đột xảy ra, Việt Nam luôn thực hiện những chính sách góp phần đưa đến kết thúc nhanh nhất cuộc chiến. Và sau mỗi cuộc chiến, dân tộc Việt Nam lại luôn luôn là người đi đầu trong việc hàn gắn lại vết thương trong quan hệ với các nước. Những tư tưởng này là nền tảng cho chính sách của Việt Nam đối với các nước láng giềng, khu vực và trên thế giới – đó chính là chính sách đối ngoại đa dạng hoá quan hệ.

Nền ngoại giao hiện đại ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay trải qua một số thời kỳ quan trọng, trong đó mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lại có những sắc thái riêng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh quốc tế, khu vực cũng như điều kiện của Việt Nam vào thời điểm đó. Ý tưởng về hội nhập quốc tế và đa dạng hoá quan hệ của Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên rất sớm trong lời kêu gọi gửi Liên hiệp quốc tháng 12/1946, trong đó nêu rõ chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”[10]. Việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời trái với mọi dự tính và dàn xếp của các nước lớn. Và sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mặc dù giành được độc lập, Việt Nam vẫn chưa được công nhận trên trường quốc tế. Vì vậy, Việt Nam đã coi tất cả nhân dân bị áp bức trên thế giới và đại đa số các nước có cùng cảnh bị đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc là bạn. Đây là giai đoạn khó khăn nhất, nặng nề nhất trong sự nghiệp của dân tộc Việt Nam.

Tư tưởng về mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới đã được phát huy trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền của dân tộc Việt Nam qua việc huy động sự ủng hộ và tạo nên làn sóng đoàn kết của nhân dân trên thế giới đối với Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XX, sau sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực vào cuối những năm 1980 - đầu 1990, Việt Nam đã bắt đầu một bước chuyển mới trong cách tiếp cận và thực tiễn hoạt động nhằm mở rộng quan hệ quốc tế trên quy mô khu vực và toàn cầu nhằm khắc phục tình trạng khủng hoảng, ổn định kinh tế, tạo đà cho phát triển sau này. Việc phá thế bị bao vây cấm vận, chấm dứt tình trạng kinh tế tự cung tự cấp, cải thiện và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế thông qua thương mại và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), khôi phục quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế (IMF, WB, ADB), các nước và các trung tâm kinh tế lớn (Mỹ, Nhật, EU), đã trở thành mệnh lệnh và yêu cầu bức bách không thể trì hoãn.

Trước tình hình đó, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhận thấy rõ cơ sở nhận thức và xã hội của việc đề ra và thực thi chính sách mở cửa và tham gia quá trình quốc tế hoá đã xuất hiện, vì vậy cần phải đổi mới tư duy, nhận thức và nhanh chóng chuyển sang chính sách mở cửa, hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế nhằm tranh thủ những nguồn lực cần thiết bên ngoài về thị trường, vốn đầu tư, khoa học công nghệ, tri thức và kinh nghiệm phát triển kinh tế nhằm tạo lập những mối quan hệ có lợi cho việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, tạo cho mình vị trí xứng đáng trong phân công lao động và quan hệ kinh tế quốc tế. Đây là kết quả của cả một quá trình tìm tòi và thể nghiệm, xây dựng và phát triển, bổ sung và hoàn chỉnh, cập nhật và thích ứng với những yêu cầu phát triển của đất nước cũng như những biến đổi của tình hình khu vực và thế giới.

Theo quan điểm của các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam, đa dạng hoá quan hệ có nghĩa là mở rộng quan hệ trong mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hoá đến các quan hệ về Nhà nước, về Đảng và các tổ chức đoàn thể xã hội, cho đến quan hệ với các tổ chức phi chính phủ. Đa phương hoá có nghĩa là quan hệ với nhiều đối tượng khác nhau, với các tổ chức thuộc các xu hướng và thể chế chính trị khác nhau. Trong quan hệ với các nước trong khu vực, Việt Nam khẳng định: “Với các nước Đông Nam Á chúng ta chủ trương mở rộng quan hệ về nhiều mặt theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi”[11].

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình trong nước và quốc tế, Đại hội Đảng VI (tháng 12/1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với tuyên bố tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đã đưa ra chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt thù”, “mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương: “Phải tham gia sự phân công lao động quốc tế… tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi”.

Sau Đại hội VI, Bộ Chính trị và Trung ương Đảng đã họp và đánh giá lại toàn bộ tình hình quốc tế và khu vực, đặc biệt kiểm điểm nghiêm túc các hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đó. Tháng 5/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 13 về “nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới” với chủ đề “giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế”. Nghị quyết nhấn mạnh chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa dạng hoá quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và chỉ ra nhiệm vụ quan trọng trước mắt là bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và góp phần giải quyết vấn đề Campuchia [12]. Đây là thời điểm bắt đầu cho quá trình hoà giải ở Đông Nam Á, và là điểm mốc thể hiện sự thay đổi tư duy đối ngoại của Việt Nam cũng như mong muốn của Việt Nam về một Đông Nam Á hoà bình - ổn định, là tiền đề thể hiện thiện chí của Việt Nam với tổ chức và cơ chế đa phương duy nhất tại khu vực.

Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới và khu vực đã có nhiều thay đổi. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá đã buộc các quốc gia phải đẩy mạnh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế bằng mọi biện pháp khác nhau, trong đó có việc tăng cường ngoại giao đa phương (tận dụng sức mạnh tổng hợp của các diễn đàn đa phương để phát triển). Để bắt kịp nhịp sống toàn cầu và khu vực, Việt Nam đã có những bước đi hiệu quả trong chủ trương chính sách của mình. Đại hội VII (1991) đã biến chủ trương “thêm bạn, bớt thù” thành phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đầu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[13].

Đến Đại hội VIII (1996), chính sách đối ngoại đa phương hoá và đa dạng hoá một lần nữa khẳng định “tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đại hội cũng nêu rõ “mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực”, đồng thời “tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu” và khẳng định: “coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế – chính trị trên thế giới”[14]. Trong quãng thời gian từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, Việt Nam về cơ bản đã hoàn thành công tác đặt nền móng cho ngoại giao đa phương hoá.

Tại Đại hội IX (2001), chính sách ngoại giao đa phương hoá và đa dạng hoá đã được nâng lên một bước “thúc đẩy quan hệ đa dạng với các tổ chức quốc tế” đồng thời khẳng định: “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”[15].

Đại hội X (2006) tiếp tục nhấn mạnh: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Đồng thời khẳng định: Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực [16].

Những cố gắng của thời kỳ Đổi mới đã đạt kết quả. Việt Nam đã giành được những thành tựu vô cùng quan trọng, tranh thủ có hiệu quả các nguồn lực và sự ủng hộ của quốc tế đóng góp đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cuối năm 1993, Việt Nam đã nối lại quan hệ tín dụng với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) sau gần 15 năm gián đoạn, tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận các thị trường vốn và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng tài trợ quốc tế cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế. Từ chỗ nguồn viện trợ các nước ngoài hầu như bị cắt hoàn toàn, Việt Nam đã tranh thủ viện trợ phát triển (ODA) từ các nước phát triển, các tổ chức nói trên với tổng giá trị khoảng 6,1 tỷ USD. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam được cải thiện đã tạo thêm khả năng mở rộng thị trường, tham gia nhiều vào phân công lao động quốc tế và thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của bên ngoài. Việt Nam đã bình thường hoá và thiết lập quan hệ với hầu hết các nước, lãnh thổ trên thế giới, trở thành thành viên của các thiết chế quốc tế quan trọng, đặc biệt là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đang là thành viên tích cực của 63 tổ chức quốc tế trong khu vực và trên thế giới; có quan hệ với 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới [17].

Việt Nam đã tích cực tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu và có những đóng góp đáng kể. Điển hình là việc Việt Nam đưa sáng kiến góp phần nâng cao vai trò của ASEM, làm cho các hoạt động của tổ chức này ngày càng phong phú. Sáng kiến về “Bảo tồn và phát huy di sản văn hoá trong các nước ASEM” của Việt Nam và Pháp đã được thông qua tại Hội nghị ASEM 2 tổ chức tại London và được hưởng ứng thực hiện cho đến ngày nay. Ngoài ra, Việt Nam đưa ra còn các sáng kiến khác tại các kỳ Hội nghị khác nhau như: “Kết hợp y dược cổ truyền với y dược học hiện đại trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng” năm 1999, “Tăng cường hợp tác du lịch ASEM để xoá đói giảm nghèo và tăng cường thịnh vượng”; “Hợp tác về đào tạo và trợ giúp kỹ thuật ngành ngân hàng”; “Tăng cường trao đổi kinh nghiệm về hoạch định chính sách tài khoá giữa các Bộ Tài chính các nước ASEM”’; “Trao đổi về xây dựng thể chế thị trường trong bối cảnh toàn cầu hoá” (sáng kiến chung giữa Việt Nam và Đức) [18]. Hội nghị ASEM 5 được tổ chức tại Hà Nội tháng 10/2004 góp phần cải thiện hình ảnh và tình đoàn kết của ASEAN. Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thuyết phục các đối tác kết nạp Myanma, một trong ba thành viên của ASEAN vào ASEM. Năm 2007, vốn đầu tư vào Việt Nam đạt hơn 20 tỷ đô la. Bắt đầu từ 1/1/2008, Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Như vậy, không những kinh tế đất nước phát triển mà vị thế chính trị của Việt Nam cũng được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao.

Kinh nghiệm thực tế trong nhiều năm qua cho thấy rằng, phương châm đa dạng hoá quan hệ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả là cách thức được triển khai trên mọi khía cạnh hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam hiện nay. Nếu hiểu một cách đại thể, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ là việc quốc gia mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng và trên thế giới. Ngoài ra, đa phương hoá và đa dạng quan hệ cũng chính là việc nắm vững các quy luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu, nhận thức đầy đủ về năng lực nội sinh của đất nước để từ đó xác định được những bước đi trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại (cả về quy mô, nội dung, biện pháp thực hiện…) phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và thế giới. Việc đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại sẽ giúp chúng ta không bị cuốn vào vòng xoáy, áp lực của một thế lực duy nhất nào và có thể tự quyết định được lộ trình và cách thức quan hệ với các nước. Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ thể hiện quyết tâm mở cửa, khẳng định vị trí trong phân công lao động quốc tế và thúc đẩy quan hệ hợp tác và giao lưu quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Việc này đòi hỏi phải có sự tích cực và khẩn trương chuẩn bị, điều chỉnh, thay đổi bên trong cho phù hợp với các cam kết với các thể chế quốc tế lớn. Như vậy, đa phương hoá và đa dạng hoá là một yêu cầu quan trọng giúp khai thác tối đa cơ hội, hạn chế khó khăn để bảo đảm lợi ích của quốc gia trong quá trình hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế và văn hoá hiện nay.

Như vậy, có thể thấy rõ một điều là lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam đã chứng minh, đối đầu đơn thuần hoặc phụ thuộc đơn thuần đã đem lại bài học cho Việt Nam, thực hiện chính sách ngoại giao đa phương hoá và đa dạng không chỉ khiến Việt Nam tăng cường tính tự chủ giữa các nước lớn, mà còn giúp Việt Nam từng bước tiến lên con đường phát triển thịnh vượng. Đây là kết quả của sự gắn kết giữa tính hoà hiếu và lòng nhân ái vốn có trong truyền thống văn hoá của người Việt Nam từ bao đời nay với việc thực thi chính sách đối ngoại trong giai đoạn đất nước ở vào giai đoạn phát triển quan trọng. Chính vì vậy, việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa văn hoá dân tộc và văn hoá thế giới: vừa phải giữ gìn phát huy, phát triển tính độc lập, tính đặc thù của văn hoá dân tộc vừa giao lưu, chủ động thâm nhập văn hoá của dân tộc vào văn hoá thế giới là việc làm không chỉ của riêng bất kỳ riêng người Việt Nam nào.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995. tập 3. tr.431.

[2] Bộ Văn hoá – Thông tin và Thể thao (1992), Thập kỷ thế giới phát triển văn hoá, Hà Nội, tr.23.

[3] Đoàn Văn Thắng, “Nghiên cứu chính sách đối ngoại”, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế. Học viện Quan hệ Quốc tế, tháng 4/2000. tr.1

[4] Trần Quốc Vượng (1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam. NXB Giáo dục, tr.16

[5] W. J. Clinton. “Address to the Nation on the Strike on Iraq Intelligent Headquarters, June 26, 1993”, Weekly Compilation of President Documents 29. No. 26. July 5, 1993, tr.181.

[6] Trần Quốc Vượng. sđd, tr.16

[7] Trần Quốc Vượng. sđd, tr.16

[8] C.Farrands (1988), British Foreign Policy: Tradition, Change and Transformation. M.Smith. London Publisher, tr.51.

[9] J. Martin (1968), A Culture Intersection of Past and Future – American Now, J.G. Kirk NY. Atheneum, tr.187.

[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập (2000), tập 2. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.95.

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.40.

[12] Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. tr.324.

[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội. Tr.147

[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.121.

[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.42.

[16] Chính sách đối ngoại (3/2008), trang web: http://www.mofa.gov.vn.

[17] Các tổ chức quốc tế (3/2008), trang web: http://www.mofa.gov.vn.

[18] Trần Đức Cường “Việt Nam: vai trò và những đóng góp đối với ASEM”, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 5/2004. tr.16 – 17.

1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương