TÂm sở VẤN ĐÁp tỳ khưu Chánh Minh LỜi nóI ĐẦU “Ý dẫn đầu các pháp”



tải về 0.61 Mb.
trang2/9
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.61 Mb.
#30346
1   2   3   4   5   6   7   8   9

A-
TÂM SỞ
BIẾN HÀNH

Tâm sở Biến hành gồm có 7 tâm sở là: Xúc, Thọ, Tưởng, Tư, Nhất hành, Mạng quyền, Tác ý.



10- HỎI: Thế nào là tâm sở Xúc (phassacetasika)?

Đáp:

Xúc (phassa) là sự “va chạm” giữa tâm, cảnh và vật (vatthu).

Pāli có giải như vầy:



  • Ārammaṇa phussatīti = phasso: tâm chạm cảnh gọi là xúc

Thông thường ở cõi năm uẩn, khi đề cập đến tâm sở Xúc là nói đến sự “gặp nhau” giữa ba pháp tâm, cảnh và vật. Thật ra chỉ cần tâm gặp cảnh là tâm sở Xúc hiện khởi cho dù ở cõi hữu tâm hay cõi năm uẩn.

Phassa xuất nguyên từ ngữ căn phas là “chạm vào”.

Như sự thấy là do nhãn vật, cảnh sắc và Nhãn thức gặp nhau. Khi cảnh sắc chiếu vào nhãn vật (cakkhhupasāda) vẫn chưa có tâm sở Xúc sanh lên vì tâm Hữu phần (bhavaṅgacitta) chưa chạm vào cảnh1, bao giờ tâm Hữu phần chạm vào cảnh sắc, tâm sở Xúc mới sanh lên và Nhãn thức hiện khởi. Khi có tâm Nhãn thức sanh lên thì sự thấy mới hình thành.

Một người bị hôn mê bất tỉnh, người khác đụng chạm vào người, y cũng không biết, mặc dù khi ấy có sắc thần kinh Thân, có cảnh Xúc nhưng tâm hữu phần chưa “chạm cảnh” thì Thân thức chưa sanh, sự nhận thức “do đụng chạm” chưa có.

Điều này cho thấy vai trò quan trọng của tâm sở Xúc.

Tâm có tiếp xúc cảnh mới nhận rõ cảnh, ví như hai người có gặp nhau mới biết rõ diện mạo nhau trong hiện tại, diện mạo đã biết trong quá khứ không phản ánh trung thực trong thời hiện tại. Cũng vậy, tâm sở Xúc trong tâm hữu phần (ví như diện mạo trong quá khứ) là khác, tâm sở Xúc phát sanh lên (ví như diện mạo hiện tại) là khác. Tức là, tâm hữu phần chạm cảnh làm nảy sanh một tâm sở Xúc mới và một tâm “mới” phát sanh lên.

Nên Đức Phật có dạy: “Tất cả pháp lấy Xúc làm tập khởi”1, nghĩa là khi Xúc sanh lên thì tất cả các pháp đồng sanh cùng sanh lên.

Do đó, không nên hiểu lầm”đụng chạm suông” là tâm sở Xúc (na saṅgatimatto eva phasso).

“Đụng chạm suông” là sự va chạm giữa sắc pháp với sắc pháp, như lá cây va chạm vào gió, 2 viên sỏi va chạm vào nhau .... Loại va chạm này không gọi là tâm sở Xúc, vì loại “xúc” này không biết cảnh.

Như cây cột chính nâng đỡ toàn thể sườn nhà, cũng vậy tâm sở Xúc có nhiệm vụ nâng đỡ các tâm sở khác đồng sanh lên.

Bà Rhys Davids có giải thích “Xúc có địa vị ưu tiên, vì được xem như khởi thủy của tư tưởng và như điều kiện tất phải có cho các tâm sở đồng phát sanh”.2

Tuy tâm sở Xúc được nêu lên trước tiên giúp các tâm sở khác cùng sanh lên, nhưng không có nghĩa là: “tâm sở Xúc sanh lên trước, các tâm sở khác sanh sau”.

Xúc tâm sở được ví như cây cột nâng đở rui, mè, kèo ... người ta sẽ nhìn cây cột trước tiên để đánh giá khả năng chịu lực của căn nhà. Cũng vậy, Xúc tâm sở được nêu lên trước để xác định sự hiện khởi của danh pháp.

Nói cách khác, Xúc tâm sở có nhiệm vụ nâng đỡ các pháp đồng sanh nên nó hiển lộ (không phải hiện khởi) trước tiên. Như Pāli có ghi :

- “Phassena phusitvā vedanāya vedayati saññāya sañjānāti ... (Một tâm) có sự chạm cảnh do Xúc, hưởng (cảnh) do Thọ, nhận ra (cảnh) do Tưởng, tạo tác do Cố ý (cetanā) ...”

Sở dĩ Xúc tâm sở được nêu lên trước tiên là vì:



  • Để tiện cho việc giảng giải.

  • Theo lý Duyên khởi: “Salāyatana paccayā phasso – sáu xứ duyên cho xúc”.

Trong sáu xứ chủ yếu là Ý xứ (manāyatana) hay tâm hữu phần, khi tâm hữu phần chạm cảnh thì tâm sở Xúc mới sanh khởi, đồng thời Thọ, Tưởng … đều có mặt. Còn năm xứ như : Nhãn xứ (thần kinh Nhãn), Nhĩ xứ (thần kinh Nhĩ), Tỷ xứ (thần kinh Tỷ), Thiệt xứ (thần kinh Thiệt), Thân xứ (thần kinh Thân) chỉ là yếu tố phụ giúp, vì chúng là sắc pháp.

Khi cảnh chưa chạm tâm hữu phần hay tâm hữu phần chưa chạm cảnh, thì tâm sở Xúc không có, Thọ cũng không, Tưởng (saññā) cũng không…

Đức Phật thuyết tiếp :

- Phassa paccayā vedanā : Xúc duyên cho thọ”.

Nghĩa là “Xúc trợ cho Thọ vững mạnh” chứ không phải Xúc sanh trước giúp Thọ sanh lên sau.

Tính “đồng sanh của các tâm sở được xác định trong bộ Pháp Tụ (Dhammasaṅgani) như sau :



  • Thế nào là pháp thiện?

Khi nào có tâm Dục giới sanh, câu hành hỷ (somanassa sahagataṃ) tương ưng trí (ñāṇasampayutta) gặp cảnh sắc hay cảnh thinh, cảnh mùi, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp hoặc cảnh chi chi. Trong khi ấy có xúc, có thọ, có tưởng, có tâm....1. Rõ ràng tâm và các tâm sở cùng có mặt.

11- HỎI: Hãy trình bày bốn ý nghĩa của Xúc tâm sở.

Đáp:

Bốn ý nghĩa của Xúc tâm sở là:

- Trạng thái (lakkhaṇa): là chạm cảnh (phassana), là sự tiếp chạm giữa hai (hoặc ba) pháp.



    • Phận sự (rasa): nối kết (saṅkhattana) giữa tâm - cảnh - vật ở cõi ngũ uẩn, hay tâm - cảnh ở cõi tứ uẩn.

    • Thành tựu (paccupaṭṭhāna): hội hợp ba (hay hai pháp) tâm - cảnh - vật.

Đây là sự thành tựu được hiện rõ dưới trí tuệ của bậc hiền trí.

  • Nhân gần (padatthāna): có cảnh hiển lộ (āpātagatavisaya).

Giải thích:

  • Trạng thái: Tướng trạng nổi bật nhất Xúc tâm sở là “va chạm (cảnh)” (phussatīti) hay xúc chạm (phussana, tướng trạng này hiển lộ trước tiên trong hệ thống tâm pháp).

Nói rõ hơn, khi tâm cùng các tâm sở đồng sanh, sự kiện này hiện rõ chính là tướng trạng của tâm sở Xúc, nhưng phải tinh ý mới nhận ra sự hiển lộ ấy.Ví như khi gió thổi đến chạm vào người, sự “va chạm” được nhận ra trước tiên, đồng thời cũng nhận thức được gió mát, gió lạnh, gió nóng.. (đó là tâm), lãnh nạp sự lạnh, sự nóng, sự mát... (đó là thọ)....

- Phận sự: Phận sự của Xúc là nối kết các tâm sở lại với nhau, gom góp các tâm sở dính liền vào tâm, như Phật ngôn:

Tất cả pháp lấy xúc làm tập khởi”

Phận sự của Xúc với tâm ví như người đầu bếp thiện xảo của đức vua. Khi muốn nấu món vật thực nào đó dâng lên Đức vua, y tập hợp những món gia vị cần thiết cho món vật thực đó lại. Cũng vậy tùy theo cảnh xuất hiện, Xúc sanh lên gom góp các tâm sở đồng sanh lại gắn liền vào tâm.

- Thành tựu: Khi tâm cùng các tâm sở hiển lộ rõ ràng, đó là sự thành tựu của xúc. Ví như món vật thực đã được nấu chín là thành tựu “việc nấu nướng” của người đầu bếp.

- Nhân cần thiết: trợ giúp cho Xúc sanh khởi là cảnh, chính cảnh đã tạo ra 6 xúc như :

Cảnh sắc xuất hiện trong nhãn vật làm phát sanh Nhãn xúc.

Cảnh thinh xuất hiện trong nhĩ vật làm phát sanh Nhĩ xúc.

Cảnh mùi xuất hiện trong tỷ vật làm phát sanh Tỷ xúc.

Cảnh vị xuất hiện trong thiệt vật làm phát sanh Thiệt xúc.

Cảnh xúc xuất hiện trong thân vật làm phát sanh Thân xúc.

Cảnh pháp xuất hiện trong ý xứ làm phát sanh Ý xúc.

Nên Đức Phật dạy: “Salāyatana paccayā phasso: Sáu xứ duyên cho xúc.”

Lời dạy này của Đức Phật cần hiểu theo từng cõi, ở cõi có đủ 6 Xứ thì có đủ 6 Xúc, cõi nào không có đủ Xứ thì chỉ có Xúc tương ứng. Như cõi Dục có đủ 6 Xúc, cõi Sắc giới chỉ có 3 Xúc là Nhãn xúc, Nhĩ xúc và Ý xúc (vì chỉ có 3 Xứ là: nhãn xứ, thinh xứ và ý xứ). Cõi Vô sắc chỉ có Ý xúc vì chỉ có Ý xứ, năm xứ sắc pháp kia không có nơi cõi Vô sắc giới)..

Tuy cõi nhân loại lúc nào cũng có đủ sáu Xứ là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý Xứ, nhưng không phải lúc nào cũng có sáu Xúc, hay sáu Thức, chỉ khi nào cảnh lọt vào Xứ tương ứng mới có Thức tương ứng.

Điều này đã nói lên : “Khi có cảnh chạm vào tâm mới có Xúc sanh lên”.

Ý xứ làm phát sanh ý xúc được xác định rõ như Pāli có ghi:

“Chatthāyatana paccayā phasso: xứ thứ 6 duyên cho Xúc”.1

Ý xứ là nói đến tất cả tâm, ở đây ý xứ chỉ cho tâm hữu phần (bhavaṅga citta), xúc trong tâm hữu phần là xúc nội phần, nhãn xúc, nhĩ xúc...là xúc ngoại phần (của tâm hữu phần). Khi có cảnh như cảnh sắc chẳng hạn “va chạm” vào tâm hữu phần, làm sanh khởi một xúc mới là nhãn xúc và thế là nhãn thức sanh lên.

Như vậy, cảnh “va chạm” vào tâm hữu phần làm sanh khởi xúc tương ứng với cảnh ấy. Như cảnh sắc làm phát sanh nhãn xúc, cảnh thinh làm sanh khởi nhĩ xúc ....



12- HỎI: Trong sáu Xúc ấy chỉ là một Xúc hay riêng rẽ từng Xúc một? Ý nghĩa có khác nhau không?

Đáp:

Sáu Xúc là riêng rẽ chứ không phải là một, nhưng gọi chung là Xúc vì sáu loại Xúc này có trạng thái phận sự, thành tựu giống nhau, nhưng nhân cần thiết lại khác nhau.

Ý nghĩa riêng rẽ là chỉ cho cảnh (nhân sinh khởi Xúc) khác nhau. Chính vì cảnh khác nhau, nên chúng cũng khác nhau trên phương diện nhận biết cảnh.

Nhãn xúc chỉ biết cảnh sắc, không thể biết cảnh thinh, hay cảnh mùi ...

Nhĩ xúc chỉ biết cảnh thinh, không thể biết cảnh sắc, cảnh mùi ...

Riêng Ý xúc thì biết tất cả cảnh: sắc, thinh, mùi, vị, (cảnh) xúc và cảnh pháp. Tại sao vậy? Vì Ý xúc có khả năng tập hợp nhiều tâm sở hơn các Xúc kia, mỗi Xúc như nhãn Xúc, nhĩ Xúc… chỉ có khả năng tập khởi được 6 tâm sở mà thôi, riêng Ý xúc thì có khả năng tập khởi được tất cả mọi tâm sở. Nhưng tùy theo cảnh mà một số tâm sở được sanh lên, số khác thì không, vì khi ấy chúng không cần thiết phải có mặt.

Ví như trong cuộc họp về hội họa thì các thi sĩ hay văn sĩ không tham dự.

13- HỎI: Thế nào là tâm sở Thọ (vedanā cetasika)?

ĐÁP:

Vedanā xuất nguyên từ ngữ căn vid nghĩa là nhận lãnh. Pāli có giải như vầy:

Vedayatīti = vedanā: Hưởng cảnh gọi là thọ”.

Cũng như Xúc, tâm sở Thọ là một trong những đặc tính chính yếu của tâm.

Thọ có nghĩa là “nhận lãnh” xem ra thích nghi hơn ý nghĩa “cảm giác”.

Đối với tinh thần, Thọ có ba trạng thái: vui (hỷ), buồn (ưu) hay thản nhiên (xả). Đối với thể xác Thọ có hai trạng thái: sung sướng (lạc) hay đau đớn (khổ).

Thọ thuộc về thân xác không có tầm quan trọng về phương diện đạo đức, nhưng cũng không thể xem thường vì nó tạo điều kiện (duyên) cho những hành động đạo đức hay phi đạo đức sau đó.

Như người bị đánh đau quá sẽ trở nên hung dữ đi đến phạm tội sát nhân...

Người thân an lạc, tâm tình hào phóng, khoáng đạt, hoặc đam mê khoái lạc ...

Thọ thuộc về tinh thần là điều kiện phát triển đạo đức, nếu hành giả nhận thức rõ tính chất thiện hay bất thiện của chúng.

Phật ngôn có ghi rằng:

Somanassaṃ palaṃ devānaṃ inda duvidhena vadāmi sevitabbaṃ p’ asevitabbaṃ”.



- “Này Thiên chủ! Ta nói (thọ) hỷ có hai loại: một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa”.1

Tiếp theo Đức Phật dạy: loại thọ hỷ nào thân cận làm tăng trưởng thiện pháp thì nên thân cận, loại thọ hỷ nào làm bất thiện pháp tăng trưởng nên lánh xa.

Tương tự như thế:

Thọ ưu có loại nên thân cận, có loại nên tránh xa.

Thọ xả có loại nên thân cận, có loại nên tránh xa.

Chính hạnh phúc hay đau khổ mà chúng sanh nhận lãnh là tâm sở Thọ. Nói cách khác, tâm sở Thọ lãnh nhận đối tượng (cảnh), tâm sở Thọ mạnh mẽ vững vàng là do tâm sở Xúc trợ giúp.

Chính tâm sở Thọ nhận lấy quả lành hay quả dữ từ nghiệp (do tâm sở Tư – cetanācetasika ) tạo trong quá khứ hay chính trong hiện tại.

Ngoài tâm sở Thọ ra, không có một linh hồn (jīva) hay một tự ngã (atta) nào nhận lãnh quả của nghiệp đã tạo ra.

Cũng nên hiểu rằng: hạnh phúc (sukhaṃ) của Níp Bàn không có một uẩn nào hiện diện ở trong đó cả, mà tâm sở Thọ chính là thọ uẩn (vedanakkhandha), do đó không nên hiểu lầm có Thọ trong Níp Bàn.

Đức Phật dạy: “Nibbānaṃ paramaṃ sukhaṃ - Níp Bàn là lạc cao nhất”2.

Sukhaṃ (Lạc) ở đây không ám chỉ cho thọ, mà nói lên tình trạng “an ổn” tuyệt đối, do không bị luật vô thường biến đổi chi phốp, sự “an ổn” tuyệt đối ấy là hạnh phúc cao nhất. Ví như người biết rõ “bịnh này đã dứt khỏi, nó không còn sanh khởi lại nữa”, người ấy hân hoan. Bịnh không còn sanh trở lại nữa ví như Níp bàn, nhận biết “bịnh không còn sanh lại” ví như tâm biết cảnh Níp bàn và rõ ràng “sự hân hoan – ví như sukhaṃ” không ở trong “bịnh không còn sanh lại”, chính xác hơn “bịnh không còn sanh lại” làm duyên cho “hân hoan” sanh khởi. Tức là cảnh Níp Bàn làm duyên cho tâm Đạo hay tâm Quả Siêu thế nhận biết, từ đó nảy sanh Thọ (Hỷ hoặc xả). Ý nghĩa này càng rõ hơn khi chúng ta thấy “ tâm Đạo hay tâm Quả Siêu thế Ngũ thiền không có thọ lạc (hỷ)”. Hoặc các vị Thánh A La Hán an trú trong Diệt thọ tưởng định để tạm thời hưởng sự Viên tịch (parinibbāna) trong 7 ngày và rõ ràng không có tâm sở Thọ trong sự viên tịch tạm thời ấy.

Có thể hiểu như vầy: “Thọ có thể hưởng cảnh Níp Bàn, nhưng Níp Bàn không hề có Thọ”.

Một người thấy cảnh sắc xinh đẹp nên vui thích, nhưng cảnh sắc chắc chắn không có sự vui thích.

Hạnh phúc Níp Bàn là hạnh phúc của sự thoát ra những đau khổ, đồng thời nhận thức được “những đau khổ” ấy không thể trở lại, không phải là loại hạnh phúc còn vướng mắc ô nhiễm. Có thế thôi.

Các vị Luận sư có ví dụ: Thọ như ông chủ thưởng thức món ăn của người đầu bếp làm ra. Món ăn ví như cảnh, người đầu bếp ví như Tư tâm sở (cetanā cetasika).

Chính xác hơn, tâm sở Tư tạo nghiệp, tâm sở Thọ nhận quả. “Đây là lý vô ngã của Phật giáo”



14- HỎI: Vì sao tâm sở Thọ được phân ra nhiều cách như: ba thọ, năm thọ hay sáu thọ? Hãy giải thích?.

ĐÁP:

Sự kết hợp giữa tâm và tâm sở (ngoại trừ thọ) làm nảy sinh sự hưởng cảnh của Thọ. Chính sự kết hợp này có nhiều khía cạnh khác nhau, nên sự hưởng cảnh của thọ cũng mang tính khác nhau, từ đó được phân ra thành ba thọ, năm thọ, sáu thọ.

Khi trình bày ba thọ: lạc thọ (sukhavedanā), khổ thọ (dukhavedanā) và xả thọ (upekkhāvedanā) là nói về khía cạnh hưởng cảnh.

Khi trình bày năm thọ là phân loại thọ theo quyền (indriya).

Khi trình bày sáu thọ là nói về thọ phát sanh tương ứng với cảnh.

Giải thích:

a. Khi nói ba thọ lạc, khổ và xả thọ là nói tổng quát, nếu phân theo thân - tâm thì có thân thọ và tâm thọ. Đức Phật có dạy rằng:



  • Dve p’ Ānanda vedanā vuttāmayā pariyāyena. Này Ānanda! Hai thọ được ta nói đến tùy theo pháp môn”.

  • Tisso pi vedanā vuttā mayā pariyāyena”. Ba thọ được ta nói đến tùy theo pháp môn.

  • -“Pañca pi vedanā vuttā mayā pariyāyena”. Năm thọ được ta nói đến tùy theo pháp môn.

  • Cha pi vedanā vuttā mayā pariyāyena”. Sáu thọ được ta nói đến tùy theo pháp môn”.1

Theo Sớ giải: “Tùy theo pháp môn” là Đức Thế Tôn đề cập đến thân tâm, do tâhan tâm nên Đức Thế Tôn nói đến hai thọ là thân thọ và tâm thọ.

Nhưng trong kinh Đa thọ, lạc thọ được thợ mộc Pañcakaṅga đề cập là thiền lạc tối thắng khi quán Vô thường tướng hay Vô ngã tướng, loại lạc này ít phổ thông. Khổ thọ là loại thọ khi quán khổ tướng

Còn ba thọ mà Ngài Udāyi đề cập: khổ, lạc, xả là nói về thân lẫn tâm khi hưởng cảnh. Do nương theo pháp môn “hưởng cảnh”, nên Đức Thế Tôn thuyết lên ba thọ. Vì rằng:

Một số người khi nhận cảnh đáng khả ái, hài lòng (itthārammaṇānubhavana), thường có sự vui thích ở tâm và sự an lạc ở thân, gọi chung là thọ lạc (somanassavedanā).

Khi nhận lấy cảnh không vừa lòng, không khả ái (anitthārammaṇānubhavana), tâm thường khó chịu và thân cảm thấy mỏi mệt, uể oải. Trạng thái thân lẫn tâm như thế, gọi chung là khổ thọ (dukkhavedanā).

Khi tiếp nhận cảnh bình thường không tốt cũng không xấu (atthamajjhattārammaṇānubhavana), có trạng thái bình thản ở thân lẫn tâm, gọi là xả thọ (upekkhā vedanā).

b. Nói đến năm thọ là nói đến năm quyền (indriya).

Quyền ở đây là chỉ cho năm vật (vatthu). Theo bản Sớ giải: do một pháp môn, Đức Phật nói đến năm thọ, đó chính là năm quyền là lạc, khổ, ưu, hỷ và xả quyền.

Lạc quyền (sukhindriya): là tâm sở Thọ hướng dẫn các pháp đồng sanh làm chung công việc hưởng cảnh với trạng thái thoải mái.

Khi thọ lạc này tăng trưởng sung mãn trở thành chi thiền (chi Lạc của tâm).

Bình thường sự an lạc này được nhận biết ở thân, gọi là thân an lạc (sukhavedanā). Trong lãnh vực thân xác, thọ lạc làm cho thân tâm phấn chấn, có thể thực hiện thành công việc nào đó mà lúc bình thường không thể thực hiệc được.

Trong Sớ giải Pháp Cú kinh có ghi câu chuyện: Một anh nông dân đến nghe Phật thuyết pháp trong lúc đói bụng. Phật cho người dọn cơm cho anh ăn, ăn xong anh nghe pháp chứng quả Dự lưu.

Vì sao thế? Vì khi đói bụng thân không an lạc nên tâm cũng không an. No bụng rồi, thân sảng khoái, tâm hân hoan vị ấy nghe pháp chứng đắc quả Thánh, nên Đức Phật dạy rằng:

Jighachā paramārogā: Đói là bịnh tối trọng.1

Vì có thể làm được những việc mà lúc bình thường khó làm, nên thọ lạc gọi là lạc quyền.

- Khổ quyền (dukkhindriya): là sự cảm nhận khó chịu của thân. Thọ khổ khiến cho tâm có thể làm những việc mà lúc bình thường không thể làm như tự sát ...

Trưởng lão Godhika không thể chịu đựng được cơn bịnh của mình nên đã tự sát1. Do đó, gọi khổ thọ là khổ quyền.

- Hỷ quyền (somanassindriya): là sự thích thú vui mừng nơi tâm khi thọ lảnh cảnh tốt, cảnh khả ái. Chính trạng thái hân hoan vui thích của tâm khiến tâm tiến đạt như thành tựu những pháp cao thượng (đây là loại hỷ nên thân cận) hoặc đưa tâm đến chỗ thối đọa, như “thích thú” trước cảnh máu đổ đầu rơi, thích thú trong sự trụy lạc... (đây là loại hỷ nên xa lánh).

- Ưu quyền (domanassindriya): là trạng thái sầu muộn, uất ức của tâm. Giống như hỷ quyền, thọ ưu có loại nên thân cận như khó chịu, không hài lòng trước những dục lạc. Có loại thọ ưu nên xa lánh như thấy khó chịu, bất mãn trong sự tu tập...

- Xả quyền (upekkhindriya): là trạng thái thản nhiên, vô tư, không vui không buồn trước cảnh. Với cảnh khả ái đáng hài lòng cũng không vì đó mà tâm thích thú hân hoan, với cảnh xấu, không đáng ưu thích tâm cũng không khó chịu, bất ổn.

Như Bồ Tát Lohaṃsaka khi trú ngụ ở bãi tha ma, có bọn trẻ trêu chọc, phá phách Ngài, ném những vật không tốt vào người Ngài. Ngài vẫn thản nhiên bình lặng.

Bọn trẻ thứ hai trái lại, cung kỉnh cúng dường đến Ngài những vật thực mà chúng có được, nhưng tâm Ngài vẫn thản nhiên.

Chính thọ xả khiến tâm chịu đựng được những gì khó chịu đựng, nên gọi là xả quyền.

Như vậy, y cứ vào Quyền (indriya), Đức Phật thuyết lên năm thọ: lạc, khổ, hỷ, ưu và xả. Lạc, khổ thuộc về thân, hỷ, ưu, xả thuộc về tâm.

Lạc quyền hay thọ lạc sanh lên nơi thân là do có cảnh xúc tốt.

Khổ quyền hay thọ khổ sanh lên nơi thân là do có cảnh xúc xấu.

Khi gom vào phương diện hưởng cảnh thì lạc thọ bao gồm lạc quyền, hỷ quyền, khổ thọ bao gồm ưu quyền, khổ quyền.

Như Phật ngôn:

Sukhāya vedanā sampayuttā dhammā

Dukhāya vedanā sampayuttā dhammā

Adukkhamasukhāya vedanā sampayuttā dhammā”.

Tất cả pháp tương ưng lạc thọ.



Tất cả pháp tương ưng khổ thọ.

Tất cả pháp tương ưng phi khổ phi lạc thọ.”1

c- Nói đến sáu thọ là phân thọ theo cảnh.

Nói theo phương diện nương sanh từ cảnh thì:


  • Nương theo cảnh sắc sinh khởi gọi là nhãn thọ.

  • Nương theo cảnh thinh sinh khởi gọi là nhĩ thọ.

  • Nương theo cảnh mùi sinh khởi gọi là tỷ thọ.

  • Nương theo cảnh vị sinh khởi gọi là thiệt thọ.

  • Nương theo cảnh xúc sinh khởi gọi là thân thọ.

  • Nương theo cảnh pháp sinh khởi gọi là ý thọ.

Nói tóm lại, tùy theo pháp môn mà thọ phân nhiều cách như:

  • Về phương diện thân tâm có hai là: thân thọ, tâm thọ.

  • Về phương diện hưởng cảnh của thân tâm có ba là: lạc, khổ, xả.

  • Về phương diện quyền có năm là: lạc, khổ, hỷ, xả.

  • Về phương diện có theo cảnh thì có sáu.

Ngoài ra, thọ liên hệ với sáu trần cảnh có sự đắm nhiễm, dính mắc, gọi là thọ duyên cho phiền não (thọ tại gia). Thọ liên hệ với sáu cảnh, không đắm nhiễm, dính mắc sáu trần cảnh, gọi là thọ không duyên cho phiền não (thọ xuất gia) và có 108 thọ như sau:

Sáu cảnh (sắc, thinh, mùi, vị, xúc, pháp) mỗi cảnh làm sanh khởi ba thọ (lạc, khổ, ưu) thành 18 thọ.



  • Mười tám thọ này có sự đắm nhiễm trong sáu cảnh.

  • Mười tám thọ này không đắm nhiễm trong sáu cảnh.

Tổng cộng có 36 thọ.

  • Lấy số 36 này nhân cho ba thời (quá khư, hiện tại, vị lai) thành 108 thọ.

15- HỎI: Có phải tất cả Thọ đều làm duyên cho Ái (taṅhā) sanh khởi ?

Đáp:.

Đức Phật thuyết “vedana paccayā taṅhā: Thọ làm duyên cho ái” là Ngài ám chỉ phiền não ái trực tiếp sanh lên từ thọ, chính Ái là nguyên nhân đưa chúng sanh trôi lăn vào luân hồi.

Trong Tạng Diệu Pháp, Bộ Phân Tích (Vibhaṅga) có nêu rõ:


  • Đối với những tâm bất thiện thì Đức Phật dạy: “vedanā paccayā taṅhā: Thọ duyên cho ái”.

  • Đối với những tâm thiện thì Đức Phật dạy: “vedanā paccayā saddhā: Thọ duyên cho Tịnh tín”.

  • Đối với Ngũ song thức, Đức Phật dạy : “vedanā paccayā bhavo: Thọ làm duyên cho hữu”.

  • Đối với những tâm như: 2 tâm Tiếp thâu, 3 tâm Quan sát, tâm Hướng ngũ môn, tâm Hướng ý môn và tâm Sinh tiếu (hasituppādacitta), Đức Phật dạy “vedanā paccayā adhvimokkho : thọ làm duyên cho Thắng giải”…1

Như vậy, theo Tạng kinh Đức Phật nêu tóm gọn “thọ làm duyên cho ái” là nói lên tính phổ thông, chúng sanh còn sinh tử luân hồi là do có ái. Ái này trực tiếp có trong những tâm bất thiện, hoặc làm cảnh trong tâm thiện để chúng sanh dính mắc vào cảnh giới tái sanh (hữu – bhava).

Còn trong tạng Diệu Pháp, Đức Phật phân tích rõ lý duyên khởi theo từng tâm một và như thế, không phải khi thọ sanh lên đều làm duyên cho ái (trực tiếp) sanh lên.



16- HỎI: Tứ ý nghĩa của thọ lạc ra sao?

Đáp:

Thọ lạc có bốn ý nghĩa là:



  • Trạng thái: Hưởng cảnh xúc tốt, thích hợp. (iṭṭha photthabbānubhavana lakkhanaṃ).

  • Phận sự: Làm cho các pháp tương ưng tiến triển. (Sampayuttānaṃ upabrūhanarasaṃ).

  • Thành tựu: Thân an lạc. (Kāyika assāda paccupaṭṭhānanaṃ).

  • Nhân cần thiết: Có thần kinh thân. (Kāyindriya padaṭṭhānaṃ).

Giải thích:

Biểu hiện rõ nhất của thọ lạc là xuất hiện ở thân khi hưởng cảnh xúc tốt đẹp, hoặc cảnh xúc thích hợp.



Cảnh xúc tốt đẹp là cảnh khi đụng chạm có sự êm ái hài lòng đúng theo thực tướng.

Như nơi nằm, ngồi có lót nhung gấm mềm mại êm ái, đáng hài lòng, đáng thích ý.



Cảnh thích hợp là cảnh hiện khởi vào lúc nhu cầu đang cần thiết, như khi cần ngủ thì giường là cảnh xúc cần thiết (cho dù không có chăn êm, nệm ấm)... hay mùa hè ấm áp là cảnh thích hợp cho người xứ lạnh, trái lại là cảnh không thích hợp cho người xứ nóng.

Thời tiết khá lạnh là cảnh xúc thích hợp cho người xứ lạnh, không thích hợp cho người xứ nóng.

Mùa lạnh mặc áo bông dầy là thích hợp ….

Cảm nhận an lạc, nhẹ nhàng, thoải mái của thân. Đó là trạng thái của thọ lạc.

- Phận sự của thọ lạc là làm cho các pháp tương ưng tiến triển.

Thọ lạc có hai phận sự là phận sự trong việc làm (kārarasa) và phận sự tạo thành tựu (sampattirasa).



Phận sự trong việc làm: Thọ lạc có tác dụng làm cho các pháp đồng sanh hòa hợp với nó tiến triển.

Nói cách khác, thọ lạc làm cho các pháp tâm và tâm sở cùng sanh với nó hưởng cảnh xúc không có sự nhàm chán, vẫn duy trì sự thích thú với cảnh xúc đáng hài lòng ấy.

Như người ngủ trên giường êm ấm, khi thức giấc vẫn chưa muốn rời khỏi giường ...

Phận sự tạo thành tựu: Khi người được hưởng sự an lạc về thân tâm thường hân hoan vui thích. Như Ngài Pūtigatta bị bịnh trầm kha, thân thể bất động, được Đức Phật và Đại đức Ānanda ngự đến nơi trú ngụ tắm rửa cho vị ấy. Sau khi tắm rửa, mặc y phục được giặt sạch sẽ Ngài Pūtigatta thân an lạc, tâm Ngài hân hoan, tiếp đến Đức Phật dạy kệ ngôn:

Acīraṃ vāt’ayaṃ kāyo.
Paṭhaviṃ adhisesati
Chuddho apetaviññāṇo
Niratthaṃ’va kaḷingaraṃ

Không bao lâu thân này


Sẽ nằm dài trên đất.
Bị vất bỏ, vô thức.
Như khúc cây vô dụng”
1

Nghe dứt kệ ngôn, Ngài Pūtigatta chứng đắc quả A La Hán.




tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương