Thánh Kinh và Huấn Luyện Lãnh Đạo Muối Đất Mở Rộng LÃnh đẠo theo phong cách thánh phao-lô Giêrônimô Nguyễn Văn Nội



tải về 1.33 Mb.
trang3/20
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích1.33 Mb.
#8020
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20

4.3 Tiều sử của Thánh Phao-lô

Muốn biết thêm về Thánh Phao-lô chúng ta phải quan tâm đến tiểu sử tức thân thế sự nghiệp của ngài. Những dòng sau đây là của chính Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI viết về Thánh Phao-lô trong bài giáo lý mang tựa đề Thánh Phao-lô thành Tar-xô ngày 25 tháng 10, 2006:

«Người đầu tiên đã được chính Chúa, là Đấng Phục Sinh, gọi làm một Tông Đồ thật, chính là Thánh Phao-lô thành Tác-xô. Ngài nổi bật như một ngôi sao sáng nhất trong lịch sử Hội Thánh, nếu không nói là trong việc thành lập Hội Thánh. Thánh Gio-an Kim Khẩu ca tụng ngài như một người cao trọng hơn nhiều thiên thần và tổng lãnh thiên thần (x. Panegirico, 7, 3). Dante Aligheiri trong Hài Kịch của Thiên Chúa (Divine Comedy), cảm hứng bởi câu truyện Thánh Lu-ca kể trong Tông Đồ Công Vụ (x. 9:15), đã diễn tả ngài cách đơn giản là “cái bình được chọn” (inf. 2:28), có nghĩa là: một dụng cụ được Thiên Chúa chọn. Những người khác gọi ngài là “Vị Tông Đồ thứ 13”, hay cách trực tiếp “vị trước nhất sau vị Duy Nhất.”

Chắc chắn rằng sau Chúa Giê-su, ngài là một trong những vị tiên khởi mà chúng ta biết nhiều nhất. Thực ra, chúng ta không những chỉ có câu truyện mà Thánh Lu-ca viết trong sách Tông Đồ Công Vụ, mà còn cả một số Thư mà chính tay ngài viết, là những văn kiện trực tiếp tỏ lộ cá tính và tư tưởng của ngài mà không qua trung gian.

Thánh Lu-ca cho chúng ta biết tên ngài trước kia là Sau-lô (x. Cv 7,58; 8,1), cũng là Sau-lê trong tiếng Híp-ri (x. Cv 9,14, 17; 22,7, 13; 26,14), như Vua Sau-lê (x. Cv 13,21), và ngài là người Do-thái lưu vong, vì thành Tác-xô tọa lạc giữa A-na-to-li-a và Sy-ri-a.

Ngài xuống Giê-ru-sa-lem rất sớm để học tận gốc Luật Mô-sê theo chân vị Thầy nổi danh là Ga-ma-liên (x. Cv 22,3). Ngài cũng học một nghề thủ công và phổ thông, là đan lều (x. Cv 18,3), mà sau này giúp ngài tự lực cánh sinh không thành gánh nặng cho Hội Thánh (x. Cv 20,34; 1 Cr 4,12; 2 Cr 12,13).»



Tiểu sử của Thánh Phao-lô một phần nào được biểu lộ qua biểu đồ dưới đây:

Sự Kiện - Niên Biểu và Tác Phẩm có liên quan và của Thánh Phao-lô:

Sự kiện


Niên

Biểu

Tác phẩm

Chúa Giê-su sinh ra

6 trước CN







Phao-lô sinh ra

8 sau CN

tại

Tác-xô

Gio-an Tẩy Giả rao giảng

27







Sứ vụ công khai của Chúa Giê-su

28-30







Chúa Giê-su bị đóng đinh và phục sinh

30







Stêphanô tử đạo. Các Ki-tô hữu gốc Hy lạp và Do thái bị bách hại.

33







Phao-lô trở lại, 3 năm ở Đa-mát.

33 (36)







Phao-lô ở Tác-xô

37 (40)







Phao-lô với Bar-na-ba ở An-ti-ốt

45







Hành trình truyền giáo I của Phao-lô

46-49







Công đồng Giê-ru-sa-lem

49













51

1 Tx

Hành trình truyền giáo II của Phao-lô

50-52







Hành trình truyền giáo III của Phao-lô

54-58

54

Gl







55

1 Cr







56

Pl







56-57

2 Cr

Phao-lô bị tù ở Xê-da-rê

58-60

58

Rm

Phao-lô đến Rô-ma

60-61







Phao-lô bị tù ở Rô-ma

61-63

62

Plm.

Cl


Phê-rô và Phao-lô tử đạo trong cuộc bách hại của Nê-rô ở Rô-ma

64 (67)

64

Mc

Chiến tranh giữa người Do thái và Rô-ma

67-70

66-70

Gc ?

Đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy

70

70

Ep,

2 Tx,


Mt




85 (90)




Lc/Cv,

Ga/Kh,


Cuộc bách hại của Đô-mi-xi-a-nô

90-96




Thư Mv

2 Pr


Cuôc nổi dậy của người Do- thái dưới thời Bar Kochbah

132-135







Giê-ru-sa-lem bị phá bình địa

135









4.4 Những đặc điểm về thân thế, sự nghiệp của Thánh Phao-lô

(a) Nguồn gốc, nền giáo dục và cuộc đổi đời lạ lùng

Thánh Phao-lô là người Do-thái (tên là Sa-un hay Sao-lô), sinh tại Tác-xô (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), thậm chí là một Pha-ri-siêu thông thái, nhiệt thành, am tường Thánh Kinh Do-thái, nhưng lại có quốc tịch Ro-ma (tên là Phao-lô). Thánh Phao-lô chẳng những hấp thụ nền giáo dục Do-thái giáo, mà còn thông thạo văn hóa Hy-lạp là văn hóa thịnh hành thời bấy giờ.



Biến cố bị/được Chúa Giê-su Ki-tô Phục sinh chộp bắt trên đường Đa-mát đã làm thay đổi cách kỳ diệu con nguời và cuộc sống của Phao-lô. Một cuộc đổi đời có một không hai trong lịch sử nhân loại nói chung và Ki-tô giáo nói riêng.
(b) Ơn gọi và sứ mạng đặc biệt

«Nhưng Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại.» (Gl 1,15-16).
(c) Đời sống thánh thiện

«Phần chúng tôi, chúng tôi chẳng làm gì gây cớ cho ai vấp phạm, để không người nào có thể đàm tiếu về công việc phục vụ của chúng tôi. Trái lại, trong mọi sự, chúng tôi luôn chứng tỏ mình là những thừa tác viên của Thiên Chúa: gian nan, khốn quẫn, lo âu, đòn vọt, tù tội, loạn ly, nhọc nhằn, vất vả, mất ăn mất ngủ, chúng tôi đều rất mực kiên trì chịu đựng. Chúng tôi còn chứng tỏ điều đó bằng cách ăn ở trong sạch, khôn khéo, nhẫn nhục, nhân hậu, bằng một tinh thần thánh thiện, một tình thương không giả dối, bằng lời chân lý, bằng sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ, khi vinh cũng như khi nhục, lúc được tiếng tốt cũng như khi mang tiếng xấu. Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, nhưng kỳ thực không bị giết chết; coi như phải ưu phiền, nhưng kỳ thực chúng tôi luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả.» (2 Cr 6,3-10).
(d) Một cuộc đời tận hiến cho việc truyền giáo được thể hiện qua 3 hành trình truyền giáo: Theo sách Công Vụ Tông Đồ, Thánh Phao-lô có 3 hành trình truyền giáo, thêm vào đó, chuyến cuối cùng là bị giải từ Giê-ru-sa-lem về Rô-ma để thụ án do chính quyền tố cáo.
- Hành trình thứ nhất (khoảng từ năm 45-49) được ghi lại trong Công Vụ Tông Đồ 13,1 - 14,28. Phao-lô và Bar-na-ba rời tàu từ An-ti-o-ki-a (vùng Sy-ri-a) qua Cy-rus, qua Per-ga ở Pam-phi-li-a, qua An-ti-ô-ki-a (vùng Pi-si-di-a), rồi đến I-co-ni-um, Lys-tra, và Der-be trong vùng Tiểu Á. Sau đó Phao-lô dự Công Đồng Giê-su-ra-lem cùng với Bar-na-ba và trở về lại An-ti-ô-ki-a (vùng Sy-ri-a).
- Hành trình thứ hai (khoảng năm 50-52) được ghi lại trong Cv 15,6 – 18,22. Sau khi bất đồng ý kiến với Bar-na-ba, Phao-lô chọn Si-lô làm người đồng hành truyền giáo. Họ rao giảng khắp vùng Sy-ri-a, Xi-li-ci-a, Tiểu Á, qua đến Phry-gi-a và Ga-lát. Tại Tro-a bên bờ Tiểu Á, Phao-lô có thị kiến là được tàu đưa qua Ma-cê-do-ni-a. Từ đó, Ngài theo đường bộ đến Phi-lip-phê, Thê-xa-lo-ni-ca, Be-ro-e-a, A-then và Cô-rin-tô. Rồi theo tàu về Ê-phê-xô ở Tiểu Á và vào Xê-da-rê và Giê-ru-sa-lem. Sau cùng các Ngài về lại An-ti-ô-ki-a (vùng Sy-ri-a).
- Hành trình thứ ba (khoảng năm 53-58) được ghi lại trong Cv 18,23 - 21,17. Từ Giê-ru-sa-lem, Phao-lô đi về Ga-lát, Phry-gi-a và E-phê-sô để vượt qua vùng Ma-cê-do-ni-a. Ý định theo tàu về lại Sy-ri-a bị hủy bỏ vì Ngài biết có người muốn ám hại Ngài trên đường qua Ma-cê-do-ni-a đến Tro-a. Phao-lô và đồng bạn dùng tàu đến My-ti-le-ne, Sa-mos và Mi-le-tus, băng qua E-phê-sô để đến Rho-des và Ty-re trong vùng Sy-ri-a. Sau một thời gian ngắn, Phao-lô trở lại Giê-ru-sa-lem để gặp tông đồ Gia-cô-bê.
- Hành trình cuối cùng (khoảng năm 60) là bị giải về Rô-ma cùng với các tù nhân khác, được kể lại trong Cv 27,1-28,16. Họ đi từ Xê-da-rê đến Xi-đon, My-ra trong vùng Tiểu Á, rồi đến Crê-tê. Từ Crê-tê đến Man-ta, thời tiết xấu làm đắm tàu tại Man-ta. Sau 3 tháng, họ đi tàu đến Sy-ra-cu-se, Rhe-gi-ô và Ro-ma, nơi Phao-lô bị quản chế và bị giết (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm Thánh Phao-lô - Bài 5: Những hành trình của Thánh Phao-lô thế nào?»).
(e) Kho tàng các Thư gửi cộng đoàn và cá nhân

Đọc trong Tân Ước, ta thấy có 13 thư mang tên tác giả Phao-lô gởi cho các giáo đoàn hay cá nhân theo thứ tự: Rô-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, Ê-phê-sô, Phi-lip-phê, Cô-lô-xê, 1 và 2 Thê-xa-lô-ni-ca, 1 và 2 Ti-mô-thê, Ti-tô, và Phi-lê-mon.

Một số học giả Thánh Kinh cho rằng tất cả 13 thư trên là do Phao-lô viết hay những trợ tá trực tiếp viết. Nhưng phần lớn các học giả Thánh kinh ngày nay tin rằng chỉ có 7 thư do chính Phao-lô viết là: Ro-ma, 1 và 2 Cô-rin-tô, Ga-lát, Phi-lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Ngay cả trong số 7 thư này cũng có những cộng sự viên cùng viết với Ngài và tên của họ được liệt kê trong những lời giới thiệu đầu thư như  thư 1 và 2 Cô-rin-tô, Phi-lip-phê, 1 Thê-xa-lô-ni-ca và Phi-lê-mon. Còn sáu thư còn lại (2 Thê-xa-lô-ni-ca, Ê-phê-sô, Cô-lô-xê, 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô) là đề tài tranh luận giữa những học giả Thánh Kinh về tác quyền, và họ gọi những thư này là Thứ Kinh (Deutero-Pauline letters).

Về thời gian, rất khó biết chính xác, nhưng các học giả sắp xếp những thư như sau: 1 Thê-xa-lô-ni-ca chừng 50-51; 1 và 2 Cô-rin-tô chừng 54-55; Ga-lát chừng 54-55; Phi-líp-phê chừng 56; Rô-ma chừng 57-58; Phi-lê-mon chừng 60-61; 2 Thê-xa-lô-ni-ca, Cô-lô-sê và E-phê-sô chừng giữa thập niên 80 (và nếu thật sự Phao-lô viết những thư này thì có thể vào giữa những năm 50); 1 và 2 Ti-mô-thê và Ti-tô chừng giữa 60-90 (và nếu thật sự Phao-lô viết thì có thể đầu những năm 60).

Nhìn chung, tất cả 13 thư trên đều trình bày những giáo huấn thống nhất của một Phao-lô cương nghị, dứt khoát và nhiệt tình trong giảng dạy (Lm Mát-thêu Nguyễn Khắc Hy, S.S. «Sống Năm Thánh Phao-lô - Bài 3: Phao-lô viết bao nhiêu thư và khi nào?»)

(g) Cái chết chứng nhân tại Ro-ma

Việc tử vì đạo của Thánh Phao-lô được kể lại đầu tiên trong sách Công Vụ của Thánh Phao-lô, được viết vào cuối thế kỷ thứ II. Sách tường thuật rằng hoàng đế Nê-rô lên án chém đầu ngài, và bản án được thi hành ngay sau đó (x. 9,5). Ngày chết của ngài khác nhau ngay từ những tài liệu cổ, khoảng giữa cuộc bách hại mà chính hoàng đế Nê-rô phát động sau vụ hỏa hoạn của thành Ro-ma, xảy ra vào tháng 7 năm 64, và năm cuối cùng của triều đại Nê-rô là năm 68 (x. Giê-rô-ni-mô, De viris ill. 5,8). Tường thuật ấy như sau : “Nhằm đạt được điều ấy (Nê-rô) ra sắc chỉ là tất cả những ai được phát hiện là Ki-tô hữu và lính của Đức Ki-tô đều sẽ bị giết chết. Và Phao-lô cũng bị cầm tù trong số nhiều người; tất cả các bạn tù là người có đạo lưu ý đến ngài khiến Xê-da-rê quan sát thấy rằng ngài là người chỉ huy. Ông ta nới với Phao-lô: “Người của vua vĩ đại nay trở thành tù nhân trong tay ta, tại sao ngươi đã cho là tốt việc bí mật đến đế quốc Rô-ma của ta và lối kéo các binh lính của ta ra khỏi tỉnh của ta?” Nhưng Phao-lô, đầy Thần Khí, nói trước mọi người rằng: “Thưa ngài Xê-da-rê, chúng tôi chiêu dụ binh lính không chỉ từ các tỉnh của ngài mà từ khắp thế giới. Vì nhiệm vụ này được giao cho chúng tôi, để không một ai bị loại trừ nếu người ấy muốn phụng sự Đức Vua. Nếu ngài cho rằng đó là việc tốt, ngài hãy phụng sự Người. Không có của cải vinh hoa nào của cuộc đời này sẽ cứu được ngài, nhưng nếu ngài đầu phục Người, Người sẽ cứu ngài. Vì chỉ trong một ngày Người sẽ phá hủy thế giới bằng lửa. Khi Xê-da-rê nghe những lời ấy, ông ra lệnh thiêu tất cả các tù nhân, nhưng Phao-lô thì phải bị chém đầu theo luật của người Rô-ma… Lúc ấy Phao-lô đứng hướng mặt về phía đông, giơ tay lên trời mà cầu nguyện lần cuối. Và sau khi hiệp thông trong cầu nguyện bằng tiếng Híp-ri với các tổ tiên, ông chìa cổ ra mà không nói thêm một lời nào nữa. Nhưng khi viên lý hình kéo đầu ông ra, sữa phun vào áo của người lính ấy. Và khi chúng nhìn thấy vậy, người lính và tất cả những người đứng gần đó đều kinh ngạc và chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã ban cho Phao-lô vinh quang ấy. Họ ra đi và báo cáo cho Xê-da-rê sự việc đã xẩy ra.” (Công vụ của Thánh Phao-lô 11,1-3.5).



4.5 Chúng ta có thể học được gì từ việc tìm hiểu thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô?

(Xem phần ỨNG DỤNG)
V. ỨNG DỤNG [SỐNG LINH ĐẠO]

5.1 Từ việc tìm hiểu thời đại của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể học được những điều sau đây:

(a) Tin Mừng của Thiên Chúa cần được rao giảng cho mọi người (lớn/bé, già/trẻ, tự do/nô lệ…) và mọi dân (Do-thái cũng như Dân Ngoại).

(b) Tin Mừng của Thiên Chúa có khả năng thích ứng với và đi sâu vào các nền văn hóa khác nhau của nhân loại.

(c) Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ phúc âm hóa các nền văn hóa tức đón nhận và phát huy những điều tốt đẹp của các nền văn hóa ấy và thanh luyện, bổ sung và hoàn thiện những gì còn khiếm khuyết của các nền văn hóa ấy.


5.2 Từ việc tìm hiểu tiểu sử của Thánh Phao-lô, chúng ta có thể học được những điều sau đây:

(a) Thiên Chúa có thể dẫn đưa một con người từ chốn lầm lạc trở về chân lý. Thiên Chúa cũng có thể biến đổi một con người từ tội lỗi nên thánh thiện để người ấy làm vinh danh Thiên Chúa và đem lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Thánh Phao-lô là một điển hình “có một không hai” trong lịch sử Ki-tô giáo.

(b) Thiên Chúa có một kế hoạch riêng cho mỗi Ki-tô hữu.

(c) Thiên Chúa cần đến tất cả những gì là tốt đẹp sẵn có trong mỗi con người chúng ta để chúng ta dễ bề chu toàn sứ mạng được giao.


VI. CHUẨN BỊ ĐỀ TÀI III: CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ

6.1 Câu hỏi gợi ý chia sẻ

Nhờ đề tài II về thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô bạn có khám phá, cảm nghiệm, quyết tâm hay thay đổi gì mới?

Xin ghi nhật ký để chuẩn bị chia sẻ vào lần học tới với các anh chị em khác.
6.2 Câu hỏi gợi ý tìm hiểu

1°) Tại sao Thánh Phao-lô được gọi là Tông Đồ Dân Ngoại?

2°) Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng có tầm quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô?

3°) Để loan báo Tin Mừng, Thánh Phao-lô đã sử dụng chiến thuật và phương thế nào?

4°) Chúng ta có thể học được gì từ Thánh Phao-lô là Nhà Truyền Giáo nhiệt thành, là Vị Tông Đồ Dân Ngoại vĩ đại của Ki-tô giáo?
6.3 Sách Thánh cần đọc

Cv 9,26-30; 11,19-25; 15,1-21; 19,8-10; Gl 1,1-12; 2,7-8; 4, 10; 5,11; 6,12; Pl 3,8-9; 1 Cr 1,17; 9,16-23; 2 Cr 1,19; 6,3-10; 10,12-18; 11, 22-29.32-33; 2 Tm 4,2; Rm 15,20; 1 Tx 1,1; 2,8-9]


VII. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC

7.1 Gợi ý của người hướng dẫn

Chúng ta vừa học về thời đại và tiểu sử của Thánh Phao-lô, qua đó chúng ta thấy Thánh Phao-lô đã nỗ lực hết sức mình để đem Ki-tô giáo vào trong thế giới và xã hội thời của Ngài. Chúng ta cũng có trách nhiệm đem hết khả năng và ân sủng mà chúng ta đã nhận từ Thiên Chúa mà đem Tin Mừng đến cho đồng bào của chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau chúc tụng, ngợi khen và cản tạ Thiên Chúa về sứ mạng cao trọng mà Người đã giao cho Thánh Phao-lô và mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau cầu xin Chúa ban cho chúng ta sức mạnh của Thánh Thần để thực thi sứ mạng ấy.


7.2 Cùng cầu nguyện

Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người cho thế gian. Chúa Giê-su Ki-tô là Con Cha, đã xuống thế làm người và đi vào lịch sử nhân loại. Người đã chiêu mộ những con người trung thực và nhiệt thành là các Tông Đồ, nhất là Thánh Phao-lô, để đem Tin Mừng yêu thương đến với mọi người, mọi dân tộc.

Chúng con xin cảm tạ Cha và cảm tạ Con Cha là Chúa Giê-su Ki-tô, về Chương Trình Cứu Độ mà chúng con được thừa hưởng và mời tham dự. Chúng con cảm tạ Cha cách đặc biệt trong việc Cha tuyển chọn Thánh Phao-lô và biến Người thành vị thánh lớn lao, thành nhà truyền giáo vĩ đại. Xin Cha giúp chúng con biết noi gương bắt chước Thánh Phao-lô mà sống hết mình với Chúa Giê-su Ki-tô, Con Cha và với Tin Mừng của Ngài, với anh chị em trong cộng đoàn Hội Thánh và với những người còn ở ngoài Hội Thánh.

7.3 Cùng hát 

TÁN TỤNG HỒNG ÂN

ĐK 1: Xin dâng lời cảm tạ hồng ân Thiên Chúa bao la. Xin dâng lời cảm mến hòa theo tiếng hát dâng lên. Đôi bàn tay Chúa nâng đỡ con, xin dâng lời cảm tạ. Cho đời con vững một niềm tin, xin dâng lời cảm mến. Đôi bàn tay Chúa dẫn con đi, xin dâng lời cảm tạ. Tay hồng ân Chúa đưa con về, xin dâng lời cảm mến. Chúa cho con Trời mới Đất mới, đường đời con (i) đổi mới. Con sẽ ca ngợi lòng thương xót Chúa muôn muôn đời.

1. Đời đời Người đã thương con. Đời đời Người vẫn thương con. Thương con như gà mẹ ủ ấp con dưới cánh. Chúa thương yêu ấp ủ con đêm ngày.

ĐK 2: Xin chân thành cảm tạ tình thương Chúa thắng oan khiên. Xin chân thành cảm mến tình thương Chúa thắng nguy nan. Ca tụng danh Chúa bao lẫy lừng, xin chân thành cảm tạ. Cho toàn dân sống trong tình thương, xin chân thành cảm mến. Đôi bàn tay Chúa rất oai phong, xin chân thành cảm tạ. Đôi bàn tay Chúa bao nhân lành, xin chân thành cảm mến. Khắp muôn nơi bừng sức sống mới, người người vui đổi mới. Muôn (i) tấm lòng cùng chung nhịp sống trong thanh bình.

2. Nhiệm mầu tình Chúa sao siêu. Loài người được Chúa nâng niu. Nâng niu tựa con ngươi trong mắt Chúa. Chúa nâng niu gìn giữ luôn đêm ngày.



ĐỀ TÀI III

CÔNG CUỘC, CHIẾN THUẬT VÀ PHƯƠNG THẾ TRUYỀN GIÁO CỦA THÁNH PHAO-LÔ



I. CẦU NGUYỆN MỞ ĐẦU

1.1 Gợi ý của người hướng dẫn

Hôm nay chúng ta sẽ học cùng Thánh Phao-lô, vị Tông Đồ Dân Ngoại, để biết Ngài coi trọng Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng như thế nào và biết Ngài đã dùng những Chiến Thuật và Phương Thế nào để loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa mà Chúa Giê-su Ki-tô đã đem đến cho nhân loại. Chúng ta hãy nguyện xin Thánh Thần Thiên Chúa xuống trên mỗi anh chị em chúng ta, để Người biến đổi chúng ta thành những tông đồ nhiệt thành, ra đi loan báo Tin Mừng cho những ngưòi đang khát khao gặp được Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện bằng bài ca Thần Khí Chúa sai đi!



1.2 Cùng hát

THẦN KHÍ SAI ĐI

ĐK.- Thần Khí Chúa đã sai tôi đi. Sai tôi đi loan báo Tin Mừng. Thần Khí Chúa đã hiến thánh tôi. Sai tôi đi, Ngài sai tôi đi.

1. Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù. Mang Tin Mừng giải thoát: Thiên Chúa đã cứu tôi.

2. Sai tôi đến với người than khóc, sai tôi đến với người âu sầu. Mang Tin Mừng an ủi: Thiên Chúa đã cứu tôi.


II. CHIA SẺ KHÁM PHÁ / CẢM NGHIỆM / QUYẾT TÂM / THAY ĐỔI LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI II VỀ THỜI ĐẠI VÀ TIỂU SỬ CỦA THÁNH PHAO-LÔ

Bạn muốn chia sẻ khám phá, cảm nghiệm, quyết tâm hay thay đổi gì mới (hoặc muốn nêu ý kiến hay thắc mắc gì liên quan tới đề tài II về Thời Đại và Tiểu Sử của Thánh Phao-lô mà bạn đã học lần trước, xin mời bạn chia sẻ hay phát biểu.


III. ĐẶT VẤN ĐỀ

3.1 Tại sao Thánh Phao-lô được gọi là Tông Đồ Dân Ngoại?


3.2 Công Cuộc Truyền Giáo hay Loan Báo Tin Mừng có tầm quan trọng như thế nào đối với Thánh Phao-lô?
3.3 Để loan báo Tin Mừng, Thánh Phao-lô đã sử dụng chiến thuật và phương thế nào?
3.4 Chúng ta có thể học được gì từ Thánh Phao-lô là Nhà Truyền Giáo nhiệt thành, là Vị Tông Đồ Dân Ngoại vĩ đại của Ki-tô giáo?
IV. HỌC HỎI

[Sách Thánh cần đọc: Cv 9,26-30; 11,19-25; 15,1-21; 19,8-10; Gl 1,1-12; 2,7-8; 4, 10; 5,11; 6,12; Pl 3,8-9; 1 Cr 1,17; 9,16-23; 2 Cr 1,19; 6,3-10; 10,12-18; 11, 22-29. 32-33; 2 Tm 4,2; Rm 15,20; 1 Tx 1,1; 2,8-9]

tải về 1.33 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   20




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương