1.1. Giới thiệu về nhóm thuốc chẹn thụ thể bêta và atenolol
1.1.1. Vài nét về nhóm thuốc chẹn thụ thể bêta [33]
Nhóm thuốc chẹn thụ thể bêta là nhóm các thuốc được sử dụng để điều trị các chứng rối loạn tim mạch như chứng tăng huyết áp, chứng loạn nhịp tim, chứng thiếu máu cục bộ. Mỗi loại thuốc thuộc nhóm chẹn thụ thể bêta đều bao gồm ít nhất một trung tâm bất đối và hoạt tính quang hoạt của chúng tác động đến các thụ thể bêta – adrenergic. Với các chất thuộc nhóm chẹn thụ thể bêta mà có duy nhất một nguyên tử các bon bất đối thì các đồng phân (S) enantiomer (đối quang quay trái) sẽ có hoạt lực mạnh hơn các đối quang của nó. Các đối quang khác nhau của một số loại thuốc này có tác động khác nhau, như tác động kháng thụ thể alpha – adrenergic hoặc tác động chống loạn nhịp tim lớp III. Tuy nhiên các tác động này biểu hiện tính lập thể thấp hơn so với việc tác động đến các thụ thể bêta. Nhóm thuốc chẹn thụ thể beta khá đa dạng về chủng loại, ngoại trừ timolol, tất cả các thuốc này được sử dụng trong việc điều trị lâm sàng với các bệnh nhân huyết áp và tim mạch dưới dạng raxemic. Theo quan điểm dược động lực học, nhóm này có giá trị lớn trong việc gắn kết các thể plasma protein, phần lớn các thuốc này bị mất đi trong quá trình trao đổi chất, bài tiết qua đường nước tiểu và bị hấp thụ bởi gan, nồng độ tương đối của các đối quang trong thể plasma không phải là cố định mà nó thay đổi theo từng thành viên của nhóm. Ngoài ra, nhiều yếu tố liên quan đến thuốc hoặc bệnh nhân có thể ảnh hưởng tới dược lực của các thuốc nhóm chẹn thụ thể bêta. Sự hiểu biết về dược lực, về tác dụng lập thể có thể giúp giải thích và dự đoán sự khác biệt giữa các bệnh nhân trong việc phản ứng với loại thuốc này.
Trong điều trị lâm sàng, các thuốc chẹn thụ thể bêta chiếm một vị trí khá quan trọng và chúng được sử dụng rất phổ biến. Một số thuốc đã được tổng hợp và được sử dụng một cách có hệ thống trong điều trị các chứng rối loạn tim mạch như chứng tăng huyết áp, chứng loạn nhịp tim, chứng đau thắt ngực, tăng nhãn áp. Đối với các tác dụng lâm sàng này, các nhóm chẹn thụ thể bêta thường được phân biệt dựa trên sự chọn lọc của chúng đối với các thụ thể bêta. Các thuốc chẹn thụ thể bêta không chọn lọc bao gồm: propranolol, oxprenolol, pindolol, nadolol, timolol và labetalol, chúng có tác dụng đối kháng với các thụ thể bêta-1, bêta-2 adrenergic. Các thuốc chẹn thụ thể bêta chọn lọc bao gồm: metoprolol, atenolol, esmolol và acebutolol, chúng có tác dụng gắn kết các thụ thể bêta 1-adrenergic mạnh hơn nhóm không chọn lọc. Các thuốc chẹn thụ thể bêta chọn lọc thường được chỉ định cho các bệnh nhân mà trong người có các thụ thể kết hợp có nguy cơ gây ra tác dụng phụ, đó là các bệnh nhân mắc các chứng bệnh như hen xuyễn, tiểu đường, hay bệnh Raynaud.
Một đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong công thức cấu tạo của của nhóm chẹn thụ thể bêta là có ít nhất một vòng thơm, kết hợp với một mạch ankyl có nhóm hidroxyl bậc hai và nhóm amin hoạt động. Mỗi chất trong nhóm này đều có một hoặc nhiều trung tâm bất đối trên mạch ankyl và gắn trực tiếp với nhóm hidroxyl. Ngoại trừ timolol chỉ có một đồng phân S, các chất còn lại đều có hai đồng phân tạo thành hỗn hợp raxemic. Dưới đây là công thức cấu tạo một vài chất thuộc nhóm chẹn thụ thể bêta:
1.1.2. Giới thiệu về atenolol
Atenolol là hợp chất hữu cơ, có công thức phân tử C14H22N2O3 và có công thức cấu tạo như ở phía dưới, thuộc nhóm thuốc chẹn thụ thể bêta (β-blockers), atenolol tác dụng chủ yếu lên thụ thể bêta-1. Đây là một hoạt chất đang sử dụng rất rộng rãi trong điều chế thuốc điều trị bệnh cao huyết áp, đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim. Thuốc được cung cấp dưới các tên thương mại như: Atehexal (Hexal); Ateno basan (Sagitta); Atenol (CT); Cuxanorm (TAD); Ibinolo (IBI); Myocord (Elvetium-Rhodia); Prenormine (Zeneca); Seles Beta (Schwarz); Tenoblock (Leiras); Tenormin (Zeneca); Uniloc (Nycomed); Anselol; Antipressan; Ate; Atebeta; Atehexal; Atendol; Atenix; Ateno; Betatop; Blocotenol; Cuxanorm; Duratenol; Evitocor; Falitonsin; Jenatenol; Juvental; Noten; Tenlol; Teno; Tenormin(e); Tensig; Tonoprotect; Totamol; Xaten, Beta-Adalat, Kalten, Tenben, Tenchlor, Tenif, Tenoret(ic) and Totaretic.…[11, 12]. Công thức cấu tạo của atenolol được biểu diễn như sau:
Trong công nghiệp, atenolol được sản xuất dưới dạng hỗn hợp raxemic của hai dạng lập thể R(+) và S(-), có công thức cấu tạo như sau:
|
|
S(-) atenolol
|
R(+) atenolol
|
Trên thị trường atenolol được bán dưới dạng hỗn hợp raxemic của 2 dạng đồng phân (S-) atenolol và (R+)atenolol và là một trong năm loại thuốc bán chạy nhất thế giới [8].
Bảng 1: Một số tính chất lý hoá và đặc trưng cấu trúc của atenolol
Tên thông thường
|
ATENOLOL
|
Tên hoá học
|
(RS)-4-(2-hydroxy-3-(isopropylamino)propoxy)phenyl)acetamide; 2-4-(2-Hydroxy-3-isopropylaminopropoxy)phenylacetamide; 4-(2'-hydroxy-3'-((1-methylethyl)amino) propoxy)benzeneacetamide; 1-p-carbamoylmethyl phenoxy-3-isopropylamino-2-propanol.
|
Công thức phân tử
|
C14H22N2O3
|
Khối lượng phân tử
|
266,34
|
Thành phần nguyên tố
|
C 63,13%, H 8,33%, N 10,52%, O 18,02%
|
Nhiệt độ nóng chảy
|
146-1480C (có tài liệu 152-154°C)
|
Hằng số phân li pKa
|
9.6 ở 240C
|
Thử màu
|
Theo Liebermann Test màu đen; Thuốc thử Nessler: màu vàng – nâu (chậm)
|
Hệ số phân bố
|
0.008 (pH 7.0); 0.052 (pH 8.0) / (n-octanol/đệm photphat)
|
Moment lưỡng cực
|
5.71 ±0.20 D ở 20°C trong axít propionic
|
Dạng lập thể
|
Dạng R(+) và S(-)
|
Phổ tử ngoại UVmax
|
225, 275, 283 nm (đo trong metanol)
|
Phổ hồng ngoại
|
Peak chính: 1633, 1245, 1510, 1184, 805, 820 cm−1.
|
Phổ khối lượng
|
m/z 72, 30, 56, 98, 43, 107, 41, 73.
|
Trạng thái
|
Dạng bột màu trắng, không mùi.
|
Tính tan
|
Tan hoàn toàn trong metanol; tan trong axít axetic, DMSO; tương đối ít tan trong etanol 96%; ít tan trong nước, isopropanol; rất ít tan trong axeton, dioxan; không tan trong axetonitrin, etylaxetat, clorofoc.
|
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |