TÂm sở VẤN ĐÁp tỳ khưu Chánh Minh LỜi nóI ĐẦU “Ý dẫn đầu các pháp”


Tóm lại tâm sở Nhất hành là pháp gìn giữ các pháp khác trụ vững trong cảnh



tải về 0.61 Mb.
trang5/9
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.61 Mb.
#30346
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Tóm lại tâm sở Nhất hành là pháp gìn giữ các pháp khác trụ vững trong cảnh.

33- HỎI: Tứ ý nghĩa của tâm sở Nhất hành ra sao ?

Đáp:

Tứ ý nghĩa của tâm sở Nhất hành là:



  • Trạng thái: Không loạn động đối với cảnh (avikhepalakkhaṇaṃ).
    Hay: Không chao động đối với cảnh (avisāralakkhaṇaṃ).

  • Phận sự: Tập hợp các danh pháp đồng sanh (sahātānaṃ sampiṇḍanaraso).

  • Thành tựu: Hiện bày sự yên lặng (upasama paccupaṭṭhāna).

  • Nhân cần thiết: Yên vui (sukhapadaṭṭhāna).

Giải thích:

Trạng thái: đặc tính của tâm sở Nhất hành trái với hoài nghi (vicikicca) và nhất là phóng dật (uddhacca). Khi gặp cảnh, vì có nhiều cách phân vân, lưỡng lự đối với cảnh, nên hoài nghi không thể trú vững trong cảnh, đã có nghi hoặc thì không thể có sự “kết dính” , “khắng khít” với cảnh được. Còn phóng dật lại có trạng thái lao chao, loạn động, nên cũng không trú vững trong cảnh và như thế cũng không có sự “kết dính” đối với cảnh.

Trái lại tâm sở Nhất hành có sự trú vững trong cảnh, chính sự “kết dính” với cảnh đã khiến cho Nhất hành có sự yên lặng, không bị loạn động trong cảnh, cho dù cảnh có rung động như thế nào đi nữa. Ví như mũi kim đính vào mảnh vải trên khung thêu, dù khung thêu có ngả nghiêng xoay chuyển như thế nào, mũi kim vẫn yên lặng tại chỗ đính vào. Đây là trạng thái của tâm sở nhất hành.

Cảnh được lắng yên thì Nhất hành càng tăng trưởng sức mạnh, khi cảnh hoàn toàn yên lặng thì tâm sở Nhất hành hiển lộ sức mạnh trở thành ĐỊNH (samādhi).

Phận sự: Khi tâm sở Nhất hành sanh khởi, nó tóm thâu những danh pháp đồng sanh “kết dính vào nhau” không cho rời rạc, phân tán. Ví như bụi bám trên đường lộ, một người muốn quét bụi cần phải lấy nước rảy trên mặt đường, bụi sẽ kết dính vào nhau và bụi sẽ không bay tung tóe khi bị quét. Hay ví như những cánh hoa được kết dính vào nhau bởi sợi chi, khi gặp gió các cánh hoa không bị rời rạc tung bay.

Nước có tác dụng”gom thâu” bụi dính vào nhau, không cho bụi bay tung tóe khi quét, sợi chỉ có tác dụng kết dính những cánh hoa, không cho các cánh hoa rời rạt khi gặp gió như thế nào, thì tâm sở Nhất hành có tác dụng “gom thâu” các danh pháp đồng sanh với nó dính chặt vào nhau như thế ấy. Đây là phận sự của tâm sở Nhất hành.



Thành tựu của tâm sở Nhất hành được hiện rõ dưới trí tuệ của bậc hiền trí hoặc của hành giả khi quán xét về danh- sắc.

Tâm được yên lặng trú vững trong cảnh, ví như ngọn lửa đứng yên, không lay động ở nơi lặng gió. Đây là sự thành tựu của tâm sở Nhất hành, tức là khi ấy Nhất hành có sức mạnh gom giữ các pháp đồng sanh, không cho bị tán loạn từ một hấp lực nào khác.



Nhân cần thiết của tâm sở Nhất hành là sukha (an lạc), nghĩa thông thường của sukha là an vui, hạnh phúc.

Nhưng ở đây cần nên hiểu là sự an vui này (sukha) đối nghịch với hoài nghi và phóng dật.

Lẽ thường, người có sự an vui ở thân, tâm tư người ấy dễ dàng yên lặng.

Đức Phật có dạy: “ thân yên lặng dẫn đến tâm yên lặng, tâm yên lặng dẫn đến phiền não yên lặng” .

Nên sukha ở đây ám chỉ thân yên lặng, vì sao vậy? Vì rằng tâm là một pháp chủng có khuynh hướng tìm sự an lạc, nếu không gặp hoặc xa lìa môi trường an lạc, tâm sẽ chao động ngay. Đức phật có dạy:

Vājiro’va thale khito


Ekamokata ubbhato
Pariphandati’midaṃ cittaṃ.
Māratheyyaṃ pahātave.


Như cá quăng trên bờ.
Vất ra ngoài thủy giới.
Tâm này vùng vẫy mạnh.
Hãy đoạn thế lực Ma”.1

Cá vất lên bờ nó vùng vẫy mạnh, nhưng khi thả trở vào môi trường nước, nó không còn vùng vẫy nữa vì được môi trường thích hợp. Cũng vậy, khi tâm gặp được sự an vui sẽ không có sự chao động mạnh, còn khi gặp được lạc, tâm yên lặng để thụ hưởng, do đó chi Lạc của thiền là pháp đối trị với phóng dật, đồng thời cũng là nhân cần thiết để sanh Định.

Cũng nên ghi nhận rằng: khi có thân Lạc, tâm quá phấn chấn không thể yên lặng được thì tâm sở Nhất hành không thể phát huy sức mạnh để trở thành Định (samādhi).

Chỉ an vui trong chốc lát cũng là nhân cần thiết trợ sanh cho tâm sở Nhất hành nhanh chóng.



34- HỎI: Nhân cần thiết của tâm sở Nhất hành là sukha (lạc), vì sao thọ khổ hay thọ xả cũng có tâm sở Nhất hành ?

Đáp:

Nên hiểu rằng sukha ở đây không phải thọ lạc, thọ lạc chỉ là một chi phần của sukha. Những điều an vui không hẳn phải phát sanh từ thọ lạc, tuy phần nhiều là như thế.

Không bị ràng buộc, vướng mắc cũng là sự an vui, nhưng tâm nhận lãnh an vui này bằng sự thản nhiên, như trường hợp người thản nhiên khi không có bệnh, khi không vướng nợ ai cả …

Như vậy sự an vui có nơi thọ xả, là nhân cần thiết cho tâm sở Nhất hành cũng là điều dễ hiểu. Bậc chứng đắc Tứ thiền (thiền bốn bậc) có Định, nhưng tâm hợp với xả thọ là điển hình cho trường hợp “an vui thản nhiên” trợ cho tâm sở Nhất hành.



Còn đối với thọ khổ hay thọ ưu thì sao ?

Đây là trường hợp đặc biệt, khi tâm có thọ khổ hay thọ ưu, thì chính, Tâm và Tưởng là hai pháp tạo ra sự an lạc “giả tạm” hay “an lạc tạm thời”, như một người đang đói tưởng tượng ra những món ăn để tạm thời quên cơn đói.

Ngoài ra, còn có sức mạnh của tinh tấn, tinh tấn giúp cho tâm chịu đựng cảnh không hài lòng, giúp tâm tạm thời an vui trong cảnh không tốt đẹp. Bấy nhiêu đó cũng đủ giúp cho tâm sở Nhất hành sanh lên.

35- HỎI: Tâm sở Nhất hành có phải là chi thiền không ? Chi Ưu của thiền có phải là bất thiện không ?

Đáp:

Thiền (jhāna) xuất phát từ ngữ căn jhe là suy gẫm. Ngài Buddhaghosa (Giác Âm) có giải thích:

“Ārammaṇa’upanijjhanato paccanīkajhāpanato vā jhānaṃ. Suy gẫm bám sát vào đối tượng hay thiêu đốt phiền não gọi là thiền”.

Như vậy chi thiền là những pháp thiêu đốt, đối trị với nghịch pháp, như:



  • Chi Tầm (vitakka) đối trị với hôn trầm, thụy miên.

  • Chi Tứ (vicāra) đối trị với hoài nghi.

  • Chi Hỷ (pīti) đối trị với sân.

  • Chi Lạc (sukha) đối trị với phóng dật.

  • Chi Định (samādhi) đối trị với tham dục.

  • Chi Xả (upekkhā) đối trị với hối (kukkucca).

  • Chi ưu đối trị với Hỷ (somanassa).

Bao giờ hiển lộ được sức mạnh để đối trị pháp nghịch, pháp ấy mới được gọi là chi thiền, trong trường hợp không đối trị được pháp nghịch, thì không thể gọi là chi thiền.

Như trong tâm tham hữu trợ (sasaṅkhārika) hay tâm sân hữu trợ, tuy có tâm sở Tầm nhưng vẫn có hôn trầm - thụy miên, nên tâm sở Tầm không phải là chi thiền vì chưa hiển lộ được sức mạnh để đối trị với hai pháp nghịch là hôn trầm và thụy miên.

Tương tự trong tâm Si hợp hoài nghi, tuy tâm sở Tứ có mặt nhưng không thể áp chế được hoài nghi, nên tâm sở Tứ không phải là chi thiền.

Nên ghi nhận “ ở đây chỉ nói đến chánh thiền”, riêng trong phần duyên hệ có câu:

Pháp bất thiện trợ pháp bất thiện bằng thiền duyên” là nói đến tà thiền (micchājhāna).

Hành giả tu tập thiền chỉ tịnh (samatha) đạt đến cận định, có bốn chi thiền là : tầm, tứ, hỷ và lạc. Rõ ràng khi ấy vẫn có tâm sở Nhất hành, nhưng tâm sở này chưa trở thành chi Định của thiền vì chưa áp chế được tham dục.

Khi đối trị được tham dục, hành giả đắc Sơ định, khi ấy Nhất hành trở thành chi Định của thiền.

Về chi Ưu của thiền.

Ở đây là nói đến hành giả đã đắc Sơ định, suy gẫm quán xét thấy rằng “Tầm - Tứ là một chướng ngại của Nhị thiền (thiền bốn bậc)”, có trạng thái chán nản Tầm - Tứ, muốn dứt bỏ Tầm - Tứ để tiến đạt đến Nhị thiền. Trạng thái chán nãn này là chi Ưu của thiền. Đức phật có dạy:

Có loại thọ ưu nên thân cận, có loại thọ ưu nên đoạn trừ”1.

Loại ưu nên thân cận là chỉ cho chi thiền Ưu này, đó là pháp thiện, còn ưu trong tâm sân thuộc về bất thiện cần phải đoạn trừ.



36- HỎI: Do nhân nào mà tâm sở Nhất hành (ekaggata cetasika) khi trở thành chi thiền luôn có trong các tâm thiền, trái lại các chi thiền khác lần lượt bị loại bỏ?

Đáp:

Chi Định là chi thiền hòa hợp trong các tâm thiền, vì Định là tên gọi trực tiếp của thiền (jhāna). Những chi thiền khác không phải là tên gọi của thiền, đó chỉ là những pháp tánh có công năng “quét sạch” những chướng ngại (nīvaraṇa- triền cái), nhằm trợ giúp cho tâm sở Ekaggata (Nhất hành) trở thành chi thiền.

Đức Phật có dạy:

-“Có năm uế nhiễm của vàng là: sắt, đồng, thiếc, chì và bạc. Do các uế nhiễm ấy, vàng bị uế nhiễm, không được nhu nhuyến, không được dễ sử dụng, không sáng chói, bị bể vụn và không chơn chánh chịu sự tác thành…

Cũng vậy, này các tỷ kheo, có năm uế nhiễm này của tâm là: tham dục, sân, hôn trầm - thụy miên, trạo hối, nghi. Do năm uế nhiễm này, tâm bị uế nhiễm, không được hu nhuyến, không được dễ sử dụng, không sáng chói, bị bể vụn, không chơn chánh định tỉnh để đoạn diệt các lậu hoặc…”1.

Đoạn kinh trên nêu rõ ý nghĩa của Định và tâm sở Nhất hành, nghĩa là “bao giờ gột sạch được uế nhiễm tham dục, bấy giờ tâm sở Nhất hành mới trở thành chi Định của thiền”.

Bốn chi thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc giúp tâm loại trừ dần những uế nhiễm. khi chỉ còn tham dục, tâm sở Nhất hành phát huy sức mạnh, áp chế được tham dục và trở thành chi Định trong các tâm Thiền.

Bốn chi thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc ví như bốn viên đại thần có năng lực dẹp tan những thế lực đối nghịch của Ấu chúa (tâm sở Nhất hành), giúp ấu chúa lên ngôi vua, khi Đức vua vững mạnh trên ngôi báu, có khả năng cai trị quốc độ vững vàng, thì đến lúc các vị lão thần “ lần lượt cáo lão từ quan”.

Cũng vậy, các chi thiền: Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc lần lượt bị loại bỏ theo từng cấp bậc thiền chứng, nhưng Định (đức vua) không thể loại bỏ được.

37- HỎI: Thế nào là tâm sở Mạng quyền (jīvitindriyacetasika).

Đáp:

Phân tích từ jīvitindrya được jīvita + indriya = jīvitindriya.

Gọi là jīvita (mạng) vì bảo tồn đời sống danh pháp tồn tại ba sátna (khaṇa): sanh - trụ - diệt.

Pāli có giải như vầy:

Jivanti sahājāta dhammā etenāti = jivitaṃ: Gìn giữ các pháp đồng sanh được tồn tại, gọi là Mạng”.

Gọi là indriya (quyền) vì có khả năng cai quản, kiểm soát các pháp đồng sanh cùng làm một phận sự.

Pāli có giải rằng;

Indanti parama issariyaṃ karoṇtīti = indriyāni: Đang thực hiện nhiều sự kiểm soát cao nhất, gọi là quyền”.

Kết hợp hai từ trên trở thành jīvitindriya nghĩa là “cai quản sự tồn tại của các pháp, gọi là Mạng quyền”.

Có hai loại Mạng quyền là danh Mạng quyền (nāma jīvitindriya) và sắc Mạng quyền (rūpa jīvitindriya).

Danh Mạng quyền bảo tồn đời sống danh pháp tồn tại 3 sátna tiểu.

Sắc Mạng quyền bảo tồn đời sống sắc pháp tồn tại 51 sátna tiểu (= 17 sátna tâm). Trong đó sát na Sanh là sátna khởi đầu, sátna Diệt là sát na thí7 51 (sátna cuối cùng), sátna Trụ gồm 49 sátna ở giữa.

Sắc Mạng quyền là loại sắc do nghiệp tạo, tuy thảo mộc cũng có sự sống nhưng không có loại sắc Mạng quyền này, chúng tồn tại là do sự vận chuyển của sắc thời tiết (utusamuṭṭhānarūpa) và sắc vật thực (āhārarūpa) riêng của chúng, chúng không có sắc do Tâm tạo hay do Nghiệp tạo.

Đối với chúng sanh hữu tình cõi năm uẩn, danh - sắc Mạng quyền đồng sanh với tâm Tục sinh (tâm khởi đầu kiếp sống - paṭisandhiviññāṇa), đồng diệt với tâm Tử (tâm cuối cùng chấm dứt một kiếp sống- cuticitta). Nên hiểu rằng: Danh - sắc Mạng quyền được tồn tại trong kiếp sống đó, không có nghĩa là chúng thường hằng, không bị hoại diệt trong suốt thời gian tuổi thọ của chúng sanh ấy, chúng vẫn phải sinh diệt liên tục, khi Mạng quyền này diệt đi, một Mạng quyền khác sanh lên, “cả hai Mạng quyền ấy giống nhau như là một”, do đó nói rằng “loại Mạng quyền này tồn tại suốt trong kiếp sống của chúng sanh ấy”.

Đối với chúng sanh cõi bốn uẩn (cõi Vô sắc), chỉ có danh Mạng quyền đồng sanh với tâm Tục sinh.

Đối với chúng sanh cõi Vô tưởng, chỉ có sắc Mạng quyền làm việc tục sinh.

Như vậy sự chết xem như là sự chấm dứt “hoặc danh Mạng quyền, hoặc sắc Mạng quyền hoặc cả hai loại Mạng quyền”.

Nếu tâm sở Tư định đoạt các nghiệp thì tâm sở Mạng quyền lại nuôi sống cho tâm sở Tư cùng các tâm sở khác. Ví như nước nuôi dưỡng hoa sen không bị mau héo tàn, hay ví như người nhủ mẫu nuôi dưỡng hài tử được tăng trưởng tốt đẹp, cũng vậy Mạng quyền nuôi dưỡng danh - sắc được tồn tại đúng với tuổi thọ của danh hay sắc pháp.

Tuy gọi là “có quyền”, nhưng mạng quyền chỉ thể hiện được sự cai quản trong lãnh vực “duy trì sự sống” mà thôi. Ví như trưởng phòng kế toán chỉ có quyền đối với nhân viên trong lãnh vực kế toán, ngoài ra anh không có quyền trong những lãnh vực khác.

Do đó, các danh - sắc pháp (ngoại trừ danh - sắc mạng quyền) phải nương vào Mạng quyền để tồn tại, ngược lại chính Mạng quyền cũng phải nương vào danh - sắc để trú vững. Như người lái xe phải nương vào chiếc xe để vượt đường xa, ngược lại chiếc xe cũng phải tùy thuộc vào người lái xe.

Lại nữa, tùy theo cõi mà tuổi thọ của hai loại Mạng quyền khác nhau, như cõi bàng sanh tuổi thọ của chúng ngắn hơn cõi người, cõi người ngắn hơn cõi chư thiên… danh mạng quyền cõi Không vô biên xứ ngắn hơn cõi Thức Vô biên xứ …. (đây là nói đến trường hợp phổ thông, không đề cập đến những trường hợp đặc biệt như yểu tử hay do bị nghiệp đoạn tận).

Hoặc tùy theo cách sanh ra, Mạng quyền có sự khác biệt nhau, như thai sanh, thấp sanh thì Mạng quyền có tuổi thọ ngắn hơn hóa sanh. Như danh- sắc Mạng quyền của nhân loại ngắn hơn danh - sắc Mạng quyền của chúng sanh là Ngạ quỷ (peta) hay chư Thiên (deva).



38- HỎI: Hãy trình bày tứ ý nghĩa của tâm sở Mạng quyền.

Đáp:

Tứ ý nghĩa của tâm sở Mạng quyền là:



  • Trạng thái: Trông nom, bảo trì các pháp đồng sanh (sahajānaṃ anupalanalakkhaṇa).

  • Phận sự: Làm cho các pháp đồng sanh tồn tại đủ tuổi thọ (3 sátna tiểu) (sahajānaṃ pavattanarasaṃ).

  • Thành tựu: Pháp đồng sanh tương ưng (với tâm sở mạng quyền) tồn tại đủ tuổi thọ (sahajanaṃ thapaṇapaccupaṭṭthāna).

  • Nhân cần thiết: Có pháp đồng sanh đáng gìn giữ (yāpetabbapadaṭṭhānaṃ).
    Hay: Phải có ba uẩn ngoài ra (sesakhandhattayapadaṭṭhānaṃ).

Giải thích:

Trạng thái: Tâm sở Mạng quyền ví như nước nuôi dưỡng hoa sen được xinh tốt, không bị mau héo úa. Hay ví như người nhủ mẫu bảo dưỡng hài nhi, nhằm mang đến sự an lành cho đứa bé.

Nhưng nước chỉ có công dụng đối với những cánh hoa sen còn xinh tốt, không thể có công dụng đối với những hoa sen đã héo tàn, người bảo mẫu chỉ có thể chăm sóc gìn giữ hài nhi còn sống, chứ không thể bảo trì đứa bé đã chết phi thời (akālamaraṇa).

Cũng vậy, tâm sở Mạng quyền chỉ có vai trò trợ giúp các pháp tương ưng đang hiện hữu, đang ở giai đoạn tăng trưởng, chứ không thể trợ giúp những pháp tương ưng đã diệt hoặc “đang lão hóa” trở lại như cũ được. Trong giai đoạn lão hóa của các pháp đồng sanh, tâm sở Mạng quyền chỉ gìn giữ mạng sống của các pháp ấy cho đúng thời mà thôi, ví như vị lương y cố gắng duy trì mạng sống cho bịnh nhân, nhưng không chữa trị cho bịnh nhân hồi phục như cũ được.

Mặt khác hoa sen tuy sanh trong nước nhưng không sanh từ nước, nước không có khả năng tạo ra hoa sen, nước chỉ có khả năng giúp cho hoa sen xinh tốt mà thôi. Tương tự, đứa bé không phải do bảo mẫu sanh ra, người bảo mẫu chỉ có khả năng giúp đứa bé được an lạc, khỏe mạnh.

Tóm lại, nước đối với hoa sen, hay người bảo mẫu đối với hài tử chỉ có vai trò trợ giúp tăng trưởng. Cũng vậy, tâm sở Mạng quyền chỉ có vai trò trợ giúp các pháp đồng sanh được tăng trưởng và tồn tại đủ tuổi thọ.

Tâm và các tâm sở không phải sanh từ tâm sở Mạng quyền, các pháp này sanh từ nghiệp - cảnh - vật. Khi ba pháp này hoại thì chúng cũng hoại, đó là lẽ thường tình.

Mặt khác tâm và tâm sở là pháp hữu vi, chắn chắn chúng phải đi đến hoại vong, đó là định luật. Điều này nói lên “danh - sắc mạng quyền không phải là tác nhân tạo ra sự hoại diệt của danh - sắc”, tức là sự hoại diệt của danh - sắc không liên quan gì đến danh - sắc Mạng quyền.

Và sự trông nom, gìn giữ các danh pháp đồng sanh, đây là trạng thái của tâm sở Mạng quyền.



Phận sự: Tâm sở Mạng quyền duy trì đời sống các danh pháp đồng sanh với nó tròn đủ tuổi thọ là 3 sátna tiểu, khi các danh pháp đồng sanh với tâm sở Mạng quyền diệt thì chính tâm sở Mạng quyền cũng diệt, vì nó chỉ có nhiệm vụ bảo trì những pháp đồng sanh với nó mà thôi. Ví như số nước nuôi dưỡng trong hoa sen, khi nước hết thì hoa sen tàn, đồng thời khi hoa sen tàn thì số nước ấy cũng hết.

Khi tâm và tâm sở diệt, một tâm cùng tâm sở khác sanh lên, thế là danh Mạng quyền mới lại sanh lên để bảo trì danh pháp mới, sự kiện này liên tục tiếp diễn suốt thời gian tuổi thọ của chúng sanh ấy.

Tương tự như vậy đối với sắc pháp, nên cơ thể chúng sanh còn sống đặc biệt hơn cơ thể chúng sanh đã chết, sự đặc biệt này có được là do có sắc Mạng quyền.

Tức là danh Mạng quyền bảo tồn tâm - tâm sở, còn sắc Mạng quyền bảo tồn sắc nghiệp.

Có câu hỏi rằng: “tâm sở Mạng quyền bảo trì danh pháp đồng sanh tồn tại ba sátna tiểu, vậy pháp nào bảo trì tâm sở Mạng quyền tồn tại ba sátna tiểu?”

Đáp: Chính tâm sở Mạng quyền tự bảo tồn mình tròn đủ ba sátna tiểu, ví như chiếc thuyền đưa hành khách sang bên kia sông, khi hành khách đến bờ bên kia thì chiếc thuyền cũng đến bờ kia. Chiếc thuyền bảo vệ hành khách an toàn khi sang sông thì chính nó cũng phải được an toàn, chiếc thuyền chìm thì tất cả hành khách đều rơi xuống nước. Chiếc thuyền ví như tâm sở Mạng quyền, hành khách sang sông ví như danh pháp đồng sanh với nó, bờ kia sông ví như sátna Diệt, bờ này ví như sátna Sinh.

Tâm sở Mạng quyền bảo vệ các pháp đồng sanh cũng tự bảo vệ chính mình như thế ấy. Đây là phận sự của tâm sở Mạng quyền.

Thành tựu: Khi hành giả quán xét thấy : “danh pháp này diệt đi, một danh pháp khác sanh lên không gián đoạn” giống như nước dòng sông trôi qua một điểm không hề gián đoạn, hành giả hiểu biết rằng: “Có một đời sống danh pháp đã diệt”, sự tồn tại của đời sống danh pháp có trước đó, là d0 danh Mạng quyền bảo trì.

Thật ra, sự sanh diệt của danh pháp cực nhanh hầu như chỉ thấy được 2 sátna Sanh hay sátna Diệt mà thôi, chỉ với Toàn giác trí mới thấy rõ ba sátna sanh- trụ- diệt, đồng thời thấy rõ sự thành tựu của Mạng quyền. Tức là danh pháp chỉ tồn tại trong khoảnh khắc, khoảnh khắc ấy gọi là ṭhītikhaṇa (sátna Trụ), đó là do công năng bảo tồn của tâm sở Mạng quyền. Đây là sự thành tựu của tâm sở Mạng quyền.



Nhân cần thiết của tâm sở Mạng quyền chính là các pháp đồng sanh với nó.

Công năng của tâm sở Mạng quyền là gìn giử các pháp đồng sanh cho được tồn tại, nếu không có pháp đồng sanh đáng gìn giử thì tâm sở Mạng quyền không thể có mặt. Ví như không có hài tử để gìn giử thì không có bảo mẫu.



39- HỎI: Thế nào là tâm sở Tác ý (manasikāracetasika)?

ĐÁP:

Phân tích từ manasikāra được là: manasi + kāra.

Manasi là nơi tâm, nơi ý.

Kāra là làm, tạo tác. Có giải tự như sau:

“Kiriya = kāro : Sự làm ra, gọi là tác.

Theo nghĩa từng từ thì manasikāra là “việc làm của ý” dịch là tác ý. Nghĩa là hướng tâm (chú ý) đến đối tượng, cũng giống như bánh lái đưa con thuyền đến mục tiêu. Tâm không có Tác ý ví như con thuyền không có bánh lái, con thuyền sẽ mãi lênh đênh trên mặt nước, không thể định hướng đâu là bến đâu là bờ.

Có hai loại định hướng: định hướng đúng và định hướng sai.

Định hướng đúng được gọi là yoni so manasikāra (như lý tác ý), định hướng sai là ayoni so manasikāra (phi như lý tác ý).

Đức Phật có dạy: “Này các tỷ kheo, vị tỷ kheo với tâm bị đặt sai hướng, có thể đâm thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Níp bàn, sự tình này không xảy ra. Vì cớ sao? Này các tỷ kheo, vì tâm bị đặt sai hướng….

Này các tỷ kheo, vị tỷ kheo với tâm được đặt đúng hướng, có thể đâm thủng vô minh tâm đặt đúng hướng có thể xuyên thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Níp bàn, sự tình này có xảy ra. Vì cớ sao? Này các tỷ kheo, vì tâm được đặt đúng hướng“.1

Bài kinh trên cho thấy: chính tâm sở Tác ý đã hướng tâm, nếu tâm đặt đúng hướng thì mang đến nhiều lợi ích.



Như lý tác ý là gì ?

Theo nguyên nghĩa: Yoni là trung tâm, Tập Sớ giải thích là “nguyên nhân”, là “duyên – điều liện tạo ra”. So là đúng đắn, hiệp theo phương pháp. Yoni so là đúng theo phương pháp, “chú ý đúng theo phương pháp” là chú ý vào nguyên nhân, vào duyên, vào nhân quả. Một đôi khi “như lý tác ý” được dùng như nghĩa “trí tuệ”.

Vậy, như lý tác ý là hướng tâm về nhân duyên của các pháp, chú ý đến thực tính pháp.

Chính như lý tác ý này rất quan trọng, tất cả thịện pháp đều nương sanh từ đó, đồng thời cũng từ như lý tác ý mà tăng trưởng.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các tỷ kheo, do pháp ấy các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận, này các tỷ kheo như “như lý tác ý”2

Và:


Do như lý tác ý, này các tỷ kheo, các giác chi chưa sanh được sanh khởi và các giác chi đã sanh đi đến tu tập viên mãn.”3

Phi như lý tác ý là gì ? Là không lưu ý đến những gì liên quan đến nhân- duyên, nghiệp quả hay không chú ý đến những thực tính pháp.

Chính tâm sở Tác ý này là thành phần quan trọng, nó khiến cho tâm rơi vào ảnh hưởng của ác- bất thiện pháp bằng phi như lý tác ý hay khiến cho tâm làm bạn với thiện pháp bằng như lý tác ý.

Ta không thấy một pháp nào khác, này các tỷ kheo, do pháp ấy các pháp bất thiện chưa sanh được sanh khởi và các pháp thiện đã sanh được đoạn tận, này các tỷ kheo như “phi như lý tác ý” (sđd).

Một ý nghĩa khác của tâm sở Tác ý là: “làm thành cảnh cho tâm”. Có ba loại tác ý là:



  • Tác ý làm thành cảnh (ārammaṇa) cho tâm, đây là việc làm của tâm sở Tác ý.

  • Tác ý làm thành lộ tâm (cittavīthi), đây là việc làm của tâm Hướng ngũ môn (xem Tâm vấn đáp).

  • Tác ý làm thành đổng lực (javana), đây là việc làm của tâm Hướng ý môn.

Pāli có giải về “ tác ý làm thành cảnh cho tâm” như sau:

Ārammaṇa manasipaṭpādāyatīti = ārammaṇapaṭipādako.



Làm thành cảnh cho tâm, gọi là tác ý thành cảnh”. Tức là tâm sở Tác ý.

Như vậy, tâm sở Tác ý có hai tính chất: chú ý đến cảnh và tạo thành cảnh cho tâm.

Lẽ thường, cảnh là một nhu cầu không thể thiếu của tâm pháp, không có cảnh thì tâm không thể sanh khởi, tâm không sanh khởi thì các pháp nương sanh tâm cũng không hình thành. Có hai loại cảnh là: cảnh bên ngoài (cảnh ngoại phần) và cảnh bên trong (cảnh nội phần).

- Cảnh bên ngoài khi xâm nhập vào các sắc thần kinh, làm rúng động dòng tâm hữu phần (bhavaṅga cita), tâm sở Tác ý sanh khởi hướng tâm đến một điểm nào đó trong cảnh, giúp cho tâm nhận biết cảnh, ví như khi đứng trước một bức họa, người họa sĩ chỉ chú ý đến những nét độc đáo, hoặc chỉ chú ý đến màu sắc mà thôi, ngoài ra không lưu ý những gì ngoài ra đó. Điều này rất rõ đối với hành giả tu tập đề mục hơi thở, tâm sở Tác ý hướng tâm chú ý nơi hơi thở xúc chạm với thân là mũi hoặc môi trên, ngoài ra không lưu ý đến những điểm khác.

Sự hướng tâm của tâm sở Tác ý có ý nghĩa đặc biệt như thế, khác với sự hướng đến cảnh của tâm Hướng ngũ môn, tâm Hướng ngũ môn hướng các pháp đồng sanh đến cảnh có tính “rộng” như một người đứng trong nhà đưa mắt nhìn ra ngoài xem “cái gì” vừa xuất hiện.

- Đối với cảnh bên trong (nội phần), tâm sở Tác ý cũng hướng tâm chú ý vào một điểm của cảnh, để tâm nhận biết cảnh.

Gọi làm thành cảnh cho tâm”, là tâm sở Tác ý làm nổi bật những nét đặc biệt của cảnh để tâm biết cảnh mau chóng.

Đức Phật có dạy:1

Tất cả các pháp lấy Tác ý làm sanh khởi”. Là nói đến ý nghĩa “làm thành cảnh cho tâm” của tâm sở Tác ý.



tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương