Tìm Hiểu SÁu phái triết họC ẤN ĐỘ ht. Mãn Giác


Chương IV - Triết thuyết Vaisùesïika (Thắng luận)



tải về 1.03 Mb.
trang16/37
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích1.03 Mb.
#33722
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   37

Chương IV - Triết thuyết Vaisùesïika (Thắng luận)

I.Ý NGHĨA


Trong tất cả các hệ phái Ấn Độ, các nhà Phật học Ấn thường chọn hai tư tưởng đối lập trực tiếp là Sàmïkhya và Vaisùesïika. Sự kiện đó cho thấy địa vị khá quan trọng của hai phái này. Khi nói về bản thể luận trong triết phái Sàmïkhya, chúng ta đã giả thuyết hai thái độ hay hai chiều hướng mà một triết gia có thể chọn làm khởi điểm để khảo sát về bản thể tối hậu của vũ trụ thế giới, hay thực tại. Sàmïkhya được coi như chọn thái độ của một cái nhìn theo chiều dọc, phác họa những mối dây liên hệ nhân quả trong lịch trình hiện tượng hóa của hiện tượng giới và như vậy, đối lập với Sàmïkhya, đặc trưng chính là Vaisùesïika với một cái nhìn theo  chiều ngang của hiện tượng giới. Cả hai đã bổ sung cho nhau trong một hệ thống vũ trụ luận, với những thảo luận chi tiết về ý nghĩa sinh thành và tồn tại của hiện tượng giới.

Các yếu tố triết học của Vaisùesïika, cũng như các hệ phái khác, có thể tìm thấy rải rác trong thánh điển Upanishad. Chúng ta sẽ thấy hệ phái này phân tích các thực thể (dravya) thành những yếu tố cực vi, và những thực thể được xếp dưới phạm trù này, hay thực cú nghĩa (dravya-padàrtha), như đất, nước, lửa, gió, hư không, v.v..., không phải là những yếu tố xa lạ trong các Upanishads.

Vaisùesïika là một từ ngữ phát xuất từ chữ visùesïa. Chúng ta có ít nhất hai giải thích về ý nghĩa chữ này50. Trên tổng quát, visùesïa có nghĩa là dị biệt hay đặc thắng, cho thấy khuynh hướng phân tích của hệ phái này. Hậu quả của khuynh hướng phân tích dẫn nó đến một đa nguyên thực tại luận. Giải thích thứ hai, căn cứ trên nhị cú nghĩa (visùesïa-padàrtha), theo đó, vì hệ phái này chú trọng đến nó, nên được mệnh danh là Vaisùesïika.

Tuy nhiên, chúng ta cũng nên biết thêm một giải thích khác, theo đó, Vaisùesïika hàm một ý nghĩa tự phụ. Giải thích này tìm thấy trong Duy thức thuật ký của Khuy Cơ51.

Vaisùesïika-sùtra, ngay ở sùtra đầu tiên của nó đã chỉ định dharma như là một mục tiêu khảo sát của nó. Tiếp theo 2 sùtras kế, tác phẩm quy chế ý nghĩa của dharma qua hai phương diện: thượng thiện (abhyudaya) và tối thượng thiện (nihïsùrlyasa). Mục tiêu thứ nhất để khảo sát dharma là hướng tới một đời sống hạnh phúc của thiên giới. Nó chính là mục tiêu mà Jaimini đặt lên hàng đầu của Mìmàmïsà-sùtra. Đối với Mìmàmïsà, dharma được hiểu như là một nghĩa vụ tuyệt đối, bao gồm những liên hệ giữa người và người trong cộng đồng xã hội và trên hết là mối liên hệ giữa loài người và thần linh trong trật tự tự nhiên của vũ trụ. Sự kiện cho thấy có một nền tảng chung cho Vaisùesïika và Mìmamïsà, và có lẽ học thuyết của Vaisùesïika được thành hình sớm hơn Mìmàmïsà52.

Cũng như Mìmàmïsà-sùtra của Jaimini, ở đây mục tiêu thứ nhất của dharma là Vaisùesïika đặt thẩm quyền trên Veda. Phương diện thứ hai của dharma nơi Vaisùesïika là giải thoát, và giải thoát ở đây là kết quả đạt được bằng tri thức chân chính về sáu cú nghĩa. Sùtra 53 tiếp theo đó của Vaisùesïika-sùtra nói: Thắng pháp (dharma-visùesïa) phát sinh từ chân trí về quan hệ giữa những đồng tướng và dị tướng của sáu cú nghĩa gồm: thực, đức, nghiệp, đồng và dị.

---o0o---


II.LỊCH SỬ


Sáng tổ của Vaisùesïika làKanïàda, thuộc dòng họ Kasùyapa, mà truyền thuyết cho rằng được khải thị bởi thần SÙiva dưới hình thức một con cú mèo, do đó ông còn có tên là Ulàka, và những người theo học thuyết này được gọi là đồ chúng Aulùkya, Trung hoa dịch là “huân hầu tử”. Truyền thuyết cũng giải thích rằng, sở dĩ có tên như vậy, bởi vì vị tiên này ban ngày thì ẩn mà ban đêm thì du hành như một con cú mèo. Từ ngữ Kanïàda lại còn có nghĩa là “người ăn hạt” mà tại Trung Hoa người ta biết dưới dịch ngữ là “Thực mễ tế tiên nhân”4. Hình như từ ngữ này muốn ám chỉ khuynh hướng phân tích của học phái này. Những truyền thuyết như vậy khiến ta có cảm giác Kanïàda hay Ulùka là một nhân vật có nhiều tính chất huyền thoại hơn là sự thực.

Cũng theo truyền thuyết, vị tổ thứ hai của Vaisùesïika là Panõcasùikhin, “Ngũ Đỉnh tiên nhân”. Kanïàda sống rất lâu, giảng dạy về sáu cú nghĩa, sau đó sang Ba La Nại (Vàrànïasì) truyền lại cho Panõcasùikhin trong một thời gian kéo dài đến 9 nghìn năm. Niên đại của Kanïàda cũng như của Vaisùesïika-sùtra rất khó xác định. Mầm mống của học thuyết được tìm thấy rải rác trong các nhà Phật học và các nhà Thuận thế (lokàyata). Nhưng khó tìm thấy người ta nhắc đến tác phẩm này trước thế kỷ III trước tây lịch. Những tác phẩm về sau, như Brahma-sùtra của Bàdarøạyanïa, có vẻ đề cập học thuyết được chứa đựng trong Vaisùesïika-sùtra. Niên đại được phỏng định cho nó là sau 300 năm trước tây lịch, và trước kỷ nguyên. Giả thiết niên đại như vậy quá dài, và khó dẫn đến một niên đại gần xác thực hơn.

Toàn thể Vaisùesïika-sùtra gồm 370 sùtras, 10 chương, mỗi chương gồm hai nhật khóa (àhnika). Chương I, sau khi giới thuyết mục tiêu, trình bày về sáu cú nghĩa. Chương II và III, nói về cú nghĩa thứ nhất: dravya. Chương IV, thuyết cực vi và tính chất của 4 đại. Chương V, bàn kỹ về thực cú nghĩa. Chương VI, về pháp và phi pháp trong cú nghĩa thứ hai: gunïa (đức). Chương VII, các thành tố trong cú nghĩa gunïa, và cũng bàn về cú nghĩa samavàya (hòa hiệp). Chương VIII, tri thức luận. Chương IX, các vấn đề linh tinh, vấn đề nhân quả. Chương X, về đau khổ và hạnh phúc.

Bản chú giải xưa nhất về Vaisùesïika-sùtra hiện còn, đáng kể là của Prasùastapàda, khoảng thế kỷ V sau Tây lịch. Nói là chú giải, nhưng về hình thức, đây là một tác phẩm độc lập, trình bày sự tiến triển của hệ phái qua nhiều quan điểm. Udayana và SÙridhara là hai nhân vật ở thế kỷ X viết hai chú giải về Prasùastapàda-bhàsïya, một tựa đề là Kiranïàvali và một là Nyàyakandali. SÙanïkara Misùra (sống khoảng 1425) viết hai bản chú giải, một trực tiếp về Vaisùesïika-sùtra, được gọi là Upaskàra, và một bản khác về Presùastapàda-bhàsïya. Trong số các tác phẩm này, Nyàyakandalì của SÙridhara được coi là rất hữu ích cho những nhà khảo cứu Vaisùesïika vì lối trình bày và thể cách đơn giản.

Về sau, Vaisùesïika và Nyàya được ghép chung, một bên đặc trưng cho bản thể luận và một bên đặc trưng cho nhận thức luận. Các tác phẩm đại diện cho tính cách tổng hợp này là Saptapadàrthì của SÙivìditya thế kỷ XV, Tarka-samïgraha của Annambhatïtïa vào thế kỷ XVII, và Bhàsïa-øpariccheda của Visùanàtøha Panõcàna.

Các cú nghĩa của Vaisùesïika, từ khởi đầu có sáu, lần lượt khai triển thành 7, rồi cuối cùng có tất cả mười cú nghĩa. Đặc trưng cho sự khai triển này là tác phẩm Vaisùesïika-nikàya-dasùapadàrtha-sùàstra của Maticandra. Tác phẩm này được Huyền Trang, thế kỷ VIII, dịch sang Hán văn dưới danh hiệu Thắng tông thập cú nghĩa, và tác giả Maticandra cũng được dịch là Huệ Nguyệt. Cũng như của Sàmïkhya qua bản Hán dịch của Chân Đế (Paramàrtha) vào thế kỷ IV, Thắng tông thập cú nghĩa là tác phẩm căn bản cho những khảo cứu về Vaisùesïika tại Trung Hoa54.

---o0o---




tải về 1.03 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   37




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương