TIỂu ban môi trưỜng (35 báo cáo)


Nghiên cứu sử dụng mô hình ISC3 trong đánh giá ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội do các nguồn thải công nghiệp



tải về 365.24 Kb.
trang7/13
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích365.24 Kb.
#31064
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   13

13. Nghiên cứu sử dụng mô hình ISC3 trong đánh giá
ô nhiễm môi trường không khí ở Hà Nội
do các nguồn thải công nghiệp

Phạm Thị Việt Anh, Phạm Thị Thu Hà, Cấn Anh Tuấn


Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN

Bài báo giới thiệu những kết quả nghiên cứu ban đầu về đánh giá và dự báo mức độ ô nhiễm không khí do các nguồn thải công nghiệp gây ra cho khu vực thành phố Hà Nội ( cũ) theo số liệu năm 2007 và theo các kịch bản khác nhau. Kết quả tính toán cho thấy, một số khu vực ở Hà Nội đã bị ô nhiễm TSP, đặc biệt là các vùng xung quanh khu công nghiệp Thượng Đình, Vĩnh Tuy - Mai Động. Giá trị cực đại của TSP trung bình 1giờ ở những khu vực này tương đối cao , có thể >2-4 lần Qui chuẩn cho phép. Ô nhiễm buị chỉ giảm đi rõ rệt cả về giá trị và phạm vi ảnh hưởng khi các nhà máy có các biện pháp giảm thiểu rõ rệt. Các kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp vào việc xây dựng cơ sở khoa học trong vấn đề quản lý chất lượng môi trường không khí ở Hà Nội.


Study on and application of ISC3 model for assessing
and forecasting air pollution created from industrial sources for Hanoi area


The article presents some of the initial results of assessment of air pollution levels created from industrial emission sources for Hanoi area according to the database in 2007 and different scenarios. The calculated results shows that some areas of Hanoi city were polluted by TSP, especially Thuong Dinh, Vinh Tuy - Mai Dong industrial areas. The maximum 1hour- average values of TSP are rather high in these areas, up to > 2-4 times in the comprision with permissible standard. TSP pollution will be diminished only when the plants have pollution diminishable measurements. The research results can contribute scientific basics to the management of air quality in Hanoi.


14. Hồ đô thị - Không gian mở quan trọng của đô thị
(Nghiên cứu điển hình tại thành phố Hà Nội)

Nguyễn Thị Hoàng Liên


Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN




Không gian mở là một yếu tố quan trọng của cấu trúc đô thị. Không gian mở công cộng là nơi để cộng đồng đến nghỉ ngơi, thư giãn, tận hưởng không khí đô thị và tổ chức các hoạt động ngoài trời như thể thao, giải trí hoặc đơn giản chỉ là đi dạo hoặc ngắm cảnh. Một thành phố sẽ trở nên hấp dẫn hơn nếu như có nhiều không gian mở có giá trị. Các dạng không gian mở chính của đô thị là công viên, rừng đô thị, sân chơi, quảng trường và mặt nước. Trong đó, các hồ đô thị bao gồm cả hồ tự nhiên và hồ nhân tạo là những cảnh quan quan trọng. Hồ đô thị đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường cho người dân đô thị. Cách chúng ta nhìn nhận về các giá trị đó sẽ ảnh hưởng đến việc chúng ta sẽ ‘ứng xử’ với hồ đô thị như thế nào. Bài báo này sẽ tập trung vào các hồ đô thị ở thành phố Hà Nội - nơi được xem là ‘Thành phố của sông hồ’.

Urban lakes - important urban open spaces

(Hanoi case study)


Open space is an important component of urban structure. Public open space is a place for communities to relax, enjoy urban atmosphere and organize different activities such as sport, entertainment, or just simply walking or sightseeing. A city will become more attractive if it has more livable open spaces. Major types of urban open spaces are parks, urban forest, playgrounds, squares and water areas. In which urban lakes including natural and artificial ones are important landscapes. It can provide various benefits including social, economic and ecological values for the urban residents. The way we aware of those values will decide the way we behave with urban lakes. This paper focuses on urban lakes in Hanoi which is also called ‘A city of rivers and lakes’.

15. Nghiên cứu sử dụng đất ngập nước nhân tạo để xử lý nước sông Tô Lịch cho mục đích sản xuất nông nghiệp

Nguyễn Thị Loan, Trần Văn Quy


Khoa Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN

Nước sông Tô Lịch hiện nay bị ô nhiễm nặng nhưng vẫn được sử dụng để tưới trong sản xuất nông nghiệp. Việc này gây ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và sức khỏe của người nông dân. Bài báo này trình bày các kết quả nghiên cứu về khả năng xử lý các hợp chất hữu cơ và kim loại nặng trong nước sông Tô Lịch bằng hệ thống đất ngập nước nhân tạo ở các thời gian lưu nước khác nhau 4, 5, 6 ngày để từ đó đưa ra thời gian lưu nước với hiệu suất xử lý cao nhất. Các kết quả thí nghiệm cho thấy thời gian lưu nước 6 ngày cho hiệu quả xử lý cao nhất. Trong đó các thông số lần lượt đạt hiệu quả là: TSS giảm 80,67%; COD giảm 91,53%; BOD giảm 91,54%; PO43- giảm 77,8%; NO3- giảm 75,12%; NO2- giảm 90,65% và NH4+ giảm 84,19%. Phân tích hàm lượng kim loại nặng trong nước sông Tô Lịch cho thấy các chỉ số Cu, Hg thấp hơn tiêu chuẩn cho phép. Duy chỉ có Pb và As cao hơn một chút so với tiêu chuẩn. Tuy nhiên khi đi qua hệ thống đất ngập nước nhân tạo với thời gian lưu 6 ngày, hàm lượng các kim loại nặng đã giảm đáng kể, Pb và As đã đạt tiêu chuẩn cho phép, cụ thể: Cu giảm 86,67%; Hg giảm 100%; As giảm 80% và Pb giảm 71,4%.


Studying use of constructed wetland system to treat To Lich River’s water for agricultural production purposes


To Lich river water is heavily polluted, but it is still used for irrigation in agricultural production. This affects public health and the health of farmers. This paper presents the results of research on capabilities to treat organic compounds and heavy metals in water of To Lich river by constructed wetlands with the different hydraulic retention times (4, 5, 6 days) to find the retention time with the highest treatment efficiency. The results showed that the 6 day retention time gives the highest treatment efficiency, particularly: TSS decreased 80.67%, COD decreased 91.53%, BOD decreased 91.54% ; PO43-decreased 77.8%, NO3 decreased 75.12%; NO2-decreased 90.65% and NH4 decreased 84.19%. Analysis of heavy metal concentration in river To lich river water showed that Cu, Hg concentration is lower than the permitted standard, only Pb and As one is a bit higher than standard. However, when passing through constructed wetland system with 6 day retention time, levels of heavy metals have decreased significantly, Pb and As have been met permitted standard, in particular: Cu decreased 86.67%, Hg decreased 100%, As decreased 80% and Pb decreased 71.4%.




tải về 365.24 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương