Tiểu luận môn họC: CÁc tổ chức thưƠng mại quốc tế



tải về 1.06 Mb.
trang7/27
Chuyển đổi dữ liệu23.05.2022
Kích1.06 Mb.
#52083
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   27
Word Nhóm NO NAME

Cấp thứ hai: Đại hội đồng
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại hội đồng, Hội đồng Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
Đại hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp thường xuyên. Đại hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO.
Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương).
Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn.
Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại hội đồng. Có ba Hội đồng Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Một hội đồng đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.
Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa.
Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ.
Hội đồng Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS3), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc thù.
Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù.
Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
1.3 Mục tiêu hoạt động và nhiệm vụ của WTO
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, thực hiện những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao mức sống của nhân dân các thành viên, đảm bảo việm làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới.
Cụ thể WTO có 3 mục tiêu sau:
Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường;
Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước đang phát triển và đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng thụ những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới;
Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
Theo đó, ta có thể thấy mục đích của Tổ chức thương mại quốc tế WTO gồm ba mục đích cơ bản là giúp cho dòng thương mại được tự do, WTO là trung tâm để giải quyết các bất đồng trong hoạt động thương mại, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế và thực hiện chức năng của trung tâm dàn xếp, thực hiện thương lượng và thỏa thuận các chính sách, quy định, quy tắc, luật chơi của thương mại, kinh doanh toàn cầu.
Tổ chức Thương mại Thế giới có nhiều nhiệm vụ khác nhau. Đây là một tổ chức nhằm mở cửa thương mại. WTO cũng là một diễn đàn để các chính phủ đàm phán các hiệp định thương mại. Nó là nơi để họ giải quyết tranh chấp thương mại. WTO còn vận hành một hệ thống các quy tắc thương mại. Về cơ bản, WTO là nơi các chính phủ thành viên cùng nhau cố gắng giải quyết các vấn đề thương mại mà họ gặp phải.
WTO được điều hành bởi các chính phủ thành viên. Tất cả các quyết định chính được đưa ra bởi toàn thể thành viên, hoặc bởi các bộ trưởng (những người thường họp ít nhất hai năm một lần) hoặc bởi các đại sứ hoặc phái viên của họ (những người họp thường xuyên ở Geneva).
Các hiệp định của WTO rất dài và phức tạp vì chúng là các văn bản pháp lý bao gồm nhiều hoạt động. Nhưng có một số nguyên tắc cơ bản, đơn giản chạy xuyên suốt tất cả các tài liệu. Những nguyên tắc này là nền tảng của hệ thống thương mại đa phương.
1.4 Nguyên tắc hoạt động của WTO
Hệ thống các hiệp định của WTO khá lớn và đồng bộ, bao quát cả một phạm vi rộng lớn các hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế. Các hiệp định đó liên quan đến thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và đầu tư quốc tế, không loại trừ các hoạt động trong nông nghiệp, hàng dệt và may mặc, ngân hàng, vô tuyến viễn thông, mua sắm của chính phủ, các tiêu chuẩn công nghiệp, các quy định về vệ sinh thực phẩm, sở hữu trí tuệ, và trong các lĩnh vực khác. Tuy vậy, các nguyên tắc cơ bản, các nguyên tắc nền tảng của thương mại, kinh doanh toàn cầu được thiết kế xuyên suốt toàn bộ các hiệp định. Có thể nêu lên một số nguyên tắc cơ bản sau đây của các chính sách, quy định, quy tắc, luật chơi của thương mại, kinh doanh toàn cầu của WTO:
Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng quốc gia trong quan hệ quốc tế – cụ thể hoá qua hai chế độ pháp lí là Đối xử Tối huệ quốc (MFN)4 và Đối xử quốc gia (NT)5 thì theo đó, thương mại thế giới phải được thực hiện một cách công bằng, không có sự phân biệt đối xử.
Chế độ MFN và chế độ NT, trên thực tế, chủ yếu áp dụng rộng rãi cho lĩnh vực thuế quan, phi thuế quan, thanh toán, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm…cả trong thương mại, đầu tư và sở hữu trí tuệ và đều có những trường hợp ngoại lệ. Tuy nhiên, hiện nay cộng đồng quốc tế đang tích cực vận động để mở rộng nguyên tắc không phân biệt đối xử cho cả thể nhân, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, thương mại dịch vụ, và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, tức là chế độ ở các lĩnh vực của một nước dành cho hàng hoá của một nước bạn hàng này tới mức nào thì cũng phải dành cho hàng hoá của các nước bạn hàng khác chế độ đãi ngộ giống như vậy, theo đó phải bình đẳng và không có sự phân biệt đối xử nào giữa các nước bạn hàng.
Các nước thành viên WTO cam kết dành cho nhau chế độ đãi ngộ quốc gia, tức là chế độ không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Cũng có nghĩa là các quốc gia có chính sách đối xử như thế nào đối với hàng hoá sản xuất trong nước, thì cũng phải đối xử như vậy đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khi hàng nhập khẩu đã được đưa vào thị trường trong nước.
Nguyên tắc mở rộng tự do hoá thương mại:
Đây là một trong các nguyên tắc minh chứng rõ nét nhất tính chất của WTO là một tổ chức đặc trưng trong xu thế toàn cầu hoá. Nguyên tắc này có thể hiểu là tự do hơn cho thương mại, kinh doanh quốc tế, cắt giảm dần từng bước hàng rào thuế quan và phi thuế quan từ đó tạo điều kiện cho việc xóa bỏ hoàn toàn và mở đường cho thương mại phát triển trong tương lai. Tự do hóa thương mại từng bước gắn với việc dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại thông qua đàm phán song phương và đa phương phù hợp với luật lệ và khả năng cụ thể của từng nước. Trên thực tế, hầu hết các nước đều hưởng ứng chủ trương tự do hóa thương mại từng bước của WTO, dựa vào đó để tranh thủ khả năng và cơ hội hợp tác, liên kết kinh tế ở các mức độ khác nhau, tham gia vào phân công lao động quốc tế từ đó thâm nhập vào thị trường quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Theo đó, WTO chủ trương không hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu giữa các nước thành viên thông qua tự do hóa thương mại từng bước. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng chế độ hạn chế số lượng hàng hóa nhập khẩu được WTO cho phép trong trường hợp nước đó đang gặp những khó khăn về cán cân thanh toán, hoặc do trình độ phát triển thấp của nền kinh tế trong nước, hoặc vì những lý do về môi trường, an ninh quốc gia.
Nguyên tắc ổn định trong hoạt động thương mại, kinh doanh quốc tế
WTO chủ trương thương mại quốc tế phải được tiến hành trên cơ sở ổn định, minh bạch, công khai, không ẩn ý nhờ vào các cam kết thương mại quốc tế có tính ràng buộc và chính sách, pháp luật thương mại quốc gia minh bạch, công khai. Thực tế, có lẽ đôi khi lời hứa không tăng thêm rào cản cũng quan trọng không kém lời hứa giảm rào cản thương mại, bởi vì điều này giúp doanh nghiệp thấy được rõ hơn khả năng phát triển kinh doanh của mình trong tương lai. Chính sách và pháp luật thương mại ổn định và minh bạch, công khai sẽ khuyến khích đầu tư, tạo công ăn việc làm; người tiêu dùng cũng tận dụng được nhiều lợi thế nhờ tự do cạnh tranh, có thêm nhiều cơ hội lựa chọn và được hưởng một mức giá thấp. Hệ thống thương mại đa biên cụ thể hoá những nỗ lực của các nước thành viên nhằm tạo một môi trường thương mại ổn định và dễ dự báo các rủi ro thương mại cho bất cứ đối tác nào tham gia quan hệ thương mại quốc tế.
Theo nguyên tắc nói trên, mọi chế độ pháp lý, chính sách thương mại của quốc gia phải được công bố công khai cho mọi người, ổn định trong một thời gian dài và có thể dự báo trước những rủi ro thương mại có thể xảy ra. Nếu quốc gia thay đổi chế độ pháp lý, chính sách thương mại của mình thì phải thông báo trước cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có đủ thời gian nghiên cứu, góp ý, phản ánh nguyện vọng của họ trước khi đưa chế độ pháp lý, chính sách đã thay đổi đó ra áp dụng.
WTO đã có nhiều nỗ lực trong sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm tăng cường tính minh bạch, công khai và ổn định của thương mại. Rất nhiều hiệp định của WTO yêu cầu các nước thành viên công bố trên phạm vi toàn quốc hoặc thông báo cho WTO những chính sách, pháp luật thương mại quốc gia được thông qua. Theo cơ chế thực thi nguyên tắc này, WTO thường xuyên giám sát chính sách, pháp luật thương mại của từng nước thành viên thông qua Cơ chế Rà soát chính sách, pháp luật thương mại nhằm tăng cường tính minh bạch trên cả bình diện quốc gia lẫn bình diện quốc tế
Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
WTO luôn chủ trương tăng cường cạnh tranh lành mạnh, công bằng trong thương mại quốc tế, để cho chất lượng, giá cả quyết định vận mệnh của hàng hoá trong cạnh tranh thương trường; không được dùng quyền lực Nhà nước để áp đặt, bóp méo tính lành mạnh, công bằng của cạnh tranh trên thương trường quốc tế. Đôi khi có người hiểu nhầm WTO là một tổ chức hợp tác kinh tế có thể hỗ trợ cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển trong thương mại quốc tế toàn cầu. Cũng có người mô tả WTO như là một chế định thương mại tự do mà ở đó ai cũng có thể tuỳ cơ mua bán. Điều đó hoàn toàn không chính xác. Hệ thống này cho phép áp dụng thuế quan đối với hàng hoá, thậm chí trong một số trường hợp nhất định, nó còn cho phép áp dụng một số biện pháp và cách thức bảo hộ khác nhau. Như vậy, nếu nói chính xác hơn thì WTO chính là một hệ thống những quy tắc, luật lệ nhằm bảo đảm cạnh tranh rộng mở, lành mạnh và không có sai phạm luật chơi chung. Những quy định liên quan đến nguyên tắc không phân biệt đối xử cũng nhằm mục tiêu bảo đảm để có những điều kiện tốt cho thương mại bình đẳng. Và điều này cũng có mục đích tương tự như những quy định về việc bán phá giá (xuất khẩu với giá thấp hơn giá trị bình thường của sản phẩm nhằm chiếm thị phần) và trợ cấp. Đối với những vấn đề phức tạp như thế này, các quy định của WTO giúp xác định trường hợp nào là thương mại không lành mạnh và chính phủ các nước có thái độ như thế nào cho thích hợp. Nguyên tắc tăng cường cạnh tranh lành mạnh đã được WTO nhấn mạnh trong các lĩnh vực khác nhau của thương mại hàng hoá như quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp Nhà nước; quyền cấp giấy kinh doanh xuất, nhập khẩu; cấp hạn ngạch; trợ cấp; bán phá giá; quản lý ngoại hối; quản lý giá và các hoạt động trong lĩnh vực phi thuế quan khác. WTO cũng có nhiều hiệp định khác nhau trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ nhằm tăng cường cạnh tranh lành mạnh. Hiệp định về mua sắm chính phủ là một trong các hiệp định nhiều bên tuỳ nghi mở ra cho các thành viên tham gia quy định về cách cạnh tranh đối với những thị trường có sự tham gia của hàng nghìn thực thể có tư cách pháp lý khác nhau.
Nguyên tắc ưu đãi cho các nước phát triển
Nguyên tắc này còn được hiểu là việc giành điều kiện thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển và chậm phát triển và khuyến khích các nước đó phát triển và cải cách kinh tế. WTO đã tính tới đặc điểm phát triển của các nước thành viên nên đã có các quy định nhằm tạo thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển như giành thêm một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ về thương mại.
Với 2/3 thành viên là các quốc gia đang phát triển và các quốc gia có nền kinh tế chuyền đổi, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển cùa mình, WTO đã tính tới đặc điểm của các nước này nên đã có những quy định tạo điều kiện thuận lợi hơn đối với các nước đang phát triển như dành thêm một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ. Nguyên tắc này được thể hiện rõ nét nhất bằng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) dành cho các nước đang và kém phát triển
1.5 Tư Cách Thành viên WTO
Tuy là một tổ chức quốc tế liên chính phủ nhưng thành viên của WTO không chỉ có các quốc gia có chủ quyền mà cả những lãnh thổ riêng biệt, ví dụ như EU, Hồng Công, Macao.
Có hai loại thành viên theo quy định của Hiệp định về WTO: thành viên sáng lập và thành viên gia nhập. Thành viên sáng lập là những nước là một bên ký kết GATT 1947 và phải ký, phê chuẩn Hiệp định về WTO trước ngày 31-12-1994 (tất cả các bên ký kết GATT đều đã trở thành thành viên sáng lập của WTO). Thành viên gia nhập là các nước hoặc lãnh thổ gia nhập hiệp Hiệp định WTO sau ngày 1-1-1995 các nước này đều phải đàm phán về các điều kiện gia nhập với tất cả các nước đang là thành viên của WTO và quyết định gia nhập phải được Ðại hồi đồng WTO bỏ phiếu thông qua với ít nhất hai phần ba số phiếu thuận.
Khác với việc gia nhập, việc rút khỏi WTO phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định riêng của từng nước. Ðiều XV Hiệp định về WTO quy định việc rút khỏi WTO bao hàm cả việc rút khỏi tất cả các hiệp định thương mại đa phương và sẽ có hiệu lực sau 6 tháng kể từ ngày WTO nhận được thông báo bằng văn bản về việc rút. Thượng viện Mỹ khi bỏ phiếu cho phép Tổng thống phê chuẩn Hiệp định WTO đã thông qua quyết định về việc nước này sẽ rút khỏi WTO nếu một ủy ban đặc biệt bao gồm 5 cựu thẩm phán liên bang của Mỹ kết luận rằng Mỹ đã bị Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO xử cho thua một cách “phi lý” hoặc các quyền lợi cơ bản (substantial) của Mỹ đã bị ''vi phạm” trong 3 quyết định liên tiếp của cơ quan này. Việc EU rút khỏi WTO phức tạp hơn vì Ủy ban châu Âu (Cơ quan hành pháp của Liên minh châu Âu) không có thẩm quyền thay mặt tất cả các nước thành viên EU để ra một quyết định. Ðây là một vấn đề còn đang tranh cãi giữa các chuyên gia pháp lý của EU. Một số cho rằng EU chỉ có thể rút khỏi WTO khi tất cả các nước thành viên EU đều rút khỏi tổ chức này. Một số khác cho rằng chỉ cần một hoặc một số thành viên chủ chốt của EU như Ðức, Pháp, Anh... rút khỏi WTO cũng đủ để cho EU không còn tư cách đại diện cho 15 nước thành viên tại tổ chức này.
Ngân sách hoạt động của WTO do tất cả các nước thành viên đóng góp trên cơ sở tương ứng với phần của mỗi nước trong thương mại quốc tế. Tỷ lệ đóng góp tối thiểu là 0,03 % ngân sách của WTO.
Điều XI Hiệp định thành lập WTO quy định vấn đề tư cách thành viên sáng lập WTO của những nước tham gia GATT và Cộng đồng Châu Âu và quy chế thành viên của các nước chậm phát triển nhất (LDCs). Tuy vậy, trong thực tiễn hoạt động của WTO, công việc của WTO được thực hiện bởi các đại diện của các nước thành viên mà hoạt động hàng ngày chủ yếu giải quyết các vấn đề công nghiệp và thương mại. Các chính sách thương mại và vị thế thương thuyết lại được quyết định tại thủ đô của các nước thành viên với ý kiến tư vấn chủ yếu là của các doanh nghiệp khác nhau, các nhóm lợi ích kinh tế khác nhau và của người tiêu dùng. Tuy vậy, một số vấn đề thương mại phức tạp nhất trong thực tiễn WTO chỉ có thể giải quyết được khi có sự dàn xếp đàm phán ổn thoả giữa bốn nước thành viên lớn nhất của WTO là Hoa kỳ, EU, Nhật bản và Canađa. Bốn nước này thường có tên gọi là “Tứ trụ triều đình thương mại toàn cầu” hoặc Bộ tứ (“Quadrilaterals”/“Quad”). Phần lớn các nước đều có đại diện ngoại giao- thương mại tại Geneva (nơi đặt trụ sở của WTO), có nước có cả đại sứ đa biên tại WTO. Các quan chức này làm việc nhiều với nhau và với quan chức của Tổ chức WTO tại trụ sở WTO. Đại diện Chính phủ hoặc chuyên viên các nước thành viên thường được phái đến trụ sở WTO để tham gia thương lượng, trao đổi ý kiến và giải trình quan điểm, chính sách nước mình về các vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động và cam kết ở WTO. Do quá trình liên kết kinh tế - hải quan khu vực và toàn cầu nên đã xuất hiện trường hợp một số nước chỉ cử một đại diện chung cho nhóm nước mình tham gia tại WTO.
1.6 Hình Thức Thông Qua quyết định
Về phương diện ra quyết định, WTO là một tổ chức kinh tế quốc tế liên chính phủ khác với một số tổ chức khác. Về nguyên tắc, các quyết định lớn và quan trọng nhất của WTO do chính phủ tất cả các nước thành viên thông qua, hoặc ở cấp bộ trưởng tại Hội nghị Bộ trưởng hoặc ở cấp Đại sứ tại Đại hội đồng WTO. Tất cả các quyết định này thông thường được thông qua trên cơ sở đồng thuận. Khác với IMF6 hoặc WB7, Ban Thư kư hoặc Tổng giám đốc WTO không được các nước thành viên chuyển giao thực hiện những quyền lực quan trọng và quan điểm của WTO không ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách thương mại của các nước thành viên (đây là sự khác nhau cơ bản giữa WTO và IMF hoặc WB). Những nghĩa vụ trong WTO là kết quả của các cuộc đàm phán thương mại đa phương trên cơ sở nhân nhượng và thỏa hiệp giữa tất các nước.Việc không thực hiện một nghĩa vụ trong WTO, trong trường hợp xấu nhất chỉ có thể dẫn đến việc nước bị thiệt hại có quyền yêu cầu WTO cho phép áp dụng các biện pháp trả đũa nhưng phải tương ứng với mức độ thiệt hại mà nước này đă phải chịu. Nếu so sánh với các biện pháp chế tài của IMF hoặc WB th́ì có thể nói là “kỷ luật tập thể” ở WTO,nói chung vẫn c̣òn ''mềm'' và “nhẹ'' hơn.
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) họp 2 năm một lần dưới hình thức Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên. Ngoài các cuộc họp của Hội nghị bộ trưởng, còn có các cuộc họp của Ðại hội đồng. 
Trong các cuộc họp của WTO, việc ra quyết định được tiến hành trên cơ sở đồng thuận. Ðây là một thông lệ của GATT 1947 (tổ chức tiền thân của WTO) trước kia và được WTO tiếp tục sử dụng.
chế đồng thuận khác với cơ chế biểu quyết. Ở cơ chế biểu quyết (có thể biểu quyết bằng bỏ phiếu, bằng giơ tay, bằng ấn nút điện tử...) quyết định được thông qua kể cả khi không có được 100% số phiếu tán thành, mà tuỳ theo quy định của mỗi tổ chức, mỗi cuộc họp, khi đạt được một tỷ lệ phiếu thuận (tán thành) nhất định thì quyết định đã được thông qua. 
Ðồng thuận là cơ chế ra quyết định mà tại thời điểm thông qua quyết định đó không có thành viên nào (có mặt tại phiên họp) chính thức phản đối quyết định được dự kiến. Ví dụ, tại thời điểm 12-2005, WTO có 148 thành viên, nếu Hội nghị bộ trưởng họp và ra một quyết định nào đó, quyết định được thông qua nếu tất cả 148 nước thành viên đều không phản đối về quyết định đó thì gọi là đồng thuận. 
Đồng thuận cũng khác với nhất trí. Nhất trí là biểu quyết với 100% tán thành, tức là đạt được 100% số phiếu thuận. 
Nếu không thể đạt được một quyết định trên cơ sở đồng thuận thì vấn đề cần giải quyết sẽ được quyết định bằng hình thức bỏ phiếu. Tại các cuộc họp của Hội nghị bộ trưởng và Ðại hội đồng, mỗi thành viên của WTO có một phiếu. Cộng đồng châu Âu thực hiện quyền bỏ phiếu thì họ sẽ có số phiếu tương đương với số lượng thành viên của cộng đồng là thành viên của WTO. 
Các quyết định của Hội nghị bộ trưởng và Ðại hội đồng được thông qua trên cơ sở đa số phiếu. 
Để tiếp tục thực hiện mục tiêu chung của GATT trước đây, WTO đã xác định ba mục tiêu cụ thể: 

  • Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới.

  • Giải quyết các bất đồng, tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương.

  • Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên.

CHƯƠNG II. CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ CƠ CHẾ XEM XÉT LẠI CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA WTO



    1. Cơ Chế Giải Quyết Tranh Chấp WTO

2.1.1. Hệ thống giải quyết tranh chấp – từ GATT đến WTO
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, được vận hành từ ngày 01/01/1995 đến nay, tuy nhiên đó thực chất lại không phải là hệ thống mới. Hệ thống này được xây dựng trên cơ sở hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947. Trong suốt gần 50 năm trước khi WTO ra đời, hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947 được vận hành chỉ dựa trên hai điều khoản ngắn gọn – Điều XXII và Điều XXIII GATT 1947, cùng với một số nguyên tắc cũng như thông lệ đã được hệ thống hoá trong các quyết định và thoả thuận của các bên kí kết GATT 1947. Vì vậy, rất dễ hiểu khi hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT đã không thể đưa ra những thủ tục cụ thể để giải quyết các tranh chấp một cách hiệu quả. Hơn thế nữa, hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947 còn có một vài điểm hạn chế khá đáng kể, dẫn đến việc nảy sinh những vấn đề phức tạp vào những năm 1980. Do đó, rất nhiều bên kí kết của GATT 1947, trong đó có thể kể đến các DCs và các nước phát triển, đều nhận thấy rằng cần phải có sự thay thế hệ thống giải quyết tranh chấp của GATT 1947, vốn đã lạc hậu, đơn giản, được vận hành dựa trên sức mạnh, và giải quyết các tranh chấp chủ yếu thông qua các cuộc đàm phán mang tính ngoại giao, bằng một hệ thống cụ thể và được vận hành dựa trên các quy tắc để giải quyết các tranh chấp thông qua việc xét xử. Trên cơ sở đó, sau các cuộc tranh luận kéo dài, một hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, được đàm phán trong khuôn khổ Vòng đàm phán Uruguay, đã được thiết lập. Hệ thống này được hình thành chủ yếu nhằm đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh chóng giữa các thành viên WTO liên quan đến các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của WTO, cũng như nhằm mục đích bảo vệ an ninh và cung cấp khả năng có thể dự đoán của hệ thống thương mại đa phương. Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO được vận hành dựa trên các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc “đồng thuận nghịch”, nguyên tắc bí mật trong tố tụng, nguyên tắc bình đẳng trong giải quyết tranh chấp và nguyên tắc dành sự đối xử đặc biệt cho các thành viên DCs.
Mặc dù hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng dựa trên cơ sở các quy định và thực tiễn giải quyết tranh chấp của GATT 1947, nhưng nó lại đem đến một số thay đổi rất đáng kể, đó là:
– Sự xuất hiện của nguyên tắc “đồng thuận nghịch”;
– Việc đẩy nhanh các thủ tục với những khung thời hạn cụ thể cho các hoạt động tố tụng tại WTO;
– Bổ sung thủ tục phúc thẩm nhằm mang lại cho các bên tranh chấp cơ hội tiếp theo để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mình theo quy định của WTO;
– Bổ sung tính bắt buộc và xây dựng cơ chế thực thi nhằm đảm bảo tốt hơn việc bảo vệ quyền lợi cho các thành viên WTO.
Bên cạnh những thành công đáng kể, hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, đồng thời nảy sinh một số vấn đề thực tiễn mới cần phải được giải quyết thông qua đàm phán trong khuôn khổ WTO, có thể kể đến như vấn đề về khả năng và tính hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp trả đũa, về phạm vi xem xét phúc thẩm, cũng như việc áp dụng các biện pháp tạm thời, đệ trình các văn bản điện tử. Các thành viên WTO cũng đã nhất trí việc tiến hành đàm phán nhằm cải tiến và làm rõ các quy định của DSU8. Trên thực tế, các cuộc đàm phán để rà soát và sửa đổi DSU đã diễn ra từ năm 1998 nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt được bất kì thoả thuận nào.
2.1.2. Hiệp định về giải quyết tranh chấp của WTO (DSU)
Hiệp định về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp, thường được gọi là Hiệp định về giải quyết tranh chấp hay DSU, thường được xem như là một trong những thành công đáng kể nhất của Vòng đàm phán Uruguay. DSU đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp duy nhất áp dụng cho tất cả các hiệp định của WTO được liệt kê trong Phụ lục 1 của DSU, bao gồm Hiệp định thành lập WTO; 12 hiệp định đa phương trong lĩnh vực thương mại hàng hoá; Hiệp định GATS; Hiệp định TRIPS; Hiệp định về mua sắm chính phủ; Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng; và chính DSU.
Về cấu trúc, DSU gồm có 27 điều và 4 phụ lục. DSU quy định về phạm vi thẩm quyền và chức năng cơ bản của các thiết chế trong việc giải quyết tranh chấp tại WTO. Bốn phụ lục của DSU đã cụ thể hoá các hiệp định có liên quan; phân nhóm các quy tắc và thủ tục đặc biệt và bổ sung được quy định trong các hiệp định có liên quan; quy định những thủ tục làm việc cơ bản và kế hoạch làm việc dự kiến của Ban hội thẩm và đưa ra những quy tắc và thủ tục được áp dụng cho bất kì nhóm chuyên gia rà soát nào có thể được thành lập bởi Ban hội thẩm.
2.1.3. Các cơ quan của WTO tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp
Các cơ quan chính của WTO tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp đó là: Cơ quan giải quyết tranh chấp (viết tắt là ‘DSB9’), Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm, Tổng giám đốc và Ban thư kí của WTO, các trọng tài viên, các chuyên gia độc lập và các cơ quan chuyên môn khác. Nội dung của mục này chủ yếu trình bày về DSB, Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm.
Đại hội đồng sẽ thực hiện nhiệm vụ của mình theo quy định của DSU thông qua DSB. Giống như Đại hội đồng, DSB là cơ quan chính trị bao gồm đại diện của tất cả các thành viên WTO. Theo khoản 1 Điều 2 DSU, DSB có thẩm quyền thành lập Ban hội thẩm để giải quyết tranh chấp, thông qua các báo cáo của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm, duy trì sự giám sát việc áp dụng các phán quyết và khuyến nghị mà cơ quan này thông qua và cho phép đình chỉ các nhượng bộ và các nghĩa vụ khác theo các hiệp định có liên quan, nếu các phán quyết và khuyến nghị đó không được các thành viên thực hiện trong khoảng thời gian hợp lí. DSB có một Chủ tịch riêng, thường là người đứng đầu của phái đoàn thường trực tại Geneva của một trong các thành viên và được hỗ trợ bởi Ban thư kí WTO.
Ban hội thẩm là một cơ quan bán tư pháp và độc lập, do DSB thành lập để xem xét các tranh chấp không thể giải quyết được ở giai đoạn tham vấn. Khoản 1 Điều 6 của DSU quy định rằng Ban hội thẩm được thành lập chậm nhất là vào ngày cuộc họp tiếp theo của DSU, mà tại đó yêu cầu thành lập Ban hội thẩm lần đầu tiên được đưa ra như một nội dung trong chương trình nghị sự của DSB, trừ trường hợp tại cuộc họp đó, DSB quyết định trên cơ sở đồng thuận không thành lập Ban hội thẩm. Mỗi Ban hội thẩm thường bao gồm ba, trong trường hợp đặc biệt là năm chuyên gia có trình độ và độc lập được lựa chọn trên cơ sở “ad hoc”10 (theo từng vụ việc). Theo khoản 10 Điều 8 DSU, trong trường hợp tranh chấp xảy ra giữa một thành viên DC và một thành viên phát triển, nếu thành viên DC có yêu cầu thì trong thành phần Ban hội thẩm sẽ phải có ít nhất một hội thẩm viên là công dân của một thành viên DC. Chức năng của Ban hội thẩm là đưa ra các đánh giá khách quan về cả nội dung sự kiện và nội dung pháp luật của vụ việc, và đệ trình một báo cáo lên DSB, trong đó Ban hội thẩm đưa ra các kết luận của mình bao gồm cả những khuyến nghị, trong trường hợp phát hiện có sự vi phạm nghĩa vụ của một thành viên WTO.
Cơ quan phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai và cũng là cấp xét xử cuối cùng của hệ thống giải quyết tranh chấp. Giống như Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm là cơ quan bán tư pháp và độc lập, nhưng khác với Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm là cơ quan thường trực bao gồm bảy thành viên, trong đó mỗi thành viên có nhiệm kì bốn năm và có thể được tái bổ nhiệm một lần. Theo khoản 3 Điều 17 DSU, các thành viên Cơ quan phúc thẩm phải là những người có uy tín, có kinh nghiệm chuyên môn về pháp luật, về thương mại quốc tế và những lĩnh vực thuộc diện điều chỉnh của các hiệp định nói chung; đồng thời họ cũng không được liên kết với bất kì chính phủ nào. Trong trường hợp có kháng cáo đối với báo cáo của Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm sẽ tiến hành xem xét lại các nội dung pháp luật bị kháng cáo và đệ trình báo cáo lên DSB, trong đó Cơ quan phúc thẩm có thể giữ nguyên, hủy bỏ hoặc sửa đổi kết luận của Ban hội thẩm, nhưng chỉ trong phạm vi các nội dung pháp lí đã được nêu và việc giải thích pháp luật. Một điều cần lưu ý là trong các kết luận và khuyến nghị của mình, Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm không thể bổ sung hay hạn chế các quyền và nghĩa vụ của bất cứ thành viên WTO nào được quy định trong các hiệp định có liên quan.
Ngoài ba cơ quan nêu trên, trong khuôn khổ WTO, còn có một số cơ quan khác cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp, như Tổng giám đốc và Ban thư kí của WTO, các trọng tài viên, các chuyên gia độc lập và các cơ quan chuyên môn.
2.1.4. Các bên tham gia vào hệ thống giải quyết tranh chấp
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là cơ chế giải quyết giữa chính phủ với chính phủ, vì vậy chỉ các thành viên WTO mới có thể sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO với tư cách là các bên tranh chấp hoặc các bên thứ ba. Do đó, bất kì ngành kinh tế hoặc cá nhân của một thành viên WTO muốn sử dụng hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO để chống lại chính phủ của thành viên WTO khác thì trước hết, họ phải thuyết phục được chính phủ nước mình đệ đơn khởi kiện chống lại thành viên WTO khác đó. Điều đó cũng có nghĩa rằng, Ban thư kí WTO, các quan sát viên của WTO, các tổ chức quốc tế khác và các chính quyền địa phương, nếu không phải là thành viên của WTO, thì không có quyền đề xuất khởi xướng các thủ tục giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO. Tương tự, các tổ chức phi chính phủ (viết tắt là ‘NGOs’) cũng không có quyền này. Các NGOs không có quyền tham gia trực tiếp vào hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO, nhưng họ có thể có vai trò trong tiến trình giải quyết tranh chấp của WTO bằng cách đệ trình các ý kiến theo hình thức ‘amicus curiae’ tới Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm.
2.1.5. Các phương thức giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO
Cần lưu ý rằng sự tham gia của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm không phải là cách thức duy nhất để giải quyết tranh chấp giữa các thành viên WTO. Trong khuôn khổ WTO, các bên tranh chấp có thể lựa chọn nhiều phương thức khác nhau, ngoài việc sử dụng Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Những phương thức khác đó bao gồm tham vấn; môi giới, hoà giải và trung gian; trọng tài. Trong nhiều trường hợp, các bên lại thích sử dụng các phương thức nêu trên hơn là phải viện dẫn đến sự phân xử của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các bên có thể tiến hành việc giải quyết tranh chấp theo bất cứ cách thức nào mà các bên mong muốn, mặc dù việc tìm ra giải pháp được chấp nhận chung luôn là ưu tiên của hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. Khi sử dụng những phương thức khác, theo quy định của DSU, các bên phải bảo đảm sự tin cậy và không được xâm phạm đến quyền của bất kì thành viên WTO nào khác.
Tham vấn là phương thức trong đó các bên tự thương lượng với nhau để đưa ra giải pháp thống nhất nhằm giải quyết tranh chấp. Tham vấn có thể là ‘một phương thức giải quyết tranh chấp thay thế’, như phương thức thương lượng, hoặc có thể là ‘một giai đoạn bắt buộc’ trong quy trình giải quyết tranh chấp của WTO – giai đoạn luôn phải tiến hành trước khi bước sang giai đoạn xét xử. Trong trường hợp đó, nếu việc tham vấn không giải quyết được tranh chấp, thì bên nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập Ban hội thẩm.
Môi giới, hoà giải và trung gian là các thủ tục tự nguyện và đòi hỏi phải có sự chấp thuận của các bên tham gia. Theo khoản 3 Điều 5 của DSU, những phương thức nêu trên có thể được một thành viên yêu cầu vào thời điểm bất kì và về bất cứ vấn đề tranh chấp nào. Các phương thức này cũng có thể kết thúc vào bất kì thời điểm nào, và khi kết thúc, bên nguyên đơn có quyền yêu cầu thành lập Ban hội thẩm. Trong trường hợp các bên chấp thuận, các thủ tục môi giới, hoà giải hoặc trung gian có thể được tiếp tục ngay cả khi Ban hội thẩm đang tiến hành các thủ tục tố tụng.
Trọng tài có thể được sử dụng như phương thức giải quyết tranh chấp thay thế nhằm tìm ra giải pháp cho các tranh chấp cụ thể giữa các thành viên WTO liên quan đến các vấn đề đã được các bên tranh chấp xác định rõ ràng. Theo Điều 25 của DSU, nếu các bên quyết định sử dụng trọng tài, thì các bên sẽ phải tuân thủ các thủ tục cụ thể mà họ đã thống nhất, đồng thời phải tuân thủ các phán quyết của trọng tài. Tuy nhiên, điều cần thiết là phải phân biệt giữa thủ tục trọng tài theo Điều 25 DSU và thủ tục trọng tài khác, được quy định tại khoản 3 Điều 21 và khoản 6 Điều 22 của DSU, vốn không phải là “phương thức giải quyết tranh chấp thay thế”.
2.2 Cơ chế xem xét lại chính sách thương mại WTO
Một trong những yêu cầu cơ bản đối với những công ty tham gia vào thương mại quốc tế là tính ổn định và tính có thể dự đoán trước về chính sách và hệ thống pháp lý thương mại của các nước.
Trong WTO, hai mục tiêu này được thực hiện thông qua cơ chế xem xét lại chính sách thương mại (Trade Policy Review Mechanism, TPRM)11 đạt được tại Vòng đàm phán Urugoay và đã được áp dụng tạm thời từ năm 1989 theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng đánh giá giữa kỳ tại Montréal, Canađa. Nội dung chính của TPRM là định kỳ xem xét, đánh giá lại chính sách và thực tiễn thương mại của tất cả các thành viên WTO. Việc kiểm điểm thực hiện theo nguyên tắc nước tranh chấp có vị trí càng quan trọng trong thương mại quốc tế thì càng phải kiểm điểm thường xuyên hơn các nước thành viên khác. Vì vậy, bốn cường quốc thương mại lớn nhất thế giới là Liên minh châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada sẽ kiểm điểm hai năm/lần, 16 thành viên xếp tiếp theo đó sẽ kiểm điểm bốn năm/lần. Trung bình một năm có khoảng 20 nước phải kiểm điểm chính sách thương mại.
Cơ chế xem xét lại chính sách thương mại khác với cơ chế giải quyết tranh chấp là không có quyền cưỡng chế hoặc giải thích các điều khoản của các hiệp định của WTO. Mục đích của TPRM là thông qua cơ chế kiểm điểm giúp các thành viên tuân thủ các luật lệ, quy định của WTO và các cam kết riêng của mình. Đồng thời, nhân dịp kiểm điểm này, các nước thành viên có cơ hội giải thích và làm cho các thành viên khác hiểu biết hơn về chính sách và thực tiễn thương mại của nước mình cũng như về những khó khăn mà nước mình có thể gặp phải khi thực hiện các cam kết của mình.
Việc xem xét lại chính sách thương mại được tiến hành trên cơ sở hai báo cáo, một do Ban Thư ký WTO soạn thảo và một do nước kiểm điểm soạn thảo. Báo cáo của Ban Thư ký được soạn theo mẫu bao gồm phần “Nhận xét khái quát” và luôn hướng về (i) môi trường kinh tế, (ii) các khía cạnh thể chế và ra quyết định về thương mại và đầu tư. (iii) các biện pháp thực hiện chính sách; và (iv) thưc tiến thương mại trong từng lĩnh vực. Để đảm bảo tính đúng đắn về những thông tin nêu trong báo cáo, Ban Thư ký sẽ cử một đoàn quan chức đi thăm nước kiểm điểm để thảo luận và kiểm tra lại các số liệu và thông tin có liên quan đến chính sách thương mại của nước này
Báo cáo của nước kiểm điểm có tên gọi là “Tuyên bố về chính sách” (Policy Statement) có nội dung chính là giới thiệu khái quát về những mục tiêu và phương hướng chính trong chính sách thương mại của mình và đánh giá về triển vọng trong tương lai. Hai báo cáo nói trên sẽ được các thành viên WTO xem xét, thảo luận tại phiên họp của Cơ quan Kiểm điểm. Nước kiên: điểm sẽ phải trả lời hoặc giải thích về những điểm nêu trong báo cáo của Ban Thư ký. Phần nhận xét khái quát trong báo cáo của Ban Thư ký và kết luận cuối cùng của chủ tịch phiên họp được công bố công khai và đưa lén trang chủ của WTO trên Internet.
TPRM đóng một vai trò rất quan trọng trong hệ thống thương mại đa phương. TPRM được coi là diễn đàn duy nhất, nơi tất cả các thành viên phải định kỳ “tự kiểm điểm” về chính sách và thực tiến thương mại của mình trước tất cả các thành viên khác. TPRM cũng là cơ hội để nhận sự trợ giúp kỹ thuật của Ban Thư ký WTO, tìm hiểu về các chính sách thương mại của các thành viên khác. TPRM cũng giúp các thành viên thúc đẩy các cải cách thương mại cần thiết nhân dịp kiểm điểm việc thực hiện những cam kết thương mại.
TPRM cùng thúc đẩy quá trình minh bạch hoá trong việc ra quyết định và luật lệ và thương mại tại các nước thành viên. Tuy nhiên, Hiệp định về TPRM cũng nói rõ “minh bạch hoá” là vấn đề chính trị nội bộ của mỗi nước và phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, có tính đến sự khác biệt về hệ thống chính trị và luật pháp của từng nước thành viên.
CHƯƠNG III. NỘI DUNG CHÍNH CÁC HIỆP ĐỊNH WTO
3.1 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT-1994
- Thực hiện nguyên tắc đối xử “Tối huệ quốc” (MFN) đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước khác nhau và nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) đối với hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước
- WTO thừa nhận thuế quan (thuế nhập khẩu) là biện pháp bảo hộ thị trường nội địa duy nhất được áp dụng
- Các nước thuộc WTO phải giảm thuế quan và không tăng thuế nhập khẩu để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại
- Giảm hàng rào phi thuế quan như: giấy phép, hạn ngạch,…
- Công nhận quyền kinh doanh xuất nhập khẩu
- Hạn chế trợ cấp tràn lan của Chính phủ và chống bán phá giá làm sai lệch thương mại
- Quy định giá trị thuế quan và giá giao dịch thực tế chứ không phải là giá do các cơ quan nhà nước áp đặt
- WTO cho phép các nước thành viên được duy trì doanh nghiệp thương mại nhà nước, với điều kiện các nước này phải hoạt động trên cơ chế thị trường
- Các nước của WTO được áp dụng các biện pháp bảo vệ tạm thời:
+ Nếu nước xuất khẩu bán phá giá thì có quyền chống bán phá giá
+ Nếu có trợ cấp thì áp dụng thuế đối kháng
+ Nếu nhập khẩu ồ ạt thì áp dụng biện pháp tự vệ khẩn cấp
- Hiệp định dệt may ATC12: bỏ hạn ngạch dệt may cho các nước là thành viên của WTO
3.2 Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)
Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) là tập hợp đầu tiên và duy nhất những quy định đa biên điều chỉnh thương mại dịch vụ thế giới. Được đàm phán trong vòng Uruguay, hiệp định được soạn thảo trong bối cảnh ngành dịch vụ đạt mức tăng trưởng nhanh chóng trong vòng 30 năm qua và đang có thêm nhiều tiềm năng phát triển nhờ cuộc cách mạng thông tin.
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ bao gồm các phần sau đây: văn bản chính của hiệp định nêu ra những nghĩa vụ và quy định chung, phần phụ lục bao gồm các quy định được áp dụng cho các lĩnh vực khác nhau và các cam kết cụ thể của các nước nhằm đảm bảo mở cửa thị trường nội địa, kể cả những chỉ dẫn đối với trường hợp các nước tạm thời từ bỏ nguyên tắc không phân biệt đối xử, nền tảng của điều khoản tối huệ quốc.

tải về 1.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   27




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương