TÂm sở VẤN ĐÁp tỳ khưu Chánh Minh LỜi nóI ĐẦU “Ý dẫn đầu các pháp”



tải về 0.61 Mb.
trang3/9
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.61 Mb.
#30346
1   2   3   4   5   6   7   8   9

-Thành tựu : khi thân an lạc, tâm vui thích đó là quả thành tựu (phala paccupaṭṭhāna) của thọ lạc.

Có những trường hợp thân tuy chạm cảnh xúc tốt đẹp, thích hợp nhưng tâm không có sự vui thích như mùa đông mặc áo bông ấm áp nhưng tâm lại sầu muộn. Đó không phải là sự thành tựu của thọ lạc, không phải là quả của thọ lạc.

Bao giờ tâm vui thích hân hoan, thân an lạc đó mới là sự thành tựu của thọ lạc. Vị hành giả hoặc bậc có trí khi quán thọ lạc (sukha vedanā vipassanā) cần hiểu rằng: “đang cảm nhận sự an lạc thân, tâm có sự hân hoan vui thích” đó mới chính là thành tựu thọ lạc.

Tuy thọ lạc được lộ rõ trong Thân thức (kāyaviññāṇa), Thân thức chỉ có một sát na, chính sự thành tựu này đã duy trì an lạc thân tâm suốt một hay nhiều lộ trình tâm.

Nên hiểu, Thân thức chỉ lảnh nạp cảnh xúc là nói phần chánh yếu, các tâm khác cũng vẫn biết cảnh xúc (ngoại trừ bốn đôi thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt thức), như thế đối với cảnh xúc tốt đáng ưu thích chẳng phải chỉ có thọ lạc hưởng mà các tâm khác cũng hưởng cảnh ấy (vì thọ là sự hưởng cảnh) (xem Quy trình tâm pháp).

Chính sự thành tựu của thọ lạc được hiện rõ trong tâm lộ, được gọi là “thành tựu do sự trợ giúp” (upatthānākāra paccuṭṭhānaṃ ), tức là thọ lạc trong Thân thức trợ giúp cho những tâm sanh sau cũng có được sự thụ hưởng cảnh như thọ lạc trong Thân thức. .



Nhân cần thiết của thọ lạc chính là thần kinh Thân (kāyapasāda). Nghĩa là qua Thân môn (kāyadvāra) thân lạc mới khởi lên. Người có thần kinh thân bị hoại hay tê liệt, cảnh xúc có chạm vào cũng không hề có cảm giác, nên thì thân lạc hay thân khổ đều không có.

Và thọ lạc ở đây chỉ cho thân lạc, còn loại lạc của thiền định thuộc về tâm lạc. Đức Phật dạy:

Yaṃ kho Ānanda me pañca kāmaguṇe paṭicca upajjati sukhaṃ somanassaṃ idaṃ vuccati kāmasukhaṃ.

- Này Ānanda! Do duyên năm dục tăng trưởng khởi lên lạc, hỷ này, như vậy gọi là dục lạc”.1

Như vậy, hỷ chỉ cho tâm, lạc chỉ cho thân.

Còn lạc của thiền không có liên hệ đến dục tăng trưởng (sắc, thinh, khí, vị, xúc) thuộc về tâm lạc, loại lạc này không phổ thông đến chúng sanh.

17- HỎI: Trình bày bốn ý nghĩa của thọ khổ?

Đáp:

Tâm sở thọ khổ (dukkhavedanā) có bốn ý nghĩa là:

- Trạng thái: Lãnh nhận cảnh xúc xấu, không thích hợp.

(Aniṭṭhaphotthabbanubhavana lakkhanaṃ).

- Phận sự: Làm các pháp tương ưng héo xào. (Sampayuttanam. nilāpanarasaṃ).

- Thành tựu: Có sự đau đớn nơi thân. (Kāyikābādha paccupatthānaṃ).

- Nhân cần thiết: Có Thân quyền (thần kinh Thân). (Kāyindriya padatthānaṃ).

Giải thích:

Tương phản với thọ lạc là thọ khổ, sự kiện này có được là do cảnh xúc.

Khi thần kinh thân nhận cảnh xúc xấu, không thích hợp thì phát sanh thọ khổ ở thân. Đây là trạng thái của khổ thọ.

Khổ thọ có hai phận sự là:



Phận sự việc làm (kārarasa): Khổ thọ làm cho thân đau đớn.

Phận sự làm cho thành tựu (sampattirasa): Khổ thọ khiến cho các danh pháp đồng sanh với nó héo xào như cây non gặp phải lửa.

Mặc khác, cũng chính phận sự làm cho thành tựu này, khiến các danh pháp tương ưng ấy tăng trưởng kéo dài sự héo xào.

Như vậy: Thân hiện bày sự đau đớn là thành quả của phận sự do việc làm, còn kéo dài sự đau đớn của thân là thành quả của phận sự làm cho thành tựu.

Như người bị đánh đau, cái đau này kéo dài vài ngày chẳng hạn.

Cũng như lạc thọ, khổ thọ có nhân cần thiết là thần kinh thân.

18- HỎI: Tứ ý nghĩa của Hỷ thọ ra sao?

ĐÁP:

Tâm sở Hỷ thọ có bốn ý nghĩa là:



  • Trạng thái: Có cảm giác vui thích khi nhận hưởng cảnh mong muốn.

  • (Ittthārammaṇānubhavana lakkhanaṃ).

  • Phận sự: Hưởng cảnh đáng mong mỏi, vừa lòng. (Itthākārasambhoga rasaṃ).

  • Thành tựu: Tâm vui thích. (Cetasika assādapaccupaṭṭhānaṃ).

  • Nhân cần thiết: Thân tâm yên tịnh. (Passandhi padaṭṭhānaṃ).

Giải thích:

- “Cảnh đáng mong muốn” tức là cảnh tốt đẹp đáng hài lòng. Cảnh này có hai loại:

a. Cảnh tốt đẹp theo đúng thực tính (sabhāva) có tính phổ thông, như màu sắc rực rỡ, phong cảnh hữu tình, tiếng hát du dương, mùi hương êm dịu... người có sắc thân xinh đẹp... gọi là “cảnh có thực tướng tốt” (sabhāva itthārammaṇa).

b. Cảnh tốt đẹp đáng hài lòng nhưng không phổ thông, chỉ có riêng đối với một số chúng sanh. Như người con là cảnh đáng hài lòng của cha mẹ, dù y có sắc diện xấu xí, hoặc một số người thích chơi súng, đá gà, chơi pháo, thích uống rượu... những cảnh này không tốt đẹp theo thực tính nhưng lại tốt riêng những người ấy.

Hoặc những cảnh chỉ thích hợp cho một số người hay một số chúng sanh loài vật như: loài chó thích phẩn, kên kên thích xác chết ... “cảnh tốt đẹp này”có tính riêng biệt không phổ thông, được gọi là parikappa itthārammaṇa (cảnh tốt do cố ý).

- “Tâm vui thích” có hai loại:

a. Vui thích tự nhiên: là khi gặp cảnh tươi đẹp thì tự nhiên sanh khởi sự vui thích, như người đi đường xa mệt mỏi, tắm rửa sạch sẽ xong có tâm vui tươi hớn hở.

b. Vui thích cố ý: Như mong mỏi gặp người thân, hoặc những vật dụng đang mong cầu, khi gặp được những đối tượng mong, cầu tâm vui thích...

Khi nhận cảnh xinh đẹp, thích hợp đáng hài lòng tâm có trạng thái phấn chấn vui thích, đó là trạng thái của thọ hỷ.

- Phận sự của thọ hỷ là thọ dụng cảnh đáng hài lòng ấy.

Khi trạng thái vui thích nơi tâm được hiển lộ như nét mặt tươi vui, tiếng cười rộn rã... là sự thành tựu của thọ hỷ.

Thân yên lặng là chỉ cho cơ thể không bị bịnh hoạn, tâm yên lặng là tâm có sự thoải mái, không bị dao động từ một pháp tổn giảm (byasaṇa) nào như:


  • Không gặp suy sụp về tài sản (bhogabyasanaṃ).

  • Không gặp tổn giảm về thân tộc (ñātibyasanaṃ).

  • Không bị bất hạnh về bịnh hoạn (rogabyasanam).

  • Không có hư hoại về giới (sīlabyasanaṃ).

  • không có sự hư hoại về tri kiến (diṭṭhabyasana).

Hoặc là tâm được yên lặng do không bị phiền não dấy loạn.

Thân - tâm an lạc là nhân cần thiết để sanh khởi thọ hỷ.



19- HỎI: Tứ ý nghĩa của Ưu thọ (domanassa) ra sao?

ĐÁP:

Bốn ý nghĩa của Ưu thọ là:



  • Trạng thái: Hưởng nhận cảnh không đáng ưa thích. (Aniṭṭhārammaṇānubhavanalakkhanaṃ).

  • Phận sự: Hưởng nhận cảnh không đáng hài lòng. (Aniṭṭhākārāsambhogarasaṃ).

  • Thành tựu: Có sự khổ tâm. (Cetasikābādhapaccupaṭṭhānaṃ).

  • Nhân cần thiết: Có sắc Ý vật (hadayavatthu). (Hadayavatthu padaṭṭhānaṃ).

Giải thích:

Cảnh không đáng ưa thích có hai loại:

a. Cảnh xấu theo thực tướng (aniṭṭhārammaṇa sabhāva), là cảnh xấu phổ thông như người có ngoại hình xấu xí, âm thanh khó nghe, mùi hôi thối bốc ra từ thân ...

b. Cảnh không thích hợp riêng (parikappa aniṭṭhārammaṇa).

Tuy là cảnh tốt đẹp nhưng không thích hợp đối với một số người, như hương thơm một số loài hoa không thích hợp cho một số người, họ ngửi mùi hoa này cảm thấy nhức đầu khó chịu. Người vợ thành đạt cao cũng là chỗ không hài lòng cho một số ông chồng, một số người có dị ứng với màu sắc ....

Khi nhận những cảnh không ưa thích hoặc xấu như thấy cảnh tai nạn xe, cảnh chém giết... Đó là trạng thái của thọ ưu.


  • Phận sự của thọ ưu là tiếp nhận những cảnh không đáng hài lòng ấy.

  • Hành giả đã quan sát thấy được đặc tánh của thọ ưu một cách rõ ràng với trí tuệ rằng: “thọ ưu này có sự khổ tâm, sự bất an”. “Sự khổ tâm, sự bất an” đó là thành tựu của thọ ưu.

Khác với nhân cần thiết của thọ hỷ là: nương theo danh pháp để sanh lên. Thọ ưu có nhân cần thiết là sắc ý vật (hadayavatthu).

Vì sao có sự khác biệt này?

Vì rằng: thọ ưu có tự tánh không tốt đẹp, nên chúng sanh luôn có khuynh hướng “không muốn có điều không tốt đẹp”, đồng thời tiềm ẩn “mong cầu” những điều tốt đẹp.

Thọ hỷ vì phù hợp với “mong cầu” của ý thức nên nhân cần thiết là danh pháp, ngược lại thọ ưu là điều trái với “mong cầu” do vậy nhân cần thiết phải trái với danh pháp (thọ ưu là danh pháp) tức là sắc pháp vậy.

Nhưng đó là loại sắc nào? Thọ ưu thuộc về ý thức, nên nó phải sanh - trụ - diệt tại sắc Ý vật, thế đã rõ “sắc ý vật là nhân cần thiết cho thọ ưu”.

Các Ngài đưa ra hình ảnh: thân có đau đớn là do dùng đến những vật ngoài thân va chạm vào như thuốc độc, vũ khí... Nếu không dùng những vật ngoài thân thì sự đau khổ không thể có.

Cũng vậy, tâm khổ là do đối tượng nghịch ý với tâm như: kẻ thù, điều mà tâm cho là phi đạo đức... những điều này phải do từ ngoài vào, thọ ưu là danh pháp do đó “kẻ ở ngoài vào” chính là sắc pháp, là nhân cần thiết của thọ ưu, và sắc ý vật là phù hợp nhất.



20 - Hỏi: Hãy trình bày bốn ý nghĩa của thọ xả (upekkhā vedanā)?

Đáp:

Thọ xả có bốn ý nghĩa là:



  • Trạng thái: Cảm nhận thản nhiên khi tiếp (nhậ) cảnh. (majjhatta vedayita lakkhaṇā).

  • Phận sự: Điều hòa các pháp tương ưng không cho trồi sụt. (sampayuttānaṃ nāti upabrūhananilāpanarasa).

  • Thành tựu: Sự yên lặng (vắng lặng). (santabhāvana paccupaṭṭhānā).

  • Nhân cận: Lìa bỏ pháp hỷ (pīti). (nippītikappadaṭṭhānā).

Giải thích:

a. Majjhatta ở đây có nghĩa là quân bình, hay là sự thản nhiên.

Upekkhā (xả) là do upa + kkhati.

Upa = ajulito là vô tư.

Ikkhati từ ngữ căn Ikkha là thấy.

A gặp I thành E.

Upa + ikkha = upekkhā (xả), nghĩa là vô tư khi thấy (đối tượng), giống như người thản nhiên khi thấy một người chưa hề quen biết.

Khi cảnh du nhập vào dòng tâm thức, dù là cảnh tốt, cảnh xấu hay cảnh bình thường, tâm vẫn thản nhiên. Đây là trạng thái của thọ xả.

Không nên hiểu của majjhatta là cảnh trung bình (không tốt không xấu). Vì rằng: cho dù cảnh cực tốt hay cảnh cực xấu chăng nữa, những tâm như Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức vẫn có trạng thái thản nhiên khi tiếp nhận cảnh đó là trạng thái của thọ xả.

Sở dĩ, bốn đôi thức đối với cảnh dù là cực tốt hay cực xấu vẫn có trạng thái thản nhiên vì:



  • Cảnh của bốn đôi thức ấy là sắc y sinh, một loại sắc pháp là tinh chất (pasāda) của tứ đại, nên có tính “nhẹ nhàng”.

  • Chỉ thoáng qua (một sátna) rồi mất. Ví như bông gòn có màu đen hay có màu trắng vừa chạm nhẹ lại mất đi, không lưu lại dấu ấn mạnh, nên tâm có trạng thái thản nhiên.

  • Phận sự của thọ xả làm quân bình tâm, tức là làm cho các pháp đồng sanh với nó giữ được tính chất không vui cũng không buồn khi nhận cảnh.

  • Thành tựu: Khi các pháp an trú trong sự quân bình, tức là khi tâm và cảnh cùng yên lặng. Ví như trứng gà nổi trên mặt nước được đứng yên, không chao động nghiêng về bên này hay bên kia. Và khi ấy, mặt nước cũng yên lặng, mặt nước ví như cảnh, trứng gà đứng yên ví như các pháp đồng sanh thọ xả, sự yên lặng ví như thọ xả hiển lộ.

Bậc trí quán sát thấy được tâm và cảnh có sự yên lặng, hiểu rằng: “đây là sự thành tựu của thọ xả”.

- Nhân cần thiết: Thọ xả sanh khởi được phải có sự xa lìa pháp hỷ, pháp hỷ ở đây là tâm sở Hỷ (pīti cetasika), không phải là thọ hỷ (somanassavedanā).

Vì Hỷ tâm sở có tính chất làm cho tâm bừng phất lên, đồng thời nới rộng tâm (tâm rộng mở), điều này rõ ràng là: khi người đang vui vẻ, dễ dàng chấp thuận những gì người khác xin. Còn trạng thái vô tư là “không bác bỏ cũng không chấp thuận”, đó chính là lúc không có pháp hỷ hiện diện.

Do đó, nhân cần thiết trợ sanh cho thọ xả là phải “lìa bỏ sự vui thích”.

Nhưng vì sao chỉ có “lìa bỏ sự vui thích” không có “lìa bỏ sự khó chịu”?

Có hai sự khó chịu: “sự khó chịu” ám chỉ cho thọ khổ (hay ưu thọ) và khi nói đến thọ xả, thì đã ám chỉ lìa bỏ cả lạc và khổ rồi. Như Đức Phật dạy:

Yasmiṃ aggivessana samaye adukkhamasukhaṃ vedanaṃ vedati, ṅeva tasmiṃ samaye sukhaṃ vedanaṃ vedati na dukkhaṃ vedanaṃ vedati...

- Này Agginessana! Khi hứng nhận thọ không lạc không khổ (thọ xả), chính khi ấy không hứng nhận lạc thọ, không hứng nhận khổ thọ...”1

Còn “sự khó chịu” ám chỉ cho tâm sở Sân (dosacetasika), thì: sân thuộc lãnh vực bất thiện, còn tâm sở Hỷ và tâm sở Thọ thuộc lãnh vực Tợ tha. Tâm sở Tợ tha chúng hợp với mọi tâm, trong khi tâm sở bất thiện chỉ hợp trong tâm bất thiện, không thể nhầm lẫn giữa hai nhóm khác tính chất được

Ta có thể hiểu như vầy:

- Khi không có thọ hỷ (thích thú) thì có thể là thọ xả (thản nhiên), có thể là thọ ưu (khó chịu). Chỉ có một loại thọ có mặt trong một thời điểm mà thôi.

Và nếu ba trạng thái ấy ( thích thú - thản nhỉên – khó chịu) chỉ cho tâm sở Thọ thì thọ ưu hay thọ hỷ có nhân cần thiết như đã lý giải.

Còn “khó chịu” chỉ cho Sân tâm sở thì khi có Sân tâm sở, chẳng những không có Hỷ tâm sở, luôn cả hai thọ: xả - hỷ cũng vắng mặt, vì tâm sở Sân chỉ phối hợp với thọ Ưu mà thôi, và đã ngầm bảo “không có thọ xả ở đây”. Đã không có thọ xả ở đây thì bàn đến nhân sanh thọ xả để làm gì?

Khi đề cập đến nhân cần thiết là nói đến lãnh vực riêng. Ví như một cuộc hội hợp các thành viên trong nhóm, người ta chỉ đề cập “vì sao thành viên này vắng mặt?”. Sự hiện diện hay vắng mặt của người không thuộc nhóm, không cần phải bàn đến. Tâm sở Sân thuộc lãnh vực bất thiện, trái lại tâm sở Hỷ thuộc lãnh vực Tợ tha, tâm sở Thọ xả cũng thuộc thành phần Tợ tha. Do đó, nhân cần thiết của xả thọ, chỉ cần không có Hỷ tâm sở là đủ.

21- Hỏi: Do nhân nào hỷ thọ được gom vào (saṅgaha) lạc thọ? Ưu thọ được gom vào khổ thọ? Hãy giải thích.

Đáp:

Giữa hỷ thọ và lạc thọ có sự tương đồng là: “sảng khoái, dễ chịu”, đồng thời có mối tương quan khắng khít. Thông thường khi hỷ thọ tăng trưởng sung mãn trở thành lạc thọ của tâm. Lạc thọ của tâm sung mãn dẫn đến thân an lạc, đây là sự thành tựu duy trì (upatthānākāra paccupaṭṭhāna) của lạc tâm. Do đó thọ hỷ được gom vào thọ lạc.

Nhưng cũng có trường hợp lạc thân dẫn đến tâm hỷ thọ, như trường hợp người mang vật nặng đi đường xa, thân quá mỏi mệt, y đặt vật nặng xuống, thân thoải mái nhẹ nhàng, tâm cảm thấy dễ chịu. Nhưng trường hợp này chỉ khởi hiện khi khổ thọ có trước đó, như Ngài Pūtigatta là điển hình cho trường hợp này. Tức là, do thay đổi cảnh xúc xấu thành cảnh xúc tốt nên thân an lạc dẫn đến tâm hoan hỷ.

Lạc thọ phát sanh từ ý xúc thì lạc thọ này thuộc về tâm (tâm lạc), lạc thọ nào phát sanh từ thân xúc, đó là thân lạc.

Như trường hợp người hoàn tất công việc cần phải làm, tâm y hân hoan sảng khoái, nhưng thân của y có thể mệt mỏi (là tâm lạc thân không lạc).

Cũng có khi Thân xúc (kāyaphassa) sanh khởi trạng thái dễ chịu, nhưng tâm lại “buồn rười rượi”, đây là thân lạc tâm không lạc. Cũng có trường hợp lạc thọ hiện khởi cả thân lẫn tâm, như người vừa tắm mát, thân an lạc, tâm sảng khoái dễ chịu, đây là thân tâm lạc.

Nói gọn lạc thọ là chỉ cho thân lẫn tâm còn hỷ thọ chỉ cho tâm.

Tương tự như thế đối với ưu thọ và khổ thọ, cả hai có sự tương đồng là “khó chịu, đau đớn”, đồng thời tương quan mật thiết nhau, khi ưu thọ phát triển sung mãn trở thành khổ tâm, như người gặp nhiều chuyện buồn phiền, tâm lúc nào cũng ưu sầu dả dượi.

Khi khổ tâm phát triển sung mãn trở thành khổ thân, như người quá lo âu, sầu muộn thân trở nên xanh xao, vàng vọt hoặc bệnh hoạn...

Như vậy, khổ thọ là nói đến thân lẫn tâm. Còn ưu thọ chỉ có trong lãnh vực tâm. Như có người thân vẫn khỏe mạnh an lạc, nhưng tâm trạng lại buồn chán.

Ưu thọ sanh khởi từ ý xúc, còn khổ thọ có hai loại xúc trợ duyên là: thân xúc và ý xúc.

Trường hợp Đức vua Munda sầu muộn vì cái chết của Hoàng Hậu Bhaddā1 là điển hình cho khổ tâm mà không khổ thân.

Có trường hợp khổ thân mà không khổ tâm, như Đức Phật bị Đề bà đạt đa (Devadatta) lăn đá ám hại Ngài, một mảnh đá trúng chân gây khổ thọ ở thân, nhưng tâm Ngài không ưu não. Hoặc giả người con phạm lỗi, y bị cha mẹ đánh mắng, tuy thân bị đau đớn nhưng tâm y lại cảm thấy nhẹ nhõm...

Có trường hợp có cả khổ thân lẫn khổ tâm, như Trưởng lão Godhika bị bịnh hoạn, không thể kham nhẫn nên tự sát1.

Thông thường thì khổ thân là quả của khổ tâm, ngoại trừ những trường hợp cá biệt.

Mặc khác, khổ thân hay lạc thân là do nhận cảnh xúc tốt hoặc xấu còn khổ tâm hay lạc tâm thì nhận tất cả cảnh.



22- Hỏi: Tương quan của năm thọ ra sao?

Đáp:

Trước tiên nói về ba thọ: hỷ, ưu, xả.

Trong ba loại tâm thọ này, hỷ hay ưu dễ nhận diện hơn xả thọ.

Các vị Giáo Thọ Sư có ví dụ như sau:

Người thợ săn theo dấu chân con nai, đến một tảng đá lớn thì mất dấu chân nai, y nhìn sang bên kia lại thấy dấu chân nai xuất hiện, y hiểu rằng: “con nai đã đi trên tảng đá”.

Thợ săn ví như hành giả quán sát thọ, con nai ví như thọ, dấu chân bên này tảng đá ví như thọ ưu, dấu chân bên kia tảng đá ví như thọ hỷ, dấu chân trên tảng đá ví như thọ xả.

Ví dụ nói lên ý nghĩa: “Hỷ, ưu dễ nhận ra hơn là xả thọ”.

Mặc khác, từ ưu thọ sang hỷ thọ hay từ hỷ thọ sang ưu thọ phải đi qua xả thọ, không thể chuyển từ ưu sang hỷ thọ hay từ hỷ sang ưu thọ ngay được.

Khi hành giả quán xét danh pháp, không cảm nhận được hỷ hay ưu, thì phải hiểu đó là xả thọ, vì xả thọ khó hiển lộ như dấu chân nai trên đá.

Lại nữa, hỷ - xả thọ có sự tương quan qua nhân cần thiết cùng sự thành tựu.

Nhân cần thiết của hỷ thọ là thân tâm yên tịnh, thân tâm yên tịnh lại là sự thành tựu của thọ xả. Nói cách khác, thành tựu của xả thọ là nhân gần của thọ Hỷ, có thể thấy xả thọ là nhân, hỷ thọ là quả.

Xét về phương diện thành tựu của ba thọ thì:

Thọ hỷ có thành tựu là: tâm phơi phới, thọ ưu có thành tựu là: tâm bị co rút (khổ), thành tựu của xả thọ là: vắng lặng (cảnh lẫn tâm). Như vậy xả thọ là trung hòa giữa hỷ - ưu.

Còn khổ thân, lạc thân không có sự trung hòa này, tuy vẫn có đối kháng nhau như hỷ - ưu. Vì sao không có xả thọ để trung hòa lạc - khổ ? Vì cảnh xúc là loại cảnh thô (phassārammaṇa) (đất, lửa , gió) lại tiếp chạm trực tiếp sắc thần kinh Thân, nên thọ khổ hay thọ lạc sanh lên trực tiếp không cần phải qua giai đoạn trung hòa thọ xả như hỷ hay ưu thọ. Thân đang nóng hừng chợt mát ngay khi chạm vào nước, thọ khổ do nóng bức đang có chợt chuyển sang lạc ngay khi thân trầm vào nước không cần qua giai đoạn trung hòa.

Tóm lại: Xét ba thọ: hỷ - ưu - xả thì:


  • Xả thọ là trung hòa giữa hỷ - ưu.

  • Xả thọ có thể xem là nhân của hỷ thọ.

23- Hỏi: Upekkhā có phải là thọ xả không? Có bao nhiêu upekkhā?

Đáp:

Như đã giải tự: Upa + căn ikkha= upekkhā.

Nghĩa là thấy một cách vô tư, thản nhiên trước đối tượng.

Như vậy, từ ngữ upekkhā (xả) không phải chỉ nói riêng về thọ Xả, thọ Xả chỉ là một trong 10 loại xả là:

1. Sáu chi quân bình hay Lục nhập xả (chabaṅgupekkhā), là khi sáu cảnh đối chiếu vào sáu vật (vatthu), tâm vẫn có trạng thái quân bình, không vì cảnh tốt mà tâm đắm nhiễm, cũng không vì cảnh xấu mà tâm khó chịu. Đây là trạng thái tâm của vị A La Hán, do có niệm (ghi nhận) nên tâm quân bình trong các cảnh trần. Chi pháp là tâm sở Hành xả (tattamattatācetasika).

2. Vô lượng xả hay đề mục Xả phạm trú (brahmavihārupekkhā), tức là đề mục thiền Xả vô lượng.

Đối với chúng sanh có hạnh phúc cũng không vui theo, chúng sanh đang đau khổ cũng không buồn hộ, vì nhận rõ lý nhân quả: “chúng sanh do tự tạo nghiệp thiện hay bất thiện, nên an vui hay đau khổ đó là lẽ tất nhiên, không sao tránh khỏi được, không ai có thể chuyển được khổ hay lạc khi chúng đã hình thành ”. Chi pháp là tâm sở Hành xả.

3. Xả giác chi (bojjhaṅgupekkhā) là quân bình các pháp đồng sanh như quyền, lực, giác chi... không để cho một pháp nào thua kém hay lướt trội pháp khác. Chi pháp là tâm sở Hành xả.

4. Cần xả (viriyupekkhā): là cố gắng hành trung đạo, không rơi vào hai trạng thái: khổ hạnh hoặc lợi dưỡng. Hay tinh tấn hành pháp nhưng không quá căng cũng không giãi đãi ví như sợi dây đàn vừa phải, không quá căng cũng không quá dùn. Chi pháp là tâm sở Tinh tấn (viriyacetasika).

5. Hành xả trí (saṅkhāruppekkhāñāṇa): là trí thấy rõ sự sanh diệt của danh sắc vượt ra khỏi mọi quyền lực của bất kỳ ai, không vì thấy pháp an lạc sanh lên mà vui thích, cũng không thấy pháp an lạc ấy diệt đi mà phiền muộn. Hay thấy pháp khổ sanh lên không vì đó mà buồn, thấy nó diệt đi, không vì đó mà hân hoan. Đây là tác dụng trí của những hành giả đang tiến tu tuệ minh sát ở mức độ cao (hành xả trí). Chi pháp là tâm sở Trí (ñāṇacetasika).

6. Thọ xả (vedanupekkhā): là ngoài khổ, lạc, ưu, hỷ thọ. Chi pháp là tâm sở Thọ (vedanācetasika).

7. Quán xả (vipassanupekkhā): là trí tuệ thấy được ba tướng của pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã. Nên tâm vẫn thản nhiên khi thấy chúng sinh diệt, đây là trí tuệ của hành giả tu tập Quán minh ở trình độ cao. Chi pháp là tâm sở Trí (ñāṇacetasika).

8. Trung bình xả (tattaramajjhattupekkhā): là điều hòa các pháp đồng sanh trong tâm ngang bằng, không so le với nhau. Chi pháp là tâm sở Hành xả (tattaramajjhattupekkhā cetasika).

9. Thiền xả (jhānupekkhā): là chi xả của thiền, chi này xuất hiện sau khi hành giả đã loại trừ được chi Lạc trong Tam thiền. Chi thiền xả này chỉ xuất hiện trong tâm Tứ thiền (thiền bốn bậc) hay Ngũ thiền (thiền năm bậc) mà thôi. Chi pháp là tâm sở Hành xả.

10. Tịnh xả (parisuddhupekkhā): là thản nhiên trước những pháp vướng mắc (palibodha), tâm chẳng vướng bận chi cả. Hoặc đã làm cho những chướng ngại (nīvaraṇa) an lặng, không còn khởi lên như hành giả đắc được Sơ thiền chẳng hạn. Chi pháp là tâm sở Hành xả.

Như vậy, xét trong 10 xả thì:



Tâm sở Hành xả có sáu chi là: lục nhập xả, vô lượng xả, xả giác chi, trung bình xả, thiền xả, tịnh xả.

Tâm sở Trí có hai chi: hành xả trí, quán xả.

Tâm sở Tinh tấn có một chi: cần xả.

Tâm sở Thọ có một chi: thọ xả.

24- Hỏi: Thế nào là tâm sở Tưởng (saññā cetasika)?

Đáp:

Pháp nào có trạng thái nhớ lại, biết lại, pháp ấy gọi là tưởng.

Trưởng lão Sārīputta có dạy:

- “Sañjānāti sañjānātī’ti kho āvuso tasmā saññāti saññātī’ti. Này hiền giả! Nhớ biết, nhớ hiểu là tưởng” 1.

Saññā từ ngữ căn saṃ + ñā: là biết.

Ngữ căn saṃ có rất nhiều nghĩa như: mất, suy nghĩ, yên lặng… Như vậy saññā là “biết cái đã mất”, hay saññā là “biết do nghĩ đến” hoặc saññā là “biết do (cái biết hiện tại) không có (yên lặng)”...

Ngoài ra, tùy theo đoạn văn mà saññā có nhiều ý nghĩa khác như māyāsaññā (ảo tưởng), vipallāsa saññā (nghịch tưởng hay điên đảo tưởng)...

Ở đây, Tưởng là sự nhận thức một vật gì đó, do nhớ lại một dấu hiệu đã từng biết như màu xanh, màu vàng, tiếng tru của chó rừng, tiếng hát quen thuộc của ai đó...

Tâm sở Tưởng ví như người giữ kho cho Đức vua, nhận ra thứ tài sản đã được cất giữ trong kho.

Hoặc ví như người thợ mộc nhận ra từng loại gỗ do đã biết những dấu hiệu của chúng.

Vậy nghĩa đơn giản nhất của saññā là: “nhận thức được những gì từng biết qua các giác quan”.

Saññā có thể hiểu là “tri giác” không?

Nếu “tri giác” được hiểu là: “hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, phản ánh sự vật với đầy đủ biểu hiện bên ngoài”, thì “tri giác” tuy không lột hết ý nghĩa của saññā, nhưng cũng gần với saññā theo nghĩa thông thường. Vì sao? Vì không từ đó suy diễn ra thêm “một khái niệm nào khác”.

Như cảnh Níp Bàn không phải là pháp được biểu hiện bên ngoài, nhưng tâm đạo Dự lưu nhận cảnh Níp Bàn vẫn có tâm sở Tưởng. Đó là “tri giác cảnh Níp bàn”.

Không nên hiểu “tưởng là tri giác” theo nghĩa triết học như các triết gia Bacon, Descartes, Spinoza và Leibniz đã dùng1.

Tưởng là một tâm sở rất quan trọng trong đời sống tâm linh, chính sự nhận thức “cái gì” đó qua dấu hiệu (nimitta) từng biết, nhận thức ấy có thể đúng, có thể sai. Biết bao lần ta té ngã chỉ vì “từng biết” miếng ván này vững chắc, nhưng hiện tại nó đã mục nát, biết bao lần ta nhầm lẫn người xa lạ là thân quen, chỉ vì họ có những nét “đã từng biết”, có lần ta rơi xuống hố chỉ vì “từng biết đám cỏ” phủ lên trên miệng hố...

Chính những “dấu hiệu đã từng biết” đưa đến suy luận rồi dẫn đến nhận thức sai, như cho rằng “mặt trời quay quanh trái đất” cũng do dấu hiệu “sáng mọc, chiều lặn”. Cũng do những “dấu hiệu kỳ lạ” của đất đá mà nảy sinh “tôn sùng linh vật”, cũng do những dấu hiệu “ủ rũ héo tàn” của cây cỏ khi người chăm sóc chúng mất đi, làm nảy sinh quan niệm “cây cỏ cũng có vui buồn”, cũng do dấu hiệu “hạnh phúc – đau khổ” dẫn đến quan niệm “ban thưởng hay trừng phạt của Đấng Tạo hóa vô hình ...

Tưởng có năng lực dẫn dắt tâm đi “lang thang” giữa muôn ngàn “sai - đúng” như thế, nên tưởng rất quan trọng trong hành trình tâm linh.

Chính Tưởng tích lũy những dấu hiệu để hình thành trí suy luận (trí tư), tưởng là nền tảng ban đầu cho tri thức, nếu như tưởng được đặt đúng hướng.

Tưởng tri (sañjānāti) dẫn đến thức tri (vijānāti).

Thức tri dẫn đến tuệ tri (pajānāti).

Tuệ tri dẫn đến thắng tri (abhijānāti).

Thắng tri dẫn đến liểu tri (pariññā).

Năm pháp này được minh họa như sau:

Hành giả tu tập chỉ tịnh (samatha) với đề mục Đất (paṭhavī kasina) chẳng hạn, giai đoạn đầu nhìn án xứ đất (có tên gọi là parikammanimitta – Sơ tướng hay Chuẩn bị tướng), khi nhắm mắt lại, hình ảnh Sơ tướng hiện ra trong tâm. Hành giả biết rõ như vậy, đây chính là tưởng tri (sañjānāti).

Thời gian sau, do hành trì tinh tấn, khi hành giả nhắm mắt lại Sơ tướng đứng yên không còn khi có khi không như lúc trước, Sơ tướng đã trở thành Trì tướng (uggahanimitta), ấn tướng này rõ nét hơn Sơ tướng, những ưu điểm cùng khuyết điểm của Sơ tướng hiện rõ rệt trong Trì tướng. Hành giả biết rõ như thế, đây là thức tri.

Từ Cận định (upacāra samādhi) hay An chỉ định (appanāsamādhi), hành giả tiến hành tu tập Quán Minh (vipassanā), nhận ra tam tướng :vô thường, khổ, vô ngã của ấn tướng, hay các pháp hữu vi. Đó là tuệ tri

Do phước được tích lũy đầy đủ hành giả chứng đắc Níp Bàn, hiểu rõ sự diệt tắt không còn sanh lại được của pháp ô nhiễm nào đó. Đây là thắng tri.

Hiểu rõ trọn vẹn vấn đề qua 4 khía cạnh: tướng trạng, phận sự, thành tựu, nhân cần thiết. Hay hiểu rõ Nghĩa vô ngại giải (Atthapaṭisambhidā), Pháp vô ngại giải (dhammapaṭisambhidā), Từ vô ngại giải (Niruttipaṭisambhidā), Biện vô ngại giải (Paṭibhāna paṭisambhidā). Đây là liễu tri.

Vị A La Hán đối với một số vấn đề thuộc về chân pháp, Ngài thông suốt hoàn toàn, đây là sự liểu tri của bậc A La Hán, nhưng có một số pháp khác vị A La Hán không thể thông suốt được. Trái lại, tất cả các pháp Đức Toàn Giác thông suốt trọn vẹn, đây là sự liểu tri của Phật Toàn Giác. Như vậy. liểu tri của bậc A La Hán còn hạn hẹp so với liểu tri của Đấng Toàn Giác.

Thật ra, Tưởng chỉ là cái biết “đơn thuần”, các vị Giáo Thọ Sư ví như cái biết của đứa bé khi nhận ra đồng tiền nhờ có dấu hiệu, nhưng không biết giá trị.

Nhưng những dấu hiệu do tưởng nhận ra, giúp cho tâm và trí có nhận thức cao hơn.

Nói cách khác, nhận ra những dấu hiệu từng biết là tưởng, từ nền tảng này tạo điều kiện cho tâm, trí nhận thức cao hơn.

Chính tưởng cũng làm cho “những dấu hiệu” sai khác, không đúng theo thực tướng. Nếu những dấu hiệu được tưởng nhận ra một cách đúng đắn thì mang đến lợi ích lớn, ngược lại thì mang nhiều tai hại. Như Đức Phật có dạy:

Này các tỷ kheo, có ba pháp này.Thế nào là ba? Dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng.

Này các tỷ kheo, có ba pháp này.Để đoạn tận ba pháp này, ba pháp cần phải tu tập.Thế nào là ba?

Để đoạn tận dục tưởng, xuất ly tưởng cần phải tu tập. Để đoạn tận sân tưởng, vô sân tưởng cần phải tu tập. Để đoạn tận hại tưởng, vô hại tưởng cần phải tu tập”.1

Hay:


Tưởng bất tịnh, tưởng chết, tưởng nhàm chán trong các món ăn, tưởng không hoan hỷ với tất cả thế gian, tưởng vô thường, tưởng khổ trên vô thường, tưởng vô ngã trên khổ, tưởng đoạn tận, tưởng ly tham, tưởng đoạn diệt”.

- Này các Tỷ kheo! Mười tưởng này được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm cứu cánh.” 2

Tóm lại saññā (tưởng) ở đây là nhớ lại những cảnh đã từng biết, như Pāli có giải:

Saññātī’ti = saññā: nhớ lại, gọi là tưởng.

Sự nhớ lại sai lạc gọi là tưởng kiến hay tà kiến (thấy sai – micchā diṭṭhi).

Sự nhớ lại đúng theo thực tướng, tức là có trí tuệ can dự vào sẽ mang lại lợi ích lớn.

25- Hỏi: Tứ ý nghĩa của tâm sở Tưởng là gì?

Đáp: Tâm sở Tưởng có bốn ý nghĩa là:


  • Trạng thái: Có sự nhớ lại. (Sañjānana lakkhaṇā).

  • Phận sự: Nhớ trở lại do có dấu hiệu (đã biết) làm duyên. (Pana sañjānana paccayanimittakaranarasā).

  • Thành tựu: Nắm giữ đúng hoặc sai cảnh đã nhớ lại. (Yathā gajhanimittabhinivesa paccupaṭṭhānā).

  • Nhân cần thiết : Có cảnh tái hiện. (Yathā upaṭṭhitavisaya padaṭṭhānā).

Giải thích:

Sự nhớ lại này là nhớ những gì đã từng gặp, nói rõ hơn là “nhớ lại” sáu cảnh đã từng biết.

Sự nhớ này chỉ phản ánh đại cương những nét cơ bản, không phản ánh đúng sự thật trong hiện tại. Như màu xanh tại hiện trường, giúp Tưởng nhớ lại màu xanh ở quá khứ, nhưng rõ ràng 2 màu xanh này chưa hẳn đã như nhau.

Vì có sáu cảnh đã từng biết nên Tưởng được phân thành sáu loại: sắc tưởng, thinh tưởng, mùi tưởng, vị tưởng, xúc tưởng và pháp tưởng.

Nhớ lại “cái đã từng biết” khi gặp đối tượng mới, hoặc nhớ lại ngay chính đối tượng đó, đây là trạng thái của Tưởng.

Chính sự nhớ lại “nét đại cương” đã từng biết, phần nhiều đưa đến sai lạc cảnh trong hiện tại, cho dù đồng tiền nhận biết hôm nay chính là đồng tiền hôm qua, nhưng đã có ít nhiều thay đổi rồi, nói chi đến đồng tiền thứ hai. Tưởng chỉ có trạng thái “nhớ lại” chứ không có khả năng phân tích.

Các Ngài A xà Lê (Ācariya) có cho ví dụ: đứa bé nhận biết đồng tiền do nhớ lại ví như cái biết của Tưởng, nhận thức giá trị đồng tiền ví như cái biết của Thức, khả năng phân tích qua sự nhận thức giá trị đồng tiền là cái biết của Trí.

Có thể hiểu khái lược như vầy “biết giá trị đồng tiền” là Thức, “nhận biết sự biến động giá trị này” là Trí, còn Tưởng chỉ đơn thuần “biết đồng tiền”.

Phần nhiều trạng thái nhớ lại của Tưởng che lấp hiện trạng thực tại, dẫn đến những nhận thức hư ngụy (vipallāsa), nên Đức Phật cảnh báo qua lời dạy:

Quá khứ không truy tìm.


Tương lai không ước vọng....
Chỉ có pháp hiện tại.
Tuệ quán chính là đây.”1



tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương