Nhận xét: Bằng quy nạp ta có thể chứng minh được kết quả sau đây: (Xem trang 36 [11] ). Giả sử là một dãy xác định với
Khi đó:
.
Định lý 2.4. Giả sử điều kiện (2.17) được thỏa mãn, khi đó nếu nghiệm tầm thường của hệ (2.11) ổn định thì nghiệm tầm thường của hệ (2.14) cũng ổn định.
Chứng minh: Giả sử là nghiệm bất kỳ của bài toán Cauchy (2.15)
Khi đó:
.
Do đó
.
Do và do điều kiện (2.17) ta có:
.
Áp dụng bổ đề Gronwall- Bellman ta có:
.
Do nên với mọi ta có
.
Do đó nghiệm tầm thường của hệ (2.14) thỏa mãn định nghĩa về tính ổn định.
Định lý 2.5. Giả sử điều kiện (2.17) được thỏa mãn. Khi đó nếu nghiệm tầm thường của hệ (2.10) ổn định tiệm cận thì nghiệm tầm thường của hệ (2.14) cũng ổn định tiệm cận.
Chứng minh: Từ giả thiết ổn định tiệm cận của nghiệm tầm thường của hệ (2.2), theo định lý 2.3 ta suy ra tồn tại và , sao cho:
,
Giả sử là nghiệm của bài toán Cauchy (2.15). Khi đó
.
Do điều kiện (2.16) ta có:
.
Do đó
.
Nhân cả hai vế với ta có
.
Bất đẳng thức này có thể viết dưới dạng:
.
Từ giả thiết của định lý ta suy ra
.
Ký hiệu:
.
Ta có :
.
Nếu chọn và thực hiện quá trình lập luận tương tự ta có :
,
Từ đó các điều kiện của định nghĩa về sự ổn định của nghiệm tầm thường được thỏa mãn và định lý được chứng minh.
2.4. Sự ổn định của hệ phương trình sai phân tuyến tính với ma trận hệ số biến thiên
Xét hệ phương trình sai phân:
, , (2.20)
Xét bài toán Cauchy:
(2.21)
Bằng phương pháp truy hồi ta thấy nghiệm của bài toán Cauchy có dạng:
với mọi .
Nghiệm của bài toán Cauchy (2.21) có thể viết dưới dạng:
, .
Định nghĩa 2.4. : Nghiệm tầm thường của (2.20) được gọi là ổn định theo Lyapunov nếu > , sao cho từ bất đẳng thức suy ra với mọi .
Trước tiên ta chứng minh định lý về sự ổn định của nghiệm tầm thường của (2.20)
Định lý 2.6. Nghiệm tầm thường của hệ (2.20) là ổn định khi và chỉ khi tồn tại hằng số dương sao cho với mọi ta có:
. (2.22)
Chứng minh: Điều kiện đủ:
Với bất kỳ chọn Khi đó nếu ta có:
.
Do đó nghiệm tầm thường của hệ (2.20) là ổn định theo định nghĩa
Điều kiện cần: Giả sử nghiệm tầm thường của (2.20) hoặc (2.21) là ổn định ta chứng minh điều kiện (2.22) được thỏa mãn.
Thật vậy do nghiệm tầm thường của (2.20) là ổn định nên với , tồn tại sao cho nếu thì ;
Do đó
.
Nếu theo định nghĩa chuẩn của ma trận suy ra (2.22)
Nếu ta chứng minh tồn tại số sao cho:
.
Thật vậy giả sử thỏa mãn điều kiện , xét phần tử , ta có . Khi đó:
.
Do nên:
,
Chọn ta có:
Theo định nghĩa chuẩn của ma trận ta có:
,
Định lý được chứng minh.
Nhận xét: Trong trường hợp thay = s, trong đó s là một số nguyên tùy ý thì nghiệm tầm thường của hệ (2.11) là ổn định tiệm cận đều. Ta có định lý sau đây
Định lý 2.7. Nghiệm tầm thường của hệ (2.20) là ổn định đều khi và chỉ khi tồn tại hằng số dương sao với mọi ta có
Xét hệ phương trình sai phân tuyến tính không thuần nhất :
(2.24)
Xét bài toán Cauchy :
(2.25)
Bằng phương pháp biến thiên hằng số Lagrăng ta thấy nghiệm của (2.25) có dạng :
.
Giả sử thỏa mãn điều kiện:
, (2.26)
trong đó thỏa mãn điều kiện
Định lý 2.8. Giả sử điều kiện (2.26) được thỏa mãn, khi đó nếu nghiệm tầm thường của hệ (2.20) ổn định thì nghiệm tầm thường của hệ (2.24) cũng ổn định.
Chứng minh : Giả sử là nghiệm bất kỳ của bài toán Cauchy (2.25), khi đó
.
Do đó
.
Do và do điều kiện (2.26) ta có:
.
Áp dụng bổ đề Gronwall- Bellman, ta có:
.
Do nên với mọi ta có .
Do đó nghiệm tầm thường của hệ (2.24) thỏa mãn định nghĩa về tính ổn định.
2.5. Sự tương đương tiệm cận của các hệ phương trình sai phân
Trong không gian Rn xét hai phương trình sai phân
, (2.27)
, (2.28)
trong đó .
Ký hiệu là họ nửa nhóm các ma trận sinh bởi ma trận A. Khi đó là ma trận nghiệm cơ bản chuẩn tắc của phương trình sai phân (2.27).
Ký hiệu là các ma trận nghiệm cơ bản chuẩn tắc của (2.28), sử dụng phương pháp biên thiên hằng số Lagrăng ta có
.
Ký hiệu . Ta có là họ toán tử tiến hoá sinh bởi ma trận hàm không suy biến . Để xác lập định lý ( kiểu Levinson ) chúng tôi xin trình bày định nghĩa và bổ đề sau
Định nghĩa 2.5. Hai phương trình sai phân (2. 27) và (2.28) được gọi là tương đương tiệm cận nếu với mọi nghiệm của phương trình (2.27) luôn tồn tại nghiệm y(n) của phương trình (2.28) thoả mãn:
, (2.29)
và ngược lại với mọi nghiệm của phương trình (2.28) luôn tồn tại nghiệm x(n) của phương trình (2.27) thoả mãn tính chất trên.
Bổ đề 3. Giả sử tồn tại phép chiếu sao cho các điều kiện sau thoả mãn
i. với ,
ii. với ,
iii. với , trong đó ,
Khi đó với bất kỳ luôn tồn tại sao cho
.
Định lý 2.9. Giả sử tồn tại các số dương a, c, và phép chiếu sao cho các điều kiện sau thoả mãn:
i.
ii. và với .
Khi đó các phương trình (2.27) và (2.28) là tương đương tiệm cận.
Chứng minh. Đặt , .
Ta được .
Do đó
. (2.30)
Giả sử là nghiệm của phương trình sai phân (2.28) , tương ứng đủ lớn ta có . Đặt
.
Mặt khác nghiệm các phương trình (2.27) và (2.28) có thể viết dưới dạng
và .
Nên .
Suy ra
.
Giả sử tồn tại K sao cho , không mất tổng quát giả sử n là số chẵn, khi đó ta có
.
Trong trường hợp n là số lẻ ta chọn số chia tổng là .
Vì , cho bé tuỳ ý, với đủ lớn ta có
với
với .
với .
Vậy với ta có :
.
Từ đó suy ra . Định lý được chứng minh.
Hê quả: Nếu tất cả các giá tri riêng của ma trân A đều nằm trong hình tròn đơn vi , đồng thời các giá trị riêng nằm trên đường tròn đơn vị đều là đơn, thì tất cả các nghiệm của hệ (2.9 ) đều giới nội và các hệ (2.27) và (2.28 ) là tương đương tiệm cận
2.6. Một số ví dụ về ứng dụng của phương trình sai phân
2.6.1. Mô hình biến động giá cả thị trường
a. Mô hình tổng quát
Khi phân tích sự biến động của thị trường hàng hoá người ta thường quan tâm đến các yếu tố sau: lượng hàm cung, lượng hàm cầu và sự thay đổi giá cả của hàng hoá đó. Để có thể thấy rõ mối quan hệ giữa các yếu tố này và sự biến động của chúng, chúng ta xây dựng mô hình sau đây
Ký hiệu: , là lượng hàng cung của loại hàng hóa thứ ,
, là lượng hàng cầu của loại hàng hóa thứ i,
, , là giá cả của hàng hóa thứ tại thời điểm quan sát (giả thiết t là biến thời gian rời rạc )
Giả sử:
, .
Sử dụng phương pháp biểu diễn ma trận ta có thể viết lại các biểu thức trên ở dạng:
trong đó:
Chú ý rằng sự biến động của thị trường có xu hướng cân bằng giữa cung và cầu, tức là:
,
hay ,
Tuy nhiên trong thực tế giá của hàm cầu thường được ấn định theo mức giá của hàm cung ở thời điểm trước đó, nên từ phương trình trên ta có mô hình biến động thị trường sau:
.
Hoặc ta có hệ phương trình sai phân dạng
,
trong đó là các hàm số được các nhà kinh tế xây dựng tùy theo loại hàng hóa và thị trường mà chúng ta đang quan sát .
b. Mô hình thị trường một loại hàng hóa
Khi phân tích hoạt động của thị trường hàng hoá, các nhà kinh tế học sử dụng hàm cung và hàm cầu để biểu đạt sự phụ thuộc của lượng cung và lượng cầu vào giá hàng hoá ( với giả thiết các yếu tố khác không thay đổi ). Dạng tuyến tính của hàm cung và hàm cầu như sau:
Hàm cung:
Hàm cầu:
trong đó là lượng cung, tức là lượng hàng hoá mà người bán bằng lòng bán;
là lượng cầu, tức là lượng hàng hoá mà người mua bằng lòng mua;
p là giá hàng hoá; , , , là các hằng số dương.
Mô hình cân bằng thị trường có dạng:
Giải phương trình này ta tìm được
Giá cân bằng:
Lượng cân bằng:
Chú ý rằng giá cả hàng hoá là một đại lượng phụ thuộc vào thời gian t, ,
Tuy nhiên trong thực tế giá của hàm cầu thường được ấn định theo mức giá của hàm cung ở thời điểm trước đó, nên từ phương trình trên ta có mô hình biến động thị trường sau:
, t = 0 ,1,2… (2.31)
Hay ta có hệ phương trình sai phân:
, , (2.32)
trong đó :
, .
Sử dụng ký hiệu thông dụng ta viết phương trình sai phân nhận được dưới dạng
(2.33)
.
Giả sử rằng giá cả tại thời điểm ban đầu t = 0 đã được xác định là p0, khi đó ta có:
Vì
Nên
Nhận xét:
Nếu thì hội tụ đến giá trị cân bằng .
Nếu thì
. Với n chẵn thì =
. Với n lẻ thì
Nếu thì tăng vô hạn.
Từ đó ta thấy tỷ số quyết định sự thay đổi của giá cả thị trường theo các khả năng sau:
. Giá cả biến động và sau một thời gian thì dần đến một giá trị cân bằng;
. Giá cả luôn dao động ở hai mức khác nhau;
. Giá cả biến động liên tục và tăng vô hạn theo thời gian.
2.6.2. Hiện tượng “mạng nhện” trong kinh tế nông nghiệp (xem [2])
Trong thực tế sản xuất nông nghiệp của người nông dân ở một số nước trên thế giới thường xảy ra tình huống sau. Việc quyết định diện tích gieo trồng một loại nông sản nào đó của người nông dân thường dựa trên cơ sở giá cả của loại hàng nông sản này được bán ra trong năm. Vì họ dự kiến rằng giá nông sản nào sẽ duy trì ở mức ổn định nên nếu giá bán của loại hàng nông sản nào đó cao, người nông dân sẽ quyết định trồng nhiều loại nông sản đó hơn. Năm tiếp theo khi vụ mùa được thu hoạch và đem nông sản ra ngoài thị trường bán, lượng cung sẽ vượt quá lượng cầu, giá giảm nên người nông dân bèn cắt giảm bớt diện tích gieo trồng loại nông sản này. Khi vụ mùa của năm thứ ba được thu hoạch, lượng cung của loại hàng nông sản nói trên có thể thấp hơn lượng cầu dẫn tới giá nông sản loại này lại tăng, do đó người nông dân lại tiếp tục điều chỉnh diện tích gieo trồng và quá trình này có thể lặp đi lặp lại trong một thời gian dài.
Về mặt phân tích toán học, chúng ta có thể mô hình hoá hiện tượng này dưới dạng các phương trình sai phân cấp một và xây dựng đồ thị các đường cong biểu diễn sự dao động của giá cả thị trường tương ứng với lượng hàng hoá cung và cầu thay đổi theo từng năm. Bức tranh nhận được từ các đường cong biểu diễn sự thay đổi của giá cả trồng giống như một mạng nhện, nên người ta thường gọi là hiện tượng mạng nhện hoặc chu trình mạng nhện (Cobweb cycles).
Sau đây chúng ta sẽ song song nghiên cứu ba hàm số phụ thuộc vào thời gian t, tại các điểm rời rạc t = 0, 1, 2, …
St là số đơn vị hàng hoá có khả năng cung cấp ở thời điểm t, gọi là hàng hoá cung.
Dt là số đơn vị hàng hoá mà thị trường có yêu cầu đòi hỏi ở thời điểm t, gọi là hàng hoá cầu.
p(t) là giá hàng hoá trên một đơn vị hàng hoá nói trên tại thời điểm t.
Dựa vào quan sát thực nghiệm chúng ta sẽ đưa ra một số giả định như sau:
-
Số lượng hàng cầu luôn luôn phụ thuộc vào giá bán hàng hoá này tại thời điểm đó, tức là tồn tại hàm f sao cho:
Dt = f(p(t)).
-
Số lượng hàng cung phụ thuộc vào giá cả của loại hàng hoá này ở thời kỳ trước đó, tức là tồn tại một hàm g sao cho:
St + 1 = g(p(t)).
-
Giá cả thị trường của một loại hàng hoá được xác định bởi lượng hàng hoá cung hiện có và các giao dịch mua bán diễn ra tại mức giá mà ở đó lượng cung và lượng cầu bằng nhau, vì vậy pt là nghiệm của phương trình
St = Dt.
Giả sử f và g là những hàm cho trước, nếu chúng ta biết giá trị p0 (tức là giá cả của mặt hàng tại thời điểm đầu tiên t = 0) thì ta có thể tính được lượng hàng cung S1 tạo thời điểm t = 1 bằng cách dựa vào giả định (b):
S1 = g(p0).
Theo giả định (c) ta có thể tính được lượng hàng cầu tại thời điểm t = 1 là D1 (vì rằng D1 = S1 , như vậy ta xác định được p1 theo giả định (a) tức là tính p1 từ hệ thức:
D1 = f(p1).
Quá trình này có thể tiếp tục và chúng ta sẽ tính được một dãy các giá trị giá cả tại các thời điểm khác nhau p0, p1, p2, …, pn, …
Một trong những vấn đề quan trọng được các nhà kinh tế và các doanh nghiệp quan tâm là khả năng dao động và dáng điệu thay đổi của giá cả và các đường cong biểu diễn quy luật của giá cả hàng hoá trong một số tình huống nhất định. Để có một ví dụ minh hoạ cụ thể chúng ta sẽ xét một trường hợp đơn giản nhất. Trong đó chỉ hạn chế xét trường hợp các hàm f và g là các hàm tuyến tính hoặc tựa tuyến tính.
Từ các giả định (a), (b), (c) ta nhận được các phương trình sai phân cấp một sau đây:
Dt = – md.p(t) + bd , (2.34)
St + 1 = ms.p(t) + bs , (2.35)
St + 1 = Dt + 1, (2.36)
(md > 0, bd > 0, ms > 0, bs > 0).
Trong đó – md là độ dốc của đường cong biểu thị sự thay đổi của lượng hàng hoá cầu, ms là độ dốc của đường cong biểu thị sự thay đổi của lượng hàng hoá cung. Độ dốc của đường cong cầu là âm và độ dốc của đường cong cung là dương, tất cả các đại lượng md, bd, ms, bs đều là các hằng số dương.
Để tiếp tục nghiên cứu quy luật dao động của giá cả thị trường chúng ta đưa hệ 3 phương trình sai phân cấp một trên về một phương trình sai phân cấp một . Thay (2.34) và (2.35) vào (2.36) ta có:
msp(t)+ bs = – mdp(t+1) + bd ,
hoặc p(t+1) = Ap(t) + B,
trong đó .
Sử dụng ký hiệu thông dụng ta viết phương trình sai phân nhận được dưới dạng
p(n+1) = Ap(n) +B, n = 0, 1, 2, … (2.37)
Dễ dàng thấy rằng nghiệm của phương trình có dạng:
Ký hiệu ta thầy p(n)= p* là một nghiệm riêng của phương trình (2.37). Nghiệm p(n) của (2.37) thoả mãn điều kiện ban đầu bằng p0 có thể viết dưới dạng
Nhận xét:
Theo giả thiết A < 0 nên sự dao động của dãy {p(n)} có thể phân chia theo các trường hợp sau:
* Nếu –1 < A < 0 thì giá cả p(n) sẽ thay đổi theo xu hướng dao động, giảm dần và hội tụ đến giá trị cân bằng ;
* Nếu A = –1 thì giá cả dao động là hữu hạn;
* Nếu A < –1 thì dao động sẽ là vô hạn.
Vì A là tỷ số giữa độ dốc của đường cong cung và đường cong cầu nên tỷ số này sẽ quyết định dáng điệu của các đường cong biểu thị sự biến động của giá cả thị trường.
Trong các hình vẽ sau đây chúng ta có thể quan sát các ví dụ minh hoạ trong 3 trường hợp tương ứng là
–1 < A < 0 (hình a), A = –1 (hình b), A < –1 (hình c)
St+1
Dt
p1 p3 p*p4p2 p0
pt
(a)
St+1
Dt
p1 p* p0
pt
(b)
St+1
Dt
p3 p1 p* p0 p2 p4 pt
(c)
Để xây dựng các đường cong tương ứng chúng ta có thể tiến hành như sau: Bắt đầu từ giá trị p0 ta sẽ tìm được S1 bằng cách di chuyển chiều thẳng đứng tới đường cung (St+1), sau đó di chuyển theo chiều ngang (do D1 = S1) để tìm giá trị D1 và điểm này giúp ta xác định p1 trên trục giá pt. Khi đó p1 ta lại có thể xác đinh S2 sau đó là D2 và tìm được p2… Giao điểm của đường cung St+1 và đường cầu Dt cho ta giá trị p* là mức giá cân bằng.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |