Tìm Hiểu SÁu phái triết họC ẤN ĐỘ ht. Mãn Giác


III.CÚ NGHĨA: (PADÀRTHA - Học thuyết)



tải về 1.03 Mb.
trang17/37
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích1.03 Mb.
#33722
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   37

III.CÚ NGHĨA: (PADÀRTHA - Học thuyết)


Theo nghĩa đen, padàrtha chỉ cho một sự thể có biết đến (jnõaya: sở tri) có thể trực giác được (prameya: sở lượng), có thể gọi tên được (abhidheya). Từ ngữ này ở phương Tây thường được quan niệm như là phạm trù (category). Thế nên, người ta hay so sánh các cú nghĩa của Vaisùesïika với những phạm trù của Aristotle, Kant và Hégel6.

Ui Hakuju (Vũ Tỉnh Bá Thọ) trong Ấn Độ triết học sử (trang 78-79) cho rằng đây là phương pháp quan sát khách quan mỗi sự vật bằng lối phân loại và phân tích. Thí dụ: sự vật xuất hiện như là đối tượng của tri thức chúng ta, sẽ được coi như là xuất hiện trong tư cách một bản thể tự hữu, và đấy là Thật cú nghĩa (dravya). Nhưng bản thể này không xuất hiện một cách đơn thuần mà xuất hiện như là chủ thể của những phẩm tánh (Đức cú nghĩa: gunïa) và tác dụng vận động (Nghiệp cú nghĩa: karma). Đức là tính cách tỉnh và Nghiệp là tính cách động của chủ thể đó. Tiến thêm nữa, các bản thể dù độc lập, nhưng xuất hiện trong thế tương quan. Về tương quan ngoại tại, chúng ta có Đồng (sàmànya) và Dị (Visùesa). Về tương quan nội tại, chúng ta có Hòa hiệp (Samavàya). Như vậy, Cú (pada) chỉ cho phương diện bộc lộ của sự vật đối với tri thức, nhất là bộc lộ qua diễn đạt của ngôn thuyết. Nghĩa (artha) chỉ cho nội dung của sự bộc lộ ấy.

Khi phát khởi, Vaisùesïika chỉ kể có sáu cú nghĩa. Các nhà Vaisùesïika về sau thêm cú  nghĩa phi hữu (abhàva, Huyền Trang dịch là Vô thuyết). Phái Nyàya thừa nhận cả bảy cú nghĩa này. Như vậy, cú nghĩa gồm hai loại là sáu hữu (bhàva-padàrtha) và một phi hữu (abhàva-padàrtha). Sau cùng, với tác giả của Thắng tông thập cú nghĩa (Dasùapadàrtha-sùàtra), lại kể có 10 cú nghĩa:

1- Thật (Dravya)               6- Hòa hiệp (Samavaya)

2- Đức (Gunïa)                 7- Hữu năng (SÙakti)

3- Nghiệp (Karma)                       8- Vô năng (Asùakti)

4- Đồng (Sámánya)           9- Câu phân (Sàmanyavisùesïa)

5- Dị (Visùesïa)                             10- Vô thuyết (Abhàva)

Riêng về chữ Câu phân, Ui Hakujì trong Ấn Độ triết học sử (trang 505) cho rằng đây là dịch ngữ sai lầm của bản Thắng tông thập cú nghĩa về Sàmmànyavisùesïa. Bởi vì, Phạn ngữ này có nghĩa rằng, Visùesïa (Dị cú nghĩa) chỉ có tính cách dị biệt thuần túy, tức là biến dị, do đó, Sàmànavisùesïa phải được hiểu là đồng dị, tức là dị biệt không độc lập. Tuy nhiên, người ta biết rằng trong các nhà phê bình của Phật giáo về Vaisùesïika chỉ thấy đề cập đến sáu cú nghĩa coi như là chính yếu. Và ngày nay khi khảo cứu về Vaisùesïika, người ta cũng chỉ lấy đó làm trọng tâm, hoặc kể thêm abhàva nữa là bảy.

---o0o---



1. Thật cú nghĩa (Dravya)

Dravya được định nghĩa như là bản thể làm sở y cho phẩm tính (Gunïa: Đức) và tác dụng (Karma: Nghiệp) và chính bản thể này làm hòa hiệp nhân (Samavàda-Karana). Như thế, Dravya đã được định nghĩa theo hai chiều hướng. Trong chiều ngang, đó là chín loại Thật (dravya). Trong chiều dọc, đó là mối quan hệ nhân quả. Khi một thật vật ở trạng thái đơn thuần và vi tế, nó là căn nhân. Căn nhân này nội tại, hay Hòa hiệp nhân, vì một thật vật khi xuất hiện cùng lúc với hai tính cách là tĩnh với phẩm tính và động với tác dụng, thì chính thật vật là căn nhân nội tại của kết quả này bằng vào tương quan hòa hiệp. Samàvya trong chữ Sama-vàyikàrina chỉ cho mối quan hệ bất khả phân, tức là hòa hiệp. Như vậy, trong mối tương quan vừa kể, nhân và quả, ở tình trạng bất khả phân.

Thật vậy, nếu là tập hợp (avayavidravya), tức tập hợp giữa các thật vật với nhau, sẽ chịu chi phối của định luật hữu tình hữu loại. Nhưng thật vật đơn nhất, vốn là hòa hiệp nhân của những thật vật tập hợp, chính là bản thể thường hằng bất biến, không bị sanh hay diệt.

Thật cú nghĩa gồm có chín:

1- Đất (Prïithivi)                5- Không (Àkàsùa)     

2- Nước (Ap)                               6- Thời (Kàla)

3- Lửa (Tejas)                              7- Phương (Dik)

4- Gió (Vàyu)                               8- Ngã (Àtman)

                                                                 9- Ý (Manas)              

Trong chín loại Thật, bốn loại đầu (1-4) là những yếu tố cực vi (pràmànïus) chứ không phải là những dữ kiện trong kinh nghiệm thông tục của chúng ta; chúng được dùng một cách rộng rãi để giải thích các sự vật. Phật giáo gọi là bốn đại chủng (mahà-bhùta), tức là bốn nguyên tố phổ biến. Nói một cách tổng quát, đất là yếu tố cứng, nước là yếu tố lỏng và ướt, lửa là yếu tố ấm và gió là yếu tố dao động. Không một vật thể nào mà không phải là sở tạo của chúng; thảy đều là vật chất, nhưng là vật chất năng động, như tính cách năng động của ý (manas). Cùng với ý, cả năm thật thể này (đất, nước, lửa, gió và ý) được tác giả của Thắng tông thập cú nghĩa cho là hết thảy đều năng động và có thể dụng.

(5) Không (àkàsa), tức hư không hay bầu trời. Nếu kể chung với bốn dravyas trên sẽ có năm đại chủng (mahà-bhùta). Nhưng tính cách không giống nhau, vì hư không không có giới hạn và phẩm vị, do đó không tạo ra các vật thể với tư cách là một nguyên tố cực vi.

Cả năm dravyas, không những chỉ là thành phần cấu tạo các vật thể ngoại giới, mà còn là thành phần cấu tạo các quan năng nội giới. Về ngoại giới, trên tổng quát chỉ có năm loại vật thể và chúng tương ứng với năm đại chủng: hương do đất, vị do nước, sắc do lửa, xúc do gió, và thanh do hư không. Năm vật thể này chính là năm đối tượng của năm quan năng, cũng tương ứng với năm đại chủng: mũi do đất, lưỡi do nước, mắt do lửa, da do gió, và tai do hư không.

(6-7) Thời (kàla) chỉ theo quan niệm về tính cách vận chuyển tiếp nối, Phương (dik), hay phương vị, phương sở, chỉ cho không gian, nghĩa là các phương hướng và vị trí.

Không (àkàsùa), Thời (kàla) và Phương (dik) là những bản thể đơn nhất (eka), thường hằng (nitya) và biến tại (vibhu) (Biến tại: tồn tại, phổ biến, ở khắp mọi nơi). Lại nữa, tất cả thảy chúng đều là bản thể vô hạn, không phần vị. Nhưng trong kinh nghiệm thông tục, chúng cũng được chia thành hạn biệt. Những hạn biệt của thời gian là quá khứ, hiện tại, vị lai; những hạn biệt của không gian là trước, sau, xa, gần, trên, dưới, v.v...

(8) Ngã (àtman). Với tư cách như là một chủ tể của mọi hành động, nó thường hằng và biến tại. Những hành động chứng tỏ có ngã làm chủ tể, và là luận chứng có giá trị về sự hiện hữu của ngã, thường được nhắc đến là: giác (jnõàna), dục (icchà) và cầu mong (yatna); nói cách khác, đây là những tác động tri giác, ý dục và ý chí.

Có hai loại ngã: ngã toàn tri, chỉ có Thượng đế không lệ thuộc khổ hay lạc và ngã cá biệt, độc lập. Ngã này được kể là vô số, chúng là bản thể tâm linh vốn thường tại, làm căn bản cho hoạt động của thức. Nhưng thức không phải là bản tánh của ngã, nó được coi như là một thuộc tánh ngẫu nhiên mà ngã sở hữu. Thí dụ: trong giấc ngủ say, thức không hoạt động, nhưng ngã vẫn tồn tại.

(9) Ý (manas). Trong sự tiếp xúc giữa mọi căn và ngoại cảnh, nếu không có ý can thiệp, mối quan hệ của chúng sẽ không dẫn đến một kết quả nào hết. Nghĩa là, có nhìn, nhưng không có thấy. Nó cũng được liệt kê vào số các nguyên tố như là bốn đại chủng, và cũng có tính cách năng động như chúng, nhưng không phải là nguyên tố để tạo thành những tập hợp vật. Mỗi ngã đều có một ý, vì ý là quan năng nhận thức, giống như năm quan năng kia: mắt, tai, mũi, v.v... Trên khía cạnh nhận thức, sự tiếp xúc giữa năm quan năng (năm căn) với năm đối tượng tương ứng (năm cảnh), là sự tiếp xúc giữa các tập hợp vật. Những tập hợp vật này cố nhiên chịu sự chi phối của luật sát na sinh diệt.

Do đó, phải cần có một quan năng để lãnh hội những kết quả của nhận thức, như để truy ức quá khứ và suy đoán tương lai. Theo đây, khi có sự tiếp xúc giữa căn và cảnh, ngã sẽ đặt ý vào để khởi lên nhận thức. Nhưng ý vì có tính cách là nguyên tố cực vi, do đó cần có sở cứ. Như vậy, khi tất cả năm căn cùng tiếp xúc với năm cảnh, thì trong đó chỉ có một căn được ý can thiệp, và chỉ riêng căn và cảnh này dẫn đến một kết quả nhận thức. Cũng như bốn thật thể đầu, ý có khả năng vận động, và là vận động căn bản tối sơ của mọi vận động, nhưng là thế lực vận động không thể thấy (adrïisïta). Ngoài ra, thế lực vận động của ý diễn ra rất lẹ.

Do đó, đối với Vaisùesïika, khi ta có cảm tưởng là có hai nhận thức cùng khởi lên một lúc, như vừa thấy vừa nghe, kỳ thực cả hai diễn ra có trước và có sau, trong khoảng thời gian cực tiểu, tính bằng thế lực vận chuyển của ý.

---o0o---



2. Đức cú nghĩa (Gunïa)

Đức hay phẩm tính (Gunïa), khởi thủy, gồm có 17 loại:

(1) Sắc (rùpa), màu sắc vốn là đối tượng của mắt. Màu chỉ được tìm thấy trong đất (hsïiti), nước (ap) và lửa (tejas). Nước và lửa có tính cách thường tại; riêng đất thì có biến chuyển. Sắc gồm có sắc chất (rùpatva) và sắc phẩm (rùpa-gunïa).

(2) Vị (ràsa), đối tượng của lưỡi. Chỉ có đất và nước mới có vị. Vị cũng như sắc, có vị chất (ràsatva) và vị phẩm (rasa-gunïa).

(3) Hương (gandha), đối tượng của mũi, chỉ thuộc về đất.

(4) Xúc (sprsùa): đối tượng sờ mó của da, tìm thấy trong đất, nước, lửa, gió.

(5) Thanh (sùabøda): đối tượng của tai, thuộc về hư không (àkàsá).

(6) Số (sàmïkhya): chỉ cho tất cả khái niệm về số đếm. Nhờ phẩm tính này, sự vật được phân biệt hoặc ít, hoặc nhiều.

(7) Lượng (parimiti): khái niệm về tính cách tương đối giữa lớn hay nhỏ của vật thể.

(8) Biệt thể (prïthaktva): phẩm tính nhờ đó mà các vật thể xuất hiện trong tính cách sai biệt nhau.

(9) Hiệp (samïyoga): nhờ phẩm tính này mà người ta nhận ra sự liên hệ của các vật thể với nhau.

(10) Ly (vibhàga): cho biết sự vật không liên hệ với nhau hay không tiếp xúc nhau.

(11-12) Bỉ thể (paratva) và thử thể (aparatva): xác định sự vật tồn tại trong khoảng thời gian lâu hay mau và trong khoảng không gian xa hay gần.

(13-17) Giác (budhi), lạc, (sukha), khổ (dukïha), dục (icchà), sân (dvesïa), cần dũng (yatna): những phẩm tính này chỉ diễn ra trong liên hệ với ngã.

Tất cả 17 phẩm tính trên đây, với tư cách là cú nghĩa, chúng có thể được gọi là thực tại độc lập vì là khả tri (jnõeya) và khả thuyết (abhideya), nhưng không tồn tại biệt lập ngoài thật thể (dravya).

Về sau, con số của gunïa lên đến 24, mà người ta có thể tìm thấy trong Thắng tông thập cú nghĩa. Hệ thống song hành của Nyàya-Vaisùesïika cũng chấp nhận con số này, có thể thấy đầy đủ trong Tarkasamïraha của Annambhatïtïa. Ở đây, chúng ta không cần đi sâu vào chi tiết.

---o0o---



3. Nghiệp cú nghĩa (Karma)

Nghiệp chỉ cho tác dụng vận động của một thật thể, cũng trực thuộc và nội tại nơi một thật thể như gunïa, nhưng gunïa biểu trưng cho khía cạnh tĩnh và thường của thật thể, còn nghiệp biểu trưng cho khía cạnh động.

Có năm loại vận động tức nghiệp:

(1) Thủ (utksïepana): vận động hướng thượng;

(2) Xả (avaksïapanïa): vận động hướng hạ;

(3) Khuất (àkunõacdanïa): vận động quy tâm;

(4) Thân (prasànara): vận động ly tâm;

(5) Hành (gamana): vận động phức tạp.

Sự phân tích về năm loại nghiệp như thế là vì theo quan niệm rằng chính do nghiệp mà các nguyên tố cực vi hoặc kết hợp (samïyoga) hoặc phân ly (vibhàga) đối với nhau. Nếu xét trên bản vị không gian, thì năm loại nghiệp là năm chiều hướng tác động của các nguyên tố cực vi. Nhưng nếu xét trên bản vị thời gian, có thể coi chúng như là trình tự của vận động. Thí dụ: ở sự vận động của mũi tên. Nghiệp tối sơ, khởi đầu bằng tính cách phân ly khỏi bản vị của nó, như mũi tên được bắn ra theo chiều hướng thượng. Ngay gần phút kế tiếp, mũi tên do đoạn tuyệt với bản vị tiến hành để tiến tới, như vậy, dư lực của khởi thủy giảm dần đến lúc mũi tên được đổi chiều. Sau đó, nó nhắm đích mà lao tới. Giai đoạn cuối cùng là sự vận động ấy được coi như di chuyển từ điểm này tới điểm kia, theo nghĩa rộng, nó bao quát cả quá trình vận động.

Nếu giải thích chặt chẽ hơn, phải phân tích quá trình hoạt động diễn ra trong từng chớp nhoáng của mỗi sát na (ksïana). Thế thì, vận động đích thực diễn ra từ phân ly, đoạn tuyệt kế tục, tiến hành kế tục và đến sát na thứ năm là tựu thành quá trình vận động.

Tóm lại, đặc tính của nghiệp là tạo ra sự phân ly và kết hợp. Do phân ly và kết hợp hoặc tan rã để tạo ra mọi diễn biến của hiện tượng giới.

---o0o---



4. Đồng cú nghĩa (Sàmàya)

Cú nghĩa thứ tư, sàmàya, các nhà Phật học Trung Hoa xưa dịch là Đồng, với ý niệm là đồng chủng loại. Từ ngữ này, thường được các học giả phương Tây dịch là phổ biến thể (universal) phân biệt với đại loại (genus). Thắng luận kinh (Vaisùesïika-sùtra) định nghĩa: nityam ekam anekànuagatamï sàmànyam: đồng (sàmànyam) có ba tính chất: thường tại (nityam), đơn nhất (ekam) và biến hành (anekànugatam). Thường tại vì sự tồn tại của nó y như một yếu tính vĩnh cửu; thí dụ, con bò và yếu tính của nó (gatva). Do yếu tính này, khi con bò xuất hiện như một đối tượng của nhận thức, nó cũng được thâu nhận cùng lúc tất cả hiện hữu chỉ có bây giờ và ở đây và nó có trong mọi lúc và mọi nơi. Thứ đến là đơn nhất, vì là nhất thể của những phức thể: tất cả những con bò khác nhau đều hiện hữu trong đồng loại tính (jàti) của chúng. Do đó, loại tính chỉ có một. Sau hết là biến hành, tức là phổ biến thể (sàmanya), hiện diện (anugatam) trong từ sự thể có thể (aneka).

Sàmànya được coi như một cú nghĩa, tức thực tại, vì nó có khả năng làm đối tượng - khách quan - của nhận thức, không phải chỉ là khái niệm, khi một sự thể được trực nhận trong cá biệt tính của nó. Như thế, có hai loại đồng loại tính. Loại tính cao (parajàti) chính là hữu thể (satta). Thế nên bất cứ sự thể nào được coi là thực tại đều phải được xét như là một sự hữu (sat) hay hữu thể. Vô thể (asat) không phải là đồng loại tính, mặc dù nó thường tại, nhưng nó không hiện hữu, không bao hàm trong đó một sự thể nào. Chỉ những gì hiện hữu mới có sai biệt (aneka), do đó mới có đồng-loại-tính của những sai biệt.

Loại-tính-thấp (aparajàti) là các cú nghĩa Thực, Đức và Nghiệp, v.v... Thí dụ: Thực cú nghĩa là một sàmanya, bởi vì nó là đồng loại tính của đất, nước, v.v... Gọi là thấp, vì chúng chỉ là một sự thể có giới hạn, không bao gồm toàn diện tất cả.

Căn cứ các cú nghĩa: Đồng ở trên và Dị kế tiếp, chúng ta có thể hiểu rõ phương pháp phân loại và phân tích của Vaisùesïika trên căn bản đa nguyên thực tại luận.

---o0o---



5. Dị cú nghĩa (Visùesïa)

Xét trên phương diện luận lý, tính cách hiện hữu của một sự thể được trải ra trong hai chiều. Nếu nó được trải ra theo chiều kích bên ngoài của ngoại trương, đấy tức là Đồng-cú-nghĩa. Nếu trải ra trong chiều sự thể của nội hàm, ở đây sẽ là Dị-cú-nghĩa. Nhờ cú nghĩa này, người ta mới có sự phân biệt (vyàvàrtaka) đối với những bản thể thường tại (nityadravyavritti). Nếu không, làm thế nào để phân biệt sự này với sự khác, theo ý nghĩa phi-tha-tánh (aparatva) của nó. Những nguyên tố như đất, nước, v.v... không có gì khác nhau nơi hiện hữu của chúng, nhưng trong nhận thức, người ta biết được cá biệt thể của chúng. Dị cú nghĩa được thiết lập như một thực tại khách quan để giải quyết vấn đề đó.

Tương quan giữa đồng và dị còn cho phép người ta phân tích và phân loại các sự thể. Sự phân loại khi diễn ra ở một môi trường ngoại trương cực đại như thế còn hứa khả sự xuất hiện của những cá biệt thể như: thật, đức, nghiệp, v.v... Thêm nữa, trong chín loại thể của thật cú nghĩa, chúng xuất hiện trong môi trường ngoại trương với sự hứa khả của nội hàm nên có thể thiết lập cá biệt thể của chúng. Như vậy, theo nguyên tắc chung của luận lý, khi ngoại trương càng lớn thì nội hàm càng nhỏ. Nếu ngoại trương cực đại là hữu thể thì nội hàm sẽ là tự thể hay phi tính (aparatva), nội diễn này chính là biến dị (antya-visùesïa).

Vaisùesïika là một Đa nguyên Thực tại luận, lẽ cố nhiên không những thừa nhận dị biệt thể (visùesïa) như một thực tại khách quan, mà còn thừa nhận sự hiện hữu của vô số dị biệt thể. Vấn đề quan trọng là làm thế nào để nhận ra sự dị biệt giữa các dị biệt thể. Tác phẩm Trung luận của Long Thọ (Nàgàrjuna) hình như có đề cập đến vấn đề này. Nhưng vì luận không nêu rõ đích danh Vaisùesïika, nên chúng ta chỉ có thể xét trên bình diện tổng quát của vấn đề. Theo luận, dị biệt thể không phải là một thực tại, vì không tự hữu. Vaisùesïika thiết lập dị biệt thể bằng tính cách dị biệt trong dị biệt (sarvavyàrtarka). Nhưng với Trung luận, nếu thế thì chỉ có đồng nhất chứ không có dị biệt.

---o0o---



6. Hòa hiệp nghĩa (Sàmavàya)

Dưới quan điểm Thực tại luận, Vaisùesïika thừa nhận sự hiện hữu của các cực vi như là cá biệt. Chúng sẽ tiếp nhau qua hai phương diện. Thứ nhất, trên phương diện ngoại tại, cá biệt thể tiếp xúc nhau theo tính cách ngẫu hợp được gọi là tương ứng (samïyaga), cái này tiếp cận cái kia. Đằng khác, những thực tại cá biệt như thực thể (dravya), phẩm tính (gunïa), tác dụng (karma), v.v... khi tiếp xúc với nhau, tất cả đều y cứ nội tại: tiếp xúc nội tại hay hòa hiệp (samavàya).

Sự tiếp xúc này có tính cách bất phân (avyutasiddha: trung thành), như sự hòa hiệp giữa một sự thể với một màu sắc, đây là tương quan nhân của nó trong không gian. Thực sự, Vaisùesïika không xét tới tương quan nhân quả trong thời gian, do đó không công nhận thuyết quả có trước trong nhân như chủ trương của Số luận (Sàmïkhya). Chỉ có tương quan nhân quả độc nhất là tương quan trong không gian. Nếu xét theo thời gian, phải thừa nhận rằng kết quả là một sự thể đã có sẵn trong tiền nhân của nó.

Nhưng nếu chấp nhận như thế sẽ không phù hợp với quan điểm Đa nguyên Thực tại luận của Vaisùesïika. Tác động dẫn đến kết quả không do thế lực nội tại mà là ngoại tại, vì thực tại là những cá thể biệt lập. Như vậy, kết quả của hiện hữu này chính do tương quan hòa hiệp của các dị biệt đó, chúng hòa hiệp trong sự toàn thành bất khả ly.

---o0o---



7. Vô thể nghĩa (Abhàva)

Cú nghĩa thứ bảy này là abhàva hay vô thể. Kànada không đặt vô thể thành một cú nghĩa riêng biệt. Sáu cú nghĩa đều là tích cực. Đây là tiêu cực. Những cú nghĩa khác được coi là tuyệt đối trong khái niệm của nó. Tiêu cực hay phủ định tuyệt đối là điều không thể có, nó là một giả tưởng. Phủ định thiết yếu giả thiết một khẳng định nào đó. Vaisùesïika, với quan điểm Thực tại luận, tin tưởng rằng cũng như nhận thức khác biệt với sở tri vốn hiện hữu độc lập ngoài năng tri và nhận thức thiết yếu là trỏ vào một đối tượng nào đó; cũng như vậy, nhận thức về phủ định khác với sự thể bị phủ định và thiết yếu trỏ vào một sự thể bị phủ định nào đó. Sự vắng mặt của một vật thể và nhận thức về sự vắng mặt của nó, cả hai khác biệt nhau.

Vô thể gồm có bốn:

(1) Vô thể tiên hành (Pràgabhàva)

(2) Vô thể hậu hữu (Pradhavamïsàbhàva)

(3) Vô thể tương đãi (anyoyàbhàva)

(4) Vô thể tuyệt đãi (atyànta-bhàva)

Vô thể tiên hành là: 1. vô thể của một sự thể trước khi sanh khởi; 2. là vô thể của một sự thể sau khi hủy diệt; 3. là vô thể của một sự thể này đối với một sự thể khác nó; 4. là một ý niệm giả tưởng, là sự vắng mặt của mối quan hệ giữa hai sự thể trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Vô thể tiến hành không có khởi thủy nhưng có tận cùng. Nó tận cùng khi sự thể đã sanh khởi. Vô thể hậu hữu có khởi thủy nhưng không có tận cùng. Nó khởi thủy khi sự thể bị hủy diệt và không tận cùng vì sự thể đó không thể tái sinh thời. Vô thể tương đãi đối lập với đồng nhất tính. Nó vừa vô thủy vừa vô chung. Nếu không có vô thể tiến hành, vạn hữu trở nên vô thủy; nếu không có vô thể hậu hữu, vạn hữu trở thành vô chung. Nếu vô thể tương đãi không có, vạn hữu trở thành vô phân biệt và nếu vô thể tuyệt đối không có, vạn hữu sẽ hiện hữu mọi lúc và mọi nơi. Quan điểm về vô thể này là căn cứ trên khái niệm Bản thể luận này của Vaisùesïika.

---o0o---




tải về 1.03 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   37




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương