UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ BẢY quốc hội khoá XII



tải về 3.53 Mb.
trang39/47
Chuyển đổi dữ liệu17.08.2016
Kích3.53 Mb.
#21000
1   ...   35   36   37   38   39   40   41   42   ...   47

Trả lời: (tại Công văn số 2764/BXD-HTKT ngày 9/12/2009)

1. Đối với quy hoạch xây dựng liên vùng, hiện nay Bộ Xây dựng đang giao cho tư vấn lập quy hoạch xây dựng vùng trung du, miền núi phía Bắc. Yên Bái là một tỉnh thuộc vùng này. Trong nội dung quy hoạch sẽ đề cập đến các vấn đề mối quan hệ liên vùng, các vấn đề liên kết giao thông, cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải rắn mang tính liên vùng. Quy hoạch xây dựng này sẽ hoàn thành và trình Chính phủ phê duyệt vào năm 2010.

Việc lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Yên Bái thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh. Các dự án hạ tầng về cấp, thoát nước và xử lý chất thải rắn được lập và kêu gọi đầu tư dựa trên các quy hoạch này. Tuy nhiên, đặc điểm chung của các đô thị thuộc tỉnh Yên Bái là có địa hình miền núi trải dài đề án quy hoạch và các dự án đầu tư hạ tầng có tính vùng tỉnh, liên đô thị gặp nhiều khó khăn và tính khả thi không cao.

2. Trong thời gian qua, nhà nước đã triển khai một số dự án đầu tư phát triển hạ tầng cho tỉnh, tập trung ở thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ như xây dựng hệ thống cấp nước thành phố Yên Bái có công suất 11.500 M3/ngđ, vay vốn Chính phủ Pháp; hệ thống cấp nước thị xã Nghĩa Lộ công suất 3.500m3/ngđ, vay vốn JIBIC; đang triển khai xây dựng hệ thống cấp và thoát nước cho thị trấn Mù Cang Chải, thị trấn Nông trường Nghĩa Lộ vay vốn Phần Lan.

Hiện nay, một số nhà máy nước (thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ) chưa hoạt động hết công suất thiết kế do việc đầu tư còn chưa đồng bộ giữa nhà máy nước và mạng phân phối. Để khắc phục nhược điểm này và đảm bảo hiệu quả đầu tư, Bộ Xây dựng đã đề xuất dự án cấp nước cho thị trấn Nông trường Nghĩa Lộ thuộc Chương trình nước và vệ sinh tại các thị trấn ở Việt Nam giai đoạn II, sử dụng từ nguồn nước nhà máy nước thị xã Nghĩa Lộ; đồng thời yêu cầu Công ty cấp nước phát triển mạng lưới đường ống phân phối nhằm tăng tỷ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước cho thành phố Yên Bái, các vùng phụ cận và thị trấn Yên Bình.

Đối với tỉnh Yên Bái, nguồn nước cung cấp cho các đô thị đang gặp nhiều khó khăn. Để đáp ứng cho nhu cầu cấp nước đô thị trong tương lai, đề nghị UBND tỉnh tiến hành thăm dò, đánh giá và quy hoạch sử dụng nguồn nước cho các nhu cầu khác nhau, trong đó ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt.

3. Về thoát nước, xử lý nước thải và vệ sinh môi trường.

Các đô thị thuộc tỉnh Yên Bái hiện chưa có hệ thống thoát nước thải và công trình xử lý nước thải tập trung. Chất thải rắn của thành phố Yên Bái được thu gom và tập trung chôn lấp tại Yên Ninh, tuy nhiên bãi chôn lấp này chưa được thiết kế và xây dựng theo yêu cầu kỹ thuật. Để triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng các đô thị, đề nghị UBND tỉnh Yên Bái chỉ đạo các đơn vị chức năng lập các báo cáo đầu tư về thoát nước, xử lý nước thải và vệ sinh môi trường, làm cơ sở để các bộ ngành trung ương huy động và bố trí nguồn vốn phù hợp.



9. Cử tri TP Hồ Chí Minh kiến nghị: Hiện nay, có nhiều công trình đặc biệt, có tính đặc thù như: Công trình ngầm, công trình có tầng hầm, công trình “siêu cao tầng” (nhà trên 100m hoặc trên 30 tầng), trong khi thực tế chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn về phòng cháy, chữa cháy đối với loại công trình này. Đề nghị các cơ quan chức năng sớm ban hành các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy đối với những loại công trình này để thuận lợi trong triển khai thực hiện dự án và cơ quan quản lý Nhà nước có cơ sở kiểm tra, giám sát.

Trả lời: (tại Công văn số 2760/BXD-VP ngày 17/12/2009)

- Bộ Xây dựng đã hoàn thành biên soạn Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công trình. Dự thảo quy chuẩn đã được lấy ý kiến của các chuyên gia tại các hội thảo khoa học. Hiện nay, Dự thảo đã được chỉnh sửa và Bộ Xây dựng đã gửi Dự thảo tới các Bộ: Công an, Khoa học và Công nghệ, Giao thông vận tải, Giáo dục và Đào tạo, Công Thương, Y tế để lấy ý kiến góp ý bằng văn bản của các Bộ, ngành trước khi ban hành.

- Hiện nay Việt Nam đã có một số tiêu chuẩn kỹ thuật về vấn đề phòng chống cháy có thể sử dụng trong thiết kế xây dựng nhà cao tầng như sau:

+ Phòng cháy, chống cháy cho nhà và công trình TCVN 2622:1995;

+ Phòng cháy, chữa cháy - Nhà cao tầng - Yêu cầu thiết kế TCVN 6160:1996;

+ Phòng cháy chữa cháy - Chợ và trung tâm thương mại - Yêu cầu thiết kế TCVN 6161:1996;

+ Hệ thống báo cháy tự động – Yêu cầu thiết kế TCVN 5738:2001;

Và một số tiêu chuẩn về thử nghiệm khả năng chịu lửa của các bộ phận của nhà và công trình.



10. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Bộ ban hành quy định phân định, phân loại và phân cấp công trình san nền độc lập cho phù hợp với điều kiện thực tế, vì theo Nghị định 209/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ thì các dự án san nền được lập và phê duyệt một cách độc lập không gắn với các dự án khác và không có cơ sở để xác định công trình san nền thuộc loại công trình nào.

Trả lời: (tại Công văn số 2669 /BXD-VP ngày 8/12/2009)

Công tác san nền có thể được thực hiện riêng nhằm tạo mặt bằng để thực hiện xây dựng công trình thuộc một dự án cụ thể. Vì vậy, công tác san nền phụ thuộc vào loại và cấp công trình xây dựng.



11. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Theo Thông tư 05/2007/TT-BXD ngày 25/7/2007 của Bộ Xây dựng về hướng dẫn và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình, hướng dẫn tính chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá (GDP2) được tính theo chỉ số giá xây dựng từng loại công trình xây dựng, khu vực và thời gian xây dựng không có công thức tính cụ thể, đề nghị Bộ hướng dẫn để thực hiện nội dung này.

Trả lời: (tại Công văn số 2669 /BXD-VP ngày 8/12/2009)

Về cách tính chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá: Bộ Xây dựng đã hướng dẫn công thức tính chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá theo chỉ số giá xây dựng công trình tại mục 1.5 – phụ lục số 1 của Thông tư số 05/2007/TT-BXD ngày 25/7/2007 của Bộ Xây dựng về hướng dẫn lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình.



12. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị: Đề nghị Bộ sớm công bố chỉ số giá xây dựng công trình trong phạm vi toàn quốc (hiện nay mới ban hành cho các khu vực Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh) để có cơ sở tính chi phí dự phòng đối với các dự án kéo dài trên 2 năm, vì giá cả vật liệu xây dựng, chi phí phân công, máy móc… chênh lệch rất lớn so với các khu vực mà Bộ đã công bố.

Trả lời: (tại Công văn số 2669 /BXD-VP ngày 8/12/2009)

Về việc ban hành chỉ số giá xây dựng công trình: Hiện nay Bộ Xây dựng đang từng bước hoàn thiện việc công bố chỉ số giá xây dựng công trình. Cụ thể, trước đây Bộ Xây dựng công bố chỉ số giá xây dựng theo quý cho 3 khu vực đại diện (Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh). Từ quý II năm 2009 Bộ Xây dựng đã công bố theo quý cho 6 khu vực đại diện (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đắc Lắc, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ). Các năm tới Bộ Xây dựng sẽ công bố chỉ số giá xây dựng theo quý cho các tỉnh trong toàn quốc.



13. Cử tri tỉnh Đắk Lắk kiến nghị: Đề nghị Bộ sớm ban hành quy chuẩn xây dựng công trình ngầm, tiêu chuẩn xây dựng đối với công trình công cộng, công trình hạ tầng kỹ thuật ngầm theo Nghị định số 41/2007/NĐ-CP ngàu 23/2/2007 của Chính phủ quy định về xây dựng công trình ngầm.

Ban hành quy định cụ thể về loại và cấp công trình trong quy chuẩn kỹ thuật về xây dựng theo Nghị định số 49/2008/NĐ-CP ngày 18/4/2008 ngày 16/12/2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 2009/2004/NĐ-CP ngày 16/12/2004 của Chính phủ về quản lý chất lượng công trình.

Ngày 07/5/2009 của Chính phủ ban hành Nghị định số 42/2009/NĐ-CP về việc phân loại đô thị thay thế Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ về phân loại đô thị và có hiệu lực từ ngày 02/7/2009. Nghị định số 42/2009/NĐ-CP chỉ quy định về công tác phân loại đô thị, còn về nội dung cấp quan lý đô thị chưa được đề cập. Do vậy, tỉnh Đắk Lắk đang gặp vướng mắc trong việc đề nghị nâng cấp thành phố Buôn Ma Thuột từ đô thị loại II lên loại I, và thị trấn Ea Kar lên thị xã. Đề nghị Bộ sớn ban hành hướng dẫn nhằm giúp địa phương có cơ sở pháp lý hoàn thành thủ tục để nghị nâng cấp đô thị của tỉnh.

Trả lời: (tại Công văn số 2672 /BXD-VP ngày 9/12/2009)

1. Về kiến nghị thứ nhất:

Bộ Xây dựng đang biên soạn và ban hành bộ quy chuẩn mới thay thế cho bộ Quy chuẩn xây dựng ban hành từ năm 1997.

Trong lĩnh vực công trình ngầm đô thị, Bộ đã ban hành các Quy chuẩn liên quan sau:

- Quy chuẩn Công trình ngầm đô thị QCVN 08 : 2009/BXD, bao gồm hai phần:

+Phần 1: Công trình ngầm đô thị – Tàu điện ngầm;

+Phần 2: Công trình ngầm đô thị – Ga ra ô tô ngầm.

- Quy chuẩn Phân loại, phân cấp công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị QCVN 03 : 20009/BXD.

Hiện nay, Bộ Xây dựng đang biên soạn và chuẩn bị ban hành các quy chuẩn và tiêu chuẩn sau:

- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia các công trình hạ tầng kỹ thuật (đã xong dự thảo lần 4);

-Tiêu chuẩn hệ thống tuy nen kỹ thuật cho đường đô thị – Tiêu chuẩn thiết kế (đang lấy ý kiến phản biện họp Hội đồng khoa học nghiệm thu cấp Bộ).



2. Về kiến nghị thứ 2:

Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 33/2009/TT-BXD ngày 30/9/2009 ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phân loại, phân cấp công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và hạ tầng kỹ thuật đô thị, mã số QCVN 03:2009/BXD quy định cụ thể về loại và cấp công trình.



3. Về kiến nghị thứ 3:

Nghị định số 42/2009/NĐ-CP về việc phân loại đô thị, chỉ thay thế nội dung liên quan đến phân loại đô thị của Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 05/10/2001 của Chính phủ.

Theo chỉ đạo của Chính phủ, việc phân cấp quản lý đô thị sẽ được thực hiện trên cơ sở xây dựng một nghị định mới về phân cấp quản lý hành chính đô thị. Ngày 17/11/2009, Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 8180/VPCP-KTN về việc “Rà soát văn bản quy phạm pháp luật hiện hành quy định về phân cấp quản lý đô thị”, theo đó Chính phủ đã giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan nghiên cứu, soạn thảo Nghị định của Chính phủ về phân cấp quản lý hành chính đô thị theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Bộ Xây dựng đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Nội vụ để sớm có hướng dẫn quy định này. Để nắm bắt thông tin và hoàn tất các thủ tục đề nghị nâng cấp đô thị của Tỉnh, đề nghị Tỉnh chủ động làm việc với Bộ Nội vụ để có hướng dẫn cụ thể hơn.

14. Cử tri Tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Cần sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/2/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng.

Trả lời: (tại Công văn số 2625/BXD-TTr ngày 1/12/2009)

Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 24/2009/TT-BXD ngày 22/07/2009 Quy định chi tiết thi hành một số nội dung của Nghị định số 23/2009/NĐ-CP ngày 27/02/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở. Thông tư số 24/2009/TT-BXD ngày 22/07/2009 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 9/9/2009.



15. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị: Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai chương trình về nhà ở cho sinh viên của các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp vì hiện nay số lượng sinh viên có nhu cầu về nhà ở rất lớn ngày càng tăng.

Trả lời: (tại Công văn số 2661 /BXD-QLN ngày 8/11/2009)

Việc giải quyết chỗ ở cho người dân luôn được Đảng, Chính phủ hết sức quan tâm. Trong thời gian qua, Bộ Xây dựng đã nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách để phát triển nhà ở, đáp ứng cho các đối tượng có khó khăn ở cả khu vực đô thị và nông thôn.

Để từng bước đáp ứng nhu cầu về nhà ở cho các đối tượng có thu nhập thấp tại khu vực đô thị, ngày 20/4/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Tiếp theo đó, ngày 24/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã có các Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề thuê; Quyết định số 66/2009/QĐ-TTg ban hành một số cơ chế chính sách phát triển nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê; Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị.

Đẩy mạnh việc đầu tư xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, theo Quyết định số 65/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ, các dự án xây dựng nhà ở sinh viên chủ yếu do Nhà nước đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách (Trung ương và địa phương) để cho thuê, đồng thời Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển nhà ở cho sinh viên thuê theo phương thức xã hội hóa được quy định tại Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường. Trong 2 năm 2009-2010 Chính phủ dành khoảng 8.000 tỷ đồng từ nguồn trái phiếu Chính phủ để đầu tư xây dựng nhà ở cho sinh viên; phấn đấu đến năm 2015 sẽ giải quyết cho khoảng 60% số học sinh, sinh viên có nhu cầu được thuê nhà ở tại các dự án nhà ở sinh viên trên địa bàn cả nước.

Thực hiện các Quyết định nêu trên, để đẩy nhanh tiến độ và đảm bảo chất lượng đầu tư xây dựng nhà ở cho sinh viên, công nhân và người thu nhập thấp tại đô thị, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng có nhiều văn bản hướng dẫn, đôn đốc và trực tiếp kiểm tra việc triển khai thực hiện tại các địa phương. Bộ Xây dựng đã ban hành 06 Thông tư hướng dẫn quản lý dự án đầu tư xây dựng; hướng dẫn việc cho thuê, quản lý vận hành; hướng dẫn phương pháp xác định giá cho thuê và giá bán, giá thuê mua nhà ở cho người có thu nhập thấp thuộc các dự án do các thành phần kinh tế tham gia đầu tư; hướng dẫn phương pháp xác định giá cho thuê nhà ở sinh viên được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước; hướng dẫn về đối tượng, điều kiện, mẫu hợp đồng, quản lý sử dụng, vận hành khai thác nhà ở thu nhập thấp; hướng dẫn áp dụng thiết kế điển hình, thiết kế mẫu khi đầu tư xây dựng các dự án nhà ở sinh viên, nhà ở công nhân khu công nghiệp và nhà ở thu nhập thấp.

Ngày 20/8/2008 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1308/QĐ-TTg phê duyệt Danh mục dự án phát triển nhà ở sinh viên bằng nguồn trái phiếu Chính phủ năm 2009 gồm 88 dự án nhà ở sinh viên của 28 tỉnh, thành phố và hai Bộ: Quốc phòng, Công an với tổng số vốn trái phiếu Chính phủ phân bổ cho các dự án năm 2009 là 3.500 tỷ đồng. Tính đến nay đã có 69 dự án đã khởi công. Các dự án còn lại đang triển khai và sẽ khởi công trong tháng 11/2009. Sau khi hoàn thành vào cuối năm 2010, 88 dự án này được đưa vào sử dụng sẽ đáp ứng khoảng 330.000 chỗ ở cho sinh viên.

Trong thời gian tới, Bộ Xây dựng sẽ tổng hợp danh mục dự án đầu tư xây dựng nhà ở sinh viên bố trí vốn triển khai thực hiện trong năm 2010 (dự kiến tổng số vốn trái phiếu Chính phủ phân bổ là 4.758 tỷ đồng) và các năm tiếp theo đối với các địa phương còn lại chưa được bố trí vốn năm 2009 (trong đó có tỉnh Bắc Kạn) để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Để đảm bảo mục tiêu đề ra, trong giai đoạn tiếp theo 2011-2015 sẽ cần dành khoảng 20 ngàn tỷ đồng để đầu tư xây dựng nhà ở đáp ứng khoảng trên 400.000 chỗ ở cho sinh viên.

Chương trình đầu tư xây dựng nhà ở cho sinh viên của các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học là một chương trình lâu dài và cần có sự tham gia góp sức của nhiều thành phần kinh tế. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Xây dựng sẽ tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển nhà ở cho sinh viên không chỉ từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ mà còn từ các nguồn hỗ trợ khác như ngân sách của địa phương, nguồn vốn xã hội hoá, để đảm bảo đáp ứng chỗ ở cho sinh viên trong thời gian tới.



16. Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Đề nghị Chính phủ xem xét mở rộng thêm đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, đối với khu vực thành thị vì theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ thì chỉ thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, đối với vùng nông thôn.

Trả lời: (tại Công văn số 496/BXD-QLN ngày 26/3/2010)

1. Giải quyết nhu cầu nhà ở cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Thời gian qua, cùng với việc ban hành chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng thuộc diện chính sách, người có công với cách mạng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, đời sống khó khăn, tạo điều kiện để họ có chỗ ở an toàn, ổn định, yên tâm lao động sản xuất, phát triển kinh tế, từng bước vươn lên thoát nghèo.

Ngày 12/12/2008 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở nhằm mục đích cùng với việc thực hiện các chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ các hộ nghèo để có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xoá đói, giảm nghèo bền vững. Theo quy định của Quyết định này thì hộ nghèo thuộc đối tượng được hỗ trợ nhà ở hiện đang cư trú tại khu vực nông thôn trên phạm vi cả nước.

Bài học kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện các chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo tại các địa phương trong thời gian qua cho thấy ngoài mức hỗ trợ của Nhà nước thì sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng và sự tham gia đóng góp của chính người dân có ý nghĩa quan trọng. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở cho người nghèo theo phương châm ‘‘người dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ” đã đạt đựơc hiệu quả cao.

Ngoài số hộ nghèo thuộc diện đối tượng hỗ trợ nhà ở theo quy định của Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg nói trên thì hiện nay còn một bộ phận hộ nghèo, có khó khăn về nhà ở, sinh sống chủ yếu bằng nghề nông, lâm nghiệp, đang cư trú tại các thôn, làng, buôn, bản, ấp, phum, sóc…(gọi chung là thôn, bản) trực thuộc phường, thị trấn (là khu vực đô thị). Đối với số đối tượng này, Bộ Xây dựng đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan và các địa phương tiến hành rà soát, lập danh sách để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, bổ sung vào diện đối tựơng được hỗ trợ nhà ở theo quy định tại Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg.

2. Hiện nay, trên thực tế còn nhiều hộ nghèo tại khu vực đô thị có khó khăn về nhà ở, đang cần sự quan tâm của các cấp chính quyền để có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống.

Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, việc hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo tại khu vực đô thị đang gặp nhiều khó khăn. Đối với những hộ nghèo có khó khăn về nhà ở trong khu vực đô thị sẽ được hỗ trợ bằng chính sách xây dựng nhà ở xã hội để cho thuê, thuê mua theo quy định của Luật Nhà ở. Để triển khai xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của Luật Nhà ở cho các hộ thuộc diện đối tượng thuê hoặc thuê mua, ngày 24/4/2009 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg Ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Theo đó, các hộ thuộc diện đối tượng được vay vốn từ các ngân hàng thương mại có hỗ trợ của Nhà nước về lãi suất để trả một lần, trả góp tiền mua, thuê mua nhà ở.

Để sớm có quỹ nhà ở xã hội đáp ứng nhu cầu của các hộ thuộc diện đối tượng có khó khăn về nhà ở trong đô thị, hiện nay Bộ Xây dựng đang trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương và một số Tổng công ty nhà nước triển khai đầu tư xây dựng một số dự án nhà ở theo quy định của Quyết định 67/2009/QĐ-TTg.



17. Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Việc thực hiện Quyết định 167/2008/QĐ-TTg của Chính phủ về giải quyết nhà ở cho đối tượng chính sách và hộ nghèo trong thời gian qua tạo được sự phấn khởi, tin tưởng trong nhân dân. Hiện nay còn rất nhiều hộ cần thụ hưởng chính sách này nhưng chỉ có thời hạn đến năm 2011, đề nghị áp dụng thời gian dài hơn mới có thể giải quyết về căn bản để hộ chính sách, hộ nghèo có điều kiện tự vươn lên bảo đảm cuộc sống.

Trả lời: (tại Công văn số 497/BXD-QLN ngày 26/3/2010)

Ngày 12/12/2008 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở nhằm mục tiêu: cùng với việc thực hiện các chính sách thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006-2010, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ các hộ nghèo để có nhà ở ổn định, an toàn, từng bước nâng cao mức sống, góp phần xoá đói, giảm nghèo bền vững.

Theo quy định của Quyết định trên thì sẽ thực hiện hỗ trợ nhà ở cho khoảng 500.000 hộ nghèo có khó khăn về nhà ở đang cư trú tại khu vực nông thôn. Thời gian thực hiện từ năm 2008 đến năm 2012.

Sau hơn một năm triển khai thực hiện, với sự chỉ đạo sát sao của Thủ tướng Chính phủ, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các địa phương cùng với sự cố gắng, nỗ lực của các tổ chức, đoàn thể, cộng đồng và người dân, việc hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg đã đạt được kết quả tốt. Tổng hợp báo cáo của các tỉnh/thành phố, đến nay, các địa phương trên cả nước đã xây dựng hoàn thành trên 130.000 căn nhà cho hộ nghèo. Hầu hết các căn nhà được xây dựng đều đạt và vượt quy định về diện tích và chất lượng; nhà ở có kiểu dáng, kiến trúc phù hợp với phong tục, tập quán của địa phương cũng như phù hợp với điều kiện sinh hoạt của các hộ gia đình. Nhờ đó, một bộ phận khá lớn hộ nghèo đã có nhà ở an toàn, ổn định, mức sống từng bước được nâng cao.

Để sớm hoàn thành hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng thuộc diện ưu tiên theo quy định, Bộ Xây dựng đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan xây dựng và đề nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch hỗ trợ nhà ở trước cho các đối tượng thuộc diện chính sách, hộ gia đình có công với cách mạng, hộ đang cư trú tại địa bàn thuộc 62 huyện nghèo và hộ gia đình là đồng bào Khơ me tại khu vực Tây Nam Bộ. Đối với những địa phương triển khai thực hiện tốt, có hiệu quả, Bộ Xây dựng cũng đề nghị Thủ tướng Chính phủ bố trí đủ vốn từ ngân sách Trung ương theo quy định để các địa phương có điều kiện hoàn thành sớm việc hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn. Ngoài ra, Bộ Xây dựng cũng đang phối hợp với các Bộ ngành liên quan và các địa phương tiến hành rà soát, thống kê những hộ nghèo có khó khăn về nhà ở, đang sinh sống tại các thôn, làng, buôn, bản, ấp, phum, sóc…(gọi chung là thôn, bản) trực thuộc phường, thị trấn (là khu vực đô thị) để đề nghị Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào diện đối tượng được hỗ trợ nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg, đáp ứng yêu cầu giải quyết một cách căn bản nhà ở cho các hộ chính sách, hộ nghèo có khó khăn về nhà ở.

Theo quy định thì thời gian thực hiện Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg đến năm 2012, vì vậy việc cử tri tỉnh Trà Vinh nêu thời hạn thực hiện đến năm 2011 là chưa hoàn toàn chính xác như quy định. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là việc thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo phải theo đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra, đó là: hỗ trợ đúng đối tượng, không bỏ sót đối tượng; nhà ở phải đảm bảo về diện tích và chất lượng quy định; trong quá trình thực hiện cần thực hiện tốt phương châm: “người dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ”. Nếu như trong thời gian ngắn mà hoàn thành việc hỗ trợ nhà ở cho các hộ nghèo sẽ càng có ý nghĩa hơn khi hộ nghèo sớm có nhà ở sẽ sớm có điều kiện để ổn định cuộc sống và vươn lên thoát nghèo.



18. Cử tri tp Hà Nội kiến nghị: Chính sách về nhà ở còn nhiều bất cập đối với cán bộ, công chức nhất là cán bộ chủ chốt ở cơ sở; đại đa số cán bộ, công nhân viên chưa được hưởng ưu đãi của Nhà nước về đất ở, nhà ở. Đề nghị Nhà nước quan tâm, xem xét giải quyết.

Trả lời: (tại Công văn số 145/BXD-QLN ngày 26/01/2010)

Trong những năm qua chính sách nhà ở luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện để người lao động và đội ngũ cán bộ, công chức có chỗ ở và được cải thiện chỗ ở ngày một tốt hơn. Nhà nước đã có những chính sách đầu tư phát triển quỹ nhà cho nhân dân và đội ngũ cán bộ, công chức tại các thành phố, khu đô thị; ban hành các tiêu chuẩn, chính sách phân phối nhà cho cán bộ công chức phù hợp với điều kiện kinh tế đất nước theo từng thời kỳ.

Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch, Nhà nước thực hiện chính sách bao cấp về nhà ở đối với đội ngũ cán bộ, công chức; với rất nhiều cơ chế chính sách và nguồn lực được huy động để xây dựng nhà ở cho cán bộ công chức nhưng số lượng công chức được phân phối nhà ở chỉ đạt được 1/3 trên tổng số công chức lúc đó.

Từ năm 1986 Nhà nước thực hiện xóa bỏ bao cấp về nhà ở, từng bước xã hội hóa việc phát triển quỹ nhà ở theo cơ chế thị trường. Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách về nhà ở cụ thể như: Pháp lệnh nhà ở được ban hành ngày 06/4/1991; Quyết định số 118-TTg ngày 27/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ về giá cho thuê nhà ở và đưa tiền nhà ở vào tiền lương; Nghị định số 61/CP ngày 05/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở, trong đó quy định cụ thể việc triển khai thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước cho người đang thuê, góp phần tạo nguồn vốn để đầu tư phát triển nhà ở; Quyết định số 64/QĐ-TTg ngày 21/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm tiền mua nhà cho một số đối tượng khi mua nhà ở đang thuê thuộc sở hữu nhà nước, tạo điều kiện cho các đối tượng cán bộ công chức có điều kiện cải thiện chỗ ở tốt hơn; Nghị định số 71/2001/NĐ-CP ngày 05/01/2001 của Chính phủ về ưu đãi đầu tư xây dựng nhà ở để bán và cho thuê, trong đó ưu tiên giải quyết bán hoặc cho thuê các căn hộ chung cư đối với các đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; Quyết định số 76/2004/QĐ-TTg ngày 06/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng phát triển nhà ở đến năm 2010 và năm 2020. Các cơ chế, chính sách phát triển nhà ở giai đoạn này đã góp phần thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển quỹ nhà ở cả về chất lượng và số lượng; đại bộ phận nhân dân ở đô thị và nông thôn đã được cải thiện về chỗ ở và điều kiện ở. Nhiều khu đô thị mới với hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ đã được xây dựng, nhiều khu chung cư cao tầng hiện đại được cung cấp dịch vụ đô thị đồng bộ đã được đầu tư góp phần cải thiện bộ mặt đô thị và giải quyết nhà ở cho người dân. Việc xóa bỏ chính sách bao cấp về nhà ở đã phát huy được tính chủ động của mỗi cá nhân trong việc tự cải thiện chỗ ở và thu hút được các nguồn lực xã hội cùng tham gia đầu tư, phát triển quỹ nhà ở (theo thống kê chưa đầy đủ, trong 5 năm 1996 – 2000 tổng số vốn huy động để phục vụ công tác phát triển nhà ở khoảng 25.000 tỷ đồng, trong đó 23.000 tỷ đồng là tiền của dân nhân và tiền của các doanh nghiệp tự huy động, tiền ngân sách nhà nước khoảng gần 2.000 tỷ đồng). Tuy vậy, các chính sách phát triển nhà ở giai đoạn này cũng đã bộc lộ những vấn đề bất ổn cần phải khắc phục như: tiền lương của cán bộ, công chức còn rất thấp chưa đảm bảo cho cán bộ công chức thuê nhà ở theo giá thị trường; các doanh nghiệp còn chú trọng đầu tư xây dựng nhà ở thương mại để kinh doanh theo quy luật thị trường, trong khi đó Nhà nước không trực tiếp đầu tư xây dựng nhà ở nên không có quỹ nhà ở để điều tiết thị trường nhà ở. Vì vậy, những đối tượng thu nhập thấp (cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách; công nhân lao động làm việc tại các khu công nghiệp; sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp…) không đủ khả năng tài chính để mua hoặc thuê nhà ở theo cơ chế thị trường nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc lo chỗ ở cho mình.

Để giải quyết những vấn đề nêu trên, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Nhà ở ngày 29/11/2005. Ngày 06/9/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở. Theo đó, ngoài hình thức đầu tư xây dựng nhà ở thương mại còn quy định việc phát triển nhà ở xã hội để cho các đối tượng cán bộ, công chức, công nhân, lực lượng vũ trang thuê, thuê mua; Nhà nước có trách nhiệm đầu tư phát triển quỹ nhà ở xã hội bằng nguồn vốn ngân sách và có cơ chế khuyến khích, ưu đãi các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển quỹ nhà ở xã hội.

Tuy nhiên việc phát triển nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp thuê, thuê mua theo quy định của Luật nhà ở và Nghị định 90/2006/NĐ-CP còn hạn chế vì một số lý do sau:

- Nhà nước chưa có đủ điều kiện kinh tế để tập trung vốn đầu tư phát triển quỹ nhà ở xã hội dành riêng cho đội ngũ cán bộ, công chức có khó khăn về nhà ở được thuê hoặc thuê mua.

- Chưa có cơ chế ưu đãi hiệu quả để thu hút các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia vào việc phát triển nhà ở xã hội để giải quyết chỗ ở cho cán bộ, công chức.

- Chính sách về hỗ trợ tín dụng chưa có; sự tham gia của các ngân hàng thương mại trong việc hỗ trợ vốn tạo điều kiện cho cán bộ công chức cải thiện chỗ ở còn nhiều hạn chế.

Vì vậy, để thúc đẩy việc phát triển nhà ở cho các đối tượng thu nhập thấp tại khu vực đô thị (trong đó có cán bộ, công chức), Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 20/4/2009 về một số cơ chế, chính sách nhằm đẩy mạnh phát triển nhà ở cho học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo và nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Tiếp đó ngày 24/4/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg ban hành một số cơ chế, chính sách phát triển nhà ở cho người có thu nhập thấp tại khu vực đô thị. Quyết định này đã có các chính sách ưu đãi cụ thể, đồng bộ đối với chủ đầu tư dự án nhà ở thu nhập thấp như: được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất trong phạm vi dự án; được áp dụng thuế suất ưu đãi, thuế giá trị gia tăng 5%; được hỗ trợ tín dụng đầu tư; được Nhà nước hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào dự án; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm,… Các đối tượng được mua, thuê, thuê mua nhà ở thu nhập thấp theo Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Sau khi có Nghị quyết số 18/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định số 67/QĐ-TTg của Thủ tướng đã tạo ra những chính sách cụ thể, thu hút được sự đồng tình và ủng hộ của xã hội; tính đến tháng 10/2009 đã có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đăng ký với 263 dự án, tổng mức đầu tư khoảng 72.710 tỷ đồng, trong đó vốn đối ứng của địa phương khoảng 2.958 tỷ đồng, vốn huy động từ các thành phần kinh tế khoảng 69.752 tỷ đồng, quy mô số căn hộ khoảng 205.380 căn, đáp ứng cho khoảng 821.520 người. Rất nhiều các dự án nhà ở cho người có thu nhập thấp đã và sẽ được khởi công trong thời gian tới. Tính từ sau khi có Quyết định số 67/QĐ-TTg cho đến cuối năm 2009, số dự án nhà ở cho người có thu nhập thấp đã được khởi công xây dựng là 31 dự án, tổng mức đầu tư khoảng 2.500 tỷ đồng, tổng diện tích sàn xây dựng là 655.000 m2, quy mô số căn hộ là 7.500 căn.

Với những chính sách nêu trên, Nhà nước đã và đang từng bước giải quyết nhu cầu nhà ở của đội ngũ cán bộ công chức và góp phần hỗ trợ cho một bộ phận cán bộ công chức có điều kiện cải thiện chỗ ở. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế đất nước còn hạn chế trong khi nhu cầu về chỗ ở và nhu cầu về cải thiện chỗ ở của cán bộ công chức lại liên tục tăng; vì vậy, việc giải quyết chỗ ở cho đội ngũ cán bộ công chức là một vấn đề lớn cần có thời gian cũng như cần huy động tốt hơn nữa mọi nguồn lực của toàn xã hội tham gia phát triển quỹ nhà ở xã hội cho đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động. Hiện nay, Bộ Xây dựng đang phối hợp nghiên cứu, xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ nhà ở theo đề án về chính sách nhà ở cho cán bộ, công chức. Đây là đề án được soạn thảo theo Quyết định số 54-QĐ/TW ngày 25/04/2007 của Ban Bí thư trung ương Đảng; sẽ có những chính sách hỗ trợ về nhà ở đối với cán bộ, công chức phù hợp hơn nữa với điều kiện kinh tế của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đề án này cùng với Quyết định số 67/2009/QĐ-TTg ngày 24/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ sẽ góp phần tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức dần ổn định cuộc sống, yên tâm công tác.



19. Cử tri tp Hồ Chí Minh kiến nghị: Đề nghị Bộ nghiên cứu, có kế hoạch để rà soát các định mức kinh tế, kỹ thuật trong công tác xây dựng cơ bản; đồng thời, sớm khảo sát, xây dựng và ban hành cụ thể các tiêu chuẩn, tiêu chí về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trên từng lĩnh vực chuyên ngành để làm cơ sở đối chiếu, tính toán, đo lường được hiệu quả tiết kiệm tại từng đơn vị;

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12

tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   35   36   37   38   39   40   41   42   ...   47




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương