Tổ chức y tế thế giới ước tính hàng năm có khoảng 90 triệu ca nhiễm


Các nghiên cứu về Chlamydia trachomatis trên thế giới và trong nước



tải về 361.36 Kb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu19.09.2016
Kích361.36 Kb.
#32268
1   2   3   4   5   6   7

1.3. Các nghiên cứu về Chlamydia trachomatis trên thế giới và trong nước

1.3.1. Các nghiên cứu trên thế giới



Số người nhiễm trên 100.000



Năm




Hình 1.3. Tỷ lệ nhiễm Chlamydia trachomatis ở một số nước Châu Âu

Theo ECDC năm 2009 [15], tỷ lệ dương tính C.trachomatis ở một số nước Châu Âu thay đổi từ năm 1998 đến năm 2007. Ở Thụy Điển và Phần Lan, nơi những nghiên cứu được tiến hành từ đầu những năm 90, tỷ lệ này giảm ở đầu những năm 90 (tương tự với tỷ lệ các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác ở Châu Âu) do sự thay đổi thói quen sinh hoạt tình dục và mối lo từ hiểm họa AIDS. Tỷ lệ này tăng lên từ năm 1995. Tại Anh và Đan Mạch, tỷ lệ này tăng dần theo mỗi năm, nguyên nhân có thể do không được nghiên cứu từ đầu những năm 90, sử dụng các chẩn đoán có độ nhạy cao hơn, đối tượng nghiên cứu nằm trong các nhóm có nguy cơ cao.

Theo một nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm vi khuẩn này tại Châu Âu [20] cho thấy:

Phần Lan

Nghiên cứu 298 phụ nữ tuổi từ 18 đến 40, từ năm 1977 đến năm 1980 tại một trung tâm y tế sinh viên tại Đại học Helsinki. Những phụ nữ trên được chăm sóc y tế về các biện pháp tránh thai, vấn đề nội tiết và vô sinh hoặc đã được kiểm tra dịch phết cổ tử cung định kỳ (đối với bệnh nhân có triệu chứng). Các xét nghiệm được sử dụng là nuôi cấy dịch niệu đạo và dịch phết cổ tử cung. Bỏ qua mô tả về cách lựa chọn, tỷ lệ đáp ứng, lý do đáp ứng và loại trừ. Tỷ lệ dương tính C.trachomatis là 6%.



Thụy Điển

Nghiên cứu thứ nhất (Persson et al., 1991) liên quan đến 306 phụ nữ tuổi từ 12 đến 25 (trung bình 22 tuổi) tại một phòng khám thai từ năm 1989 và 1990. Nuôi cấy được sử dụng làm phương pháp xét nghiệm, tỷ lệ dương tính C.trachomatis là 6%. Nghiên cứu thứ hai (Svensson et al., 1994) đã so sánh hai nhóm phụ nữ nghiên cứu vào năm 1991- 1992. Nhóm A bao gồm 751 học sinh trung học với độ tuổi 16 đến 20 năm (trung bình 18 tuổi). Các tỷ lệ đáp ứng là 77%. Nhóm B bao gồm 619 phụ nữ đến khám tại phòng khám kế hoạch hóa gia đình thanh thiếu niên và độ tuổi phù hợp với nhóm A. Cả hai nhóm đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng xét nghiệm EIA. Tỷ lệ dương tính C.trachomatis là 2% trong nhóm A và 6% trong nhóm B.



Vương quốc Anh

Nghiên cứu được tiến hành đầu tiên (Smith et al., 1991) liên quan đến 197 phụ nữ tuổi từ 19 đến 58 (trung bình 30 tuổi) tại một phòng khám soi cổ tử cung. Nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt giữa phụ nữ có dịch phết cổ tử cung bình thường và bất thường. Bệnh phẩm dịch phết cổ tử cung được sử dụng để nuôi cấy. Tỷ lệ dương tính C.trachomatis là 12%. Nghiên cứu thứ hai (Thompson và Wallace, 1994) liên quan đến 287 phụ nữ từ 15 tuổi đến 40. Các mẫu dịch phết cổ tử cung đã được xét nghiệm bằng kỹ thuật DFA. Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis ở phụ nữ nhỏ hơn 30 tuổi là 3.5% (5/145). Tỷ lệ dương tính C.trachomatis chung là 1.7%. Nghiên cứu thứ ba (Hopwood và Mallinson, năm 1999) đánh giá trên các phụ nữ 16 đến 25 tuổi bằng xét nghiệm DFA. Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis là 3.9%. Nghiên cứu thứ tư (Kirkwood et al., 1999) nghiên cứu phụ nữ độ tuổi nhỏ hơn 20 tại phòng khám kế hoạch hóa gia đình. Các mẫu được kiểm tra bằng kỹ thuật PCR. Cỡ mẫu là 97 với 65 phụ nữ đến từ thành phố. Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn này ở phụ nữ thành phố là 3% và thị trấn nông thôn 12.5%. Tỷ lệ dương tính C.trachomatis tổng thể là 6.2%.

Sự phổ biến của C.trachomatis phụ nữ không có triệu chứng ở Châu Âu dao động từ 1.7 đến 17% tùy thuộc vào bối cảnh và quốc gia. Tỷ lệ dương tính C. trachomatis là 6% ở phụ nữ sử dụng biện pháp tránh thai và 4% với đối tượng phụ nữ xét nghiệm dịch phết cổ tử cung [15].

James B. Mahony và cộng sự (1992) nghiên cứu tỷ lệ dương tính C.trachomatis ở nam giới ở những địa điểm được lựa chọn tại Hoa Kỳ [18]. Sự sàng lọc phụ thuộc một phần vào chi phí sàng lọc C.trachomatis cũng như phương pháp sàng lọc. Sàng lọc ở những địa điểm có tỷ lệ nam giới dương tính cao sẽ nâng cao chất lượng chương trình kiểm soát C.trachomatis. Đánh giá các chương trình sàng lọc vi khuẩn này trong số những người đàn ông không có triệu chứng tại các phòng khám từ năm 1995 đến tháng 6 năm 2007, thông qua PubMed thu được kết quả: Tỷ lệ dương tính trung bình tổng thể là 5.1%. Mức cao nhất được quan sát thấy ở nam giới thử nghiệm tại các cơ sở giam giữ trẻ vị thành niên (7.9%) và người lớn (6.8%), ở người da đen (6.7%), 15-19 tuổi (6.1%) và 20-24 tuổi (6.5%). Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis trên nam giới cao ở những địa điểm nhất định.



C.trachomatis là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất ở Canada [27]. Có gần 63.000 trường hợp nhiễm C.trachomatis được báo cáo vào năm 2004, con số cao nhất kể từ khi vi khuẩn này được đề cập vào năm 1990. Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis ở Canada đã tăng hơn 70% từ năm 1997. Tuy nhiên, những con số này đánh giá thấp gánh nặng thực sự của bệnh như một số bệnh nhiễm trùng (40% đến 70% các bệnh nhiễm trùng) là không có triệu chứng nên không bị phát hiện. Có một sự khác biệt giới tính trong tỷ lệ nhiễm C.trachomatis, phụ nữ chiếm hơn hai phần ba các trường hợp được báo cáo vào năm 2004. Trong khi số lượng các bệnh nhiễm trùng C.trachomatis báo cáo ở phụ nữ cao hơn nam giới, tỷ lệ lây nhiễm đang gia tăng nhanh hơn ở nam giới. Từ năm 1997, tỷ lệ ở nam giới nhiều hơn gấp đôi, từ 59 đến 129.5 trên 100.000 người, trong khi tỷ lệ ở phụ nữ tăng ít hơn một nửa, từ 168 đến 263 trên 100.000. Sự chênh lệch giới tính có thể một phần là do số phụ nữ được sàng lọc vi khuẩn C.trachomatis lớn hơn. Việc cải thiện công nghệ chẩn đoán có thể sử dụng mẫu nước tiểu để xét nghiệm dự đoán sẽ làm tăng số lượng đàn ông kiểm tra. Tỷ lệ thanh thiếu niên nhiễm C.trachomatis cũng không tương xứng, gần 70% của tất cả các trường hợp được báo cáo xảy ra ở tuổi từ 15 đến 24 trong nghiên cứu. Trong năm 2004, tỷ lệ nhiễm trong thanh thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi là 847 trên 100.000. Tỷ lệ là 1.087 trên 100.000 trong độ tuổi 20-24. Các vùng lãnh thổ phía Bắc nói riêng phải chịu tỷ lệ nhiễm C.trachomatis cao, trung bình năm 2003 là gần 8 lần so với toàn quốc. Nunavut có tỷ lệ nhiễm C.trachomatis cao nhất ở Canada vào năm 2003 (2.520 trên 100.000) trên 13 lần mức trung bình toàn quốc [27].

Năm 2004 ở Trinidad và Tobago bằng phương pháp nested multiplex PCR với các cặp mồi HO1, HO3, Chlam5/Chlam3, KL1/KL2 và Gon 5/Gon 3, các tác giả đã phát hiện đồng thời hai loại vi khuẩn lậu và C.trachomatis trong mẫu nước tiểu của phụ nữ mang thai [19]. Các mẫu nước tiểu được thu thập từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2004 từ 273 phụ nữ mang thai khỏe mạnh ở các phòng khám tư nhân và bệnh viện. Tất cả phụ nữ mang thai có mặt trong phòng khám tại thời điểm lấy mẫu đã được mời tham gia. 15-20 ml mẫu nước tiểu đầu dòng được thu thập, bảo quản ở 4°C, vận chuyển đến phòng thí nghiệm trong vòng 24 giờ, và bảo quản ở -20°C cho đến khi DNA được tách chiết (trong vòng hai tháng). DNA từ nước tiểu được chuẩn bị bằng cách sử dụng Chelex 100 (Sigma Chemical Co, St Louis, Hoa Kỳ). Phản ứng PCR thứ nhất và nested multiplex PCR được tối ưu hóa ở các nồng độ MgCl2 1.5; 2 và 3 mM, ở nhiệt độ thay đổi từ 45°C đến 65°C (sử dụng máy Gradient Master Cycler Eppendorf) với mồi phát hiện vi khuẩn lậu hoặc C.trachomatis. Để tránh nhiễm, sử dụng bốn phòng riêng biệt, một để pha mix, một để chuẩn bị mẫu và PCR lần 1, một tạo phản ứng nested PCR và một phòng điện di. Sản phẩm khuếch đại được điện di trên gel agarose 2%, nhuộm ethidium bromide và quan sát. Phản ứng PCR đầu tiên dùng 0.2 mM mỗi loại dNTP; 3 mM MgCl2; 0.5 pmol/µl mỗi mồi HO1, HO3, Chlam5 (5'-CATTATGT-CGGAGTCTG-AGC- 3’), Chlam3 (5'-GGATGACTCAAGGAATAGT-CG- 3’), 1 µl Internal Amplification Control (IAC), 0.4 pmol/µl mồi IAC (5'-TGTTTGACAGCTTATCAT), 5 µl DNA mẫu, 0.5 U Taq polymerase, và nước khử ion đến 25 µl với chu trình nhiệt 94°C/15s, 60°C/30s, 72°C/60s, 40 chu kỳ. Phản ứng nested PCR chứa 0.2 mM mỗi loại dNTP; 2 mM MgCl2; 0.5 pmol/µl mỗi mồi KL1, KL2, Gon5 (5'-GTTCT-TGACGCTCC-ATATCG- 3’) và Gon3 (5'-ACGAGGCAT-TGAAGCAAAGC- 3’); 0.4 pmol/µl IAC; 1 µl sản phẩm PCR lần 1; 0.5 U Taq polymerase, nước khử ion đến 25 µl, chu trình nhiệt 94°C/15s, 58.5°C/30s,72°C/30s, 40 chu kỳ. Kết quả ở PCR lần 1 là 21 mẫu dương tính C.trachomatis và 1 mẫu nhiễm cả C.trachomatis và lậu. Kết quả phản ứng nested multiplex PCR thu được mẫu dương tính C.trachomatis là 57 mẫu (20.9%), trong đó 5 mẫu nhiễm cả hai loại vi khuẩn trên. Kết quả này chứng tỏ multiplex nested PCR có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn hẳn phản ứng PCR đơn.

Farhad B. Hashemi, Babak Pourakbari và Javad Zaeimi Yazdi [16] nghiên cứu tổng cộng 123 phụ nữ đã kết hôn (tuổi từ 20-55) với triệu chứng viêm cổ tử cung đến khám tại phòng khám sản phụ khoa của bệnh viện Mirza Kouchek Khan ở Tehran, Iran, từ giữa tháng 12/2004 đến tháng 6/2005, chủ yếu do đau vùng chậu và (hoặc) tiết dịch âm đạo. Tất cả những phụ nữ điều trị kháng sinh trong vòng ba tuần trước khi đến khám được loại trừ khỏi nghiên cứu. Người tham gia đồng ý hoàn thành một bảng câu hỏi về nhân khẩu học và lịch sử bệnh lây truyền qua đường tình dục trước khi kiểm tra cổ tử cung. Sau khi loại bỏ chất nhầy cổ tử cung, mẫu dịch cổ tử cung được thu thập, lưu trữ ở -20°C. DNA chiết xuất bằng DIAtom Prep100 kit (IsoGene Inc, Moscow, Nga) và bảo quản tại -20°C cho đến khi sử dụng. Phản ứng PCR khuếch đại đoạn 377 bp của cryptic plasmid với chu trình nhiệt: 94°C/3.5 phút; (94°C/30s, 52°C/30s, 72°C/3 phút) x 30 chu kỳ trong 25 μl đệm phản ứng PCR (bao gồm 10 mmol/l Tris, pH 8,3; 50 mmol/l KCl; 2.5 mmol/l MgCl2 và 0.1% gelatin); 0.2 mmol/l mỗi loại dNTP; 2.5 U Taq DNA polymerase, và 0.5 μmol/µl mỗi loại mồi BP1 (5’-AACCGTTTTTAATAGTGGCA-3’) và BP2 (5’-TTCTGGCCAAGAATTATCC-3’). Tỷ lệ nhiễm trùng sinh dục do C.trachomatis trên phụ nữ đã kết hôn ở Iran là 17% (cao hơn tỷ lệ 7% báo cáo tại nước này vào đầu những năm 1980). Mặc dù các bệnh nhân trong nghiên cứu không phải là đại diện chung dân số (bao gồm cả phụ nữ không có triệu chứng), hiện tại tỷ lệ nhiễm C.trachomatis cao hơn so với tỷ lệ 4-11% tại Slovenia, Hà Lan, Colombia, Canada, và Hoa Kỳ. Sự khác biệt tỷ lệ trong nghiên cứu này so với gần đây báo cáo từ Tehran có thể liên quan đến sự cải thiện độ nhạy của xét nghiệm cũng như đối tượng bệnh nhân và các mẫu phân tích. Kết quả cần được khẳng định bởi cỡ mẫu lớn hơn.

Theo các công trình nghiên cứu của Gaydos CA, Svensson LO [20], tần suất nhiễm C.trachomatis cao gặp ở đối tượng trẻ dưới 25 tuổi, có lẽ do nam nữ thanh niên các nước Châu Âu thường có quan hệ tình dục tự do ngoài hôn nhân, vì vậy họ dễ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong đó có nhiễm C.trachomatis. Tỷ lệ nhiễm vi khuẩn này ở người lớn tại Nam Thái Bình Dương là 73%, Papua New Guinea là 20%, Nhật Bản 7%, Senegan 7%.

Một nghiên cứu của Achchhe L Patel và cộng sự [11] trường đại học y khoa Indiana, Ấn Độ sử dụng các phương pháp phát hiện vi khuẩn C.trachomatis như Roche Amplicor test, DFA và PCR. Trong suốt quá trình nghiên cứu (2003–2009), tỷ lệ bệnh nhân nhiễm C.trachomatis dao động từ 24.0% đến 30.0%. Các phụ nữ hành nghề mại dâm ở Surat, Ấn Độ, có tỷ lệ dương tính (xét nghiệm bằng PACE2 test) là 8.5%, trong khi ở Ahmedabad, tỷ lệ này tăng gấp đôi. Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm C.trachomatis trong quần thể nghiên cứu ở thủ đô của Ấn Độ chỉ chiếm 4.0% mặc dù tỷ lệ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục là 36.5%. Tỷ lệ này tương tự với các nghiên cứu trên bệnh nhân ở Azerbaijan 3.1% và Bangladesh 3.4%. Tỷ lệ nhiễm cao được đề cập ở Manila 23.3%, Cebu, Philippines 37.0% và 14.0% ở Nicaragoa [11] .

Anahita Jenab và cộng sự (năm 2008) [12] nghiên cứu giá trị chẩn đoán PCR và ELISA trên vi khuẩn C.trachomatis ở phụ nữ không có triệu chứng và triệu chứng tại Isfahan, Iran nhằm xác định sự hiện diện của C.trachomatis bằng phản ứng chuỗi trùng hợp polymerase (PCR) và ELISA. Mẫu được thu thập sau khi có sự đồng ý bằng văn bản từ 80 bệnh nhân khám phụ khoa tại bệnh viện Shahid Beheshti ở Isfahan, Iran. Bệnh phẩm được thu thập từ 80 phụ nữ, 22 người trong số họ không có triệu chứng và 58 người có triệu chứng. 58 phụ nữ có triệu chứng khác nhau, từ 20-60 tuổi (có nghĩa là 36.3 ± 8.8 năm) và 22 phụ nữ không có triệu chứng khác nhau, từ 19 đến 56 tuổi (40 ± 10.5 năm). Tất cả các phụ nữ này được kiểm tra lâm sàng kỹ lưỡng. Độ tuổi trung bình của phụ nữ ở cả hai nhóm là 37.5 ± 9.4 năm. Những người đã dùng kháng sinh trong vòng 4 tuần qua được loại trừ khỏi nghiên cứu. Các mẫu đã được kiểm tra bằng phương pháp PCR được thiết kế để phát hiện C.trachomatis bằng cặp mồi KL1, KL2 trên cryptic plasmid của vi khuẩn này. Huyết thanh IgG và IgA kháng thể kháng C.trachomatis sử dụng phát hiện bằng phương pháp ELISA. Một tăm bông chứa dịch phết cổ tử cung của mỗi bệnh nhân được đặt vào một lọ nhựa 15 ml có chứa 5 ml dung dịch đệm (PBS) vô trùng và lưu trữ ở -70ºC cho đến khi tách chiết DNA. Ngoài ra, 5ml máu ngoại vi được thu thập từ mỗi bệnh nhân để điều tra huyết thanh học. Kit ELISA được sử dụng trong nghiên cứu rất cụ thể để phát hiện C.trachomatis và không có bất kỳ phản ứng chéo nào với các các loài khác của Chlamydia. Do đó, nó chỉ cho phép phát hiện các kháng thể kháng C.trachomatis trong mẫu, tức là IgG, IgA. Phát hiện C.trachomatis bằng phương pháp PCR: Để phát hiện sự hiện diện của C.trachomatis trong mẫu dich phết cổ tử cung, đoạn gen 241 bp trên plasmid vi khuẩn đã được khuếch đại nhờ cặp mồi KL1 (5’-TCCGGAGCGAGTACGAAGA-3’) và KL2 (5’-AATCAATGCCCGGGATT GGT-3’). Phản ứng PCR được thực hiện trên 5 μl chiết xuất DNA mẫu trong một hỗn hợp phản ứng cuối cùng là 25 μl. Hỗn hợp phản ứng cuối cùng có 3 mM MgCl2, 0.28 mM dNTP, 16 pmol của mỗi loại mồi và 1 U Taq polymerase. Chu trình nhiệt đã được thực hiện như sau: (94ºC/1 phút, 55ºC/1 phút, 72ºC/1 phút) × 40 chu kỳ, 72ºC trong 8 phút. Các sản phẩm PCR được phân tích bằng điện di trên gel agarose 1.5%. Kết quả: tỷ lệ nhiễm C.trachomatis khi xét nghiệm bằng phương pháp PCR là 27.2% ở phụ nữ không có triệu chứng và 18.9% trên đối tượng có triệu chứng. Kiểm tra huyết thanh học được thực hiện trên tất cả các mẫu cho kết quả nhiễm C.trachomatis là 29.4% và 17.6% tương ứng [12].

Theo CDC, số các trường hợp chẩn đoán đã gia tăng đến 19% ở đàn ông và 25% ở phụ nữ giữa năm 2008 và 2009. Theo một điều tra mới đây với quy mô lớn, các bệnh gây nên bởi C.trachomatis có thể có một vai trò quan trọng trong nguy cơ sinh non. Hơn 4000 phụ nữ có thai đã tham dự vào điều tra này bằng bảng câu hỏi và lấy mẫu nước tiểu xét nghiệm C.trachomatis bằng kỹ thuật sinh học phân tử (PCR). Kết quả có 4% các phụ nữ dương tính với vi khuẩn này [15]. Mặc dầu có tính đến những yếu tố khác (tuổi dưới 21, nhiều bạn tình), nhưng nguy cơ sinh non, sinh con từ 35 tuần thai nghén ở các trường hợp nhiễm trùng do C.trachomatis cao gấp đôi. Vì vậy, điều tra phát hiện các phụ nữ có nguy cơ và sử dụng thuốc kháng sinh thích hợp trong thời kỳ thai nghén sẽ cho phép làm giảm nguy cơ này. Nhiễm C.trachomatis có xu hướng ngày càng tăng, tỷ lệ phát hiện tại Mỹ năm 1987 là 50.8 ca (trong 100.000 dân); đến năm 2007 là 370.2 ca. Chi phí dành cho điều trị khoảng 3 tỷ USD/năm [18].

Hầu hết các phương pháp khuếch đại phát hiện C.trachomatis trong mẫu dịch niệu đạo, cổ tử cung và nước tiểu đã chứng minh là có độ nhạy cao hơn so với nuôi cấy tế bào hoặc các phương pháp phát hiện kháng nguyên (Black 1997). Các phương pháp hiện đang có sẵn, chẳng hạn như Amplicor CT PCR, Roche phát hiện sản phẩm khuếch đại bằng cách sử dụng peroxidase (HRP). Các phương pháp thương mại có lợi thế quan trọng, nhưng chi phí cao, không thích hợp với nhiều phòng thí nghiệm. Một số phương pháp khuếch đại phi thương mại cũng được mô tả. Hầu hết bao gồm một phản ứng PCR đơn có sản phẩm được phân tích dựa vào sản phẩm điện di trên gel agarose và nhuộm với ethidium bromide. Tuy nhiên phương pháp này giảm độ nhạy do các chất ức chế có trong các mẫu lâm sàng. Ngay cả trong trường hợp không có chất ức chế, phản ứng PCR có thể không đủ nhạy để phát hiện mẫu có chứa số lượng quá ít thể cơ bản (EB) của C.trachomatis.

Theo nghiên cứu của Pamela Cribb, Juan Pablo Scapini và Esteban Serra [22], phản ứng nested PCR sử dụng hai cặp oligonucleotides (KL5/KL6 và KL1/KL2) làm mồi có trình tự bổ sung với các đoạn nằm trên cryptic plasmid của C.trachomatis và sau hai vòng khuếch đại tạo ra một sản phẩm cuối cùng 241 bp. Ban đầu, phản ứng đầu tiên đã được chuẩn bị trong thể tích cuối cùng 50 µl có chứa 10 mM Tris (pH 9,0), 50 mM KCl, 3.5 mM MgCl2, 5 nmol mỗi loại dNTP, 20 pmol mỗi mồi KL5 (5-TTGCCTTAACCCCACCATT-3) và KL6 (5-CGTCCTTCCTAAAAGAG-CTA-3) và 1.25 U Taq polymerase (Promega). Sau 35 chu kỳ bao gồm 1 phút ở 94ºC, 1 phút ở 55°C, và 1 phút ở 72°C và một bước kéo dài trong 7 phút ở 72°C; 1 µl sản phẩm của phản ứng PCR đầu tiên đã được chuyển sang một ống phản ứng thứ hai với cùng thành phần ngoại trừ mồi là 20 pmol mỗi loại mồi KL1 (5-TCCGGAGCGAG-TTACTAAGA-3) và KL2 (5-ATCAATGCCCGGGATTGGT- 3) đã được thêm vào hỗn hợp phản ứng, và 35 chu kỳ mới được thực hiện. Các sản phẩm được phân tích bởi điện di trên gel agarose và nhuộm ethidium bromide. Độ nhạy của nested PCR được xác định bằng cách sử dụng số lượng DNA của C.trachomatis giảm dần. Khảo nghiệm đã có thể phát hiện DNA tương ứng với một EB trong phản ứng. Tuy nhiên, độ nhạy theo thử nghiệm lâm sàng có thể thấp hơn do chất ức chế PCR bị loại bỏ không hoàn toàn trong quá trình tách chiết DNA. Các kết quả độ nhạy trong thực nghiệm khác nhau dao động từ 1 đến 10 thể cơ bản (EB) mỗi phản ứng. Để tìm những điều kiện tốt nhất cho các xét nghiệm, thử nghiệm nồng độ khác nhau cho các thành phần của phản ứng, khối lượng và số chu kỳ khuếch đại. Kết quả tối ưu đạt được với phản ứng PCR đầu tiên trong 30 µl thể tích cuối cùng, có chứa 2.5 nmol dNTP mỗi loại, KL5/KL6 6 pmol mỗi mồi và 25 chu kỳ, tiếp theo với 50 µl của hỗn hợp phản ứng thứ hai và 35 chu kỳ. Cuối cùng, để xác định xem phản ứng có là một thử nghiệm chung xác định C.trachomatis hay không, các thí nghiệm tiến hành bằng cách sử dụng các mẫu khác để xét nghiệm. Kiểm tra cho thấy độ nhạy tương tự đối với mẫu nước tiểu, dịch niệu đạo, dịch nhày mũi họng, và bệnh phẩm từ mắt. Kết quả cho thấy nested PCR đối với phát hiện của C.trachomatis trong các mẫu lâm sàng là rất nhạy, có thể phát hiện ít hơn 10 EB mỗi phản ứng trong các mẫu sinh học khác nhau; loại bỏ đến mức thấp nhất việc phát hiện các kết quả âm tính giả bằng cách sử dụng một kiểm soát nội bộ khuếch đại; đủ mạnh để đối phó với các điều kiện thay đổi trong các phòng thí nghiệm khác nhau.

1.3.2. Các nghiên cứu trong nước


Tại Thành phố Hồ Chí Minh, một số nghiên cứu trong cộng đồng cho thấy tỷ lệ nhiễm C.trachomatis ở phụ nữ thay đổi từ 18% đến 32.5%, trong đó một số yếu tố nguy cơ được nhận diện như số bạn tình, độ tuổi bắt đầu quan hệ tình dục, tiền căn bệnh phụ khoa.

Năm 1995, khảo sát tỷ lệ hiện mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục được Vụ Sức Khỏe Bà Mẹ Trẻ Em và Kế Hoạch Hóa Gia Đình của Bộ Y Tế thực hiện ở Việt Nam [29]. Đối tượng là các phụ nữ đến khám tại Trung Tâm Sức Khỏe Bà Mẹ Trẻ Em và Kế Hoạch Hóa Gia Đình thành phố Hồ Chí Minh trong 10 tuần gồm 812 phụ nữ ở độ tuổi 15 đến 39. Chẩn đoán bệnh lậu dựa trên nuôi cấy và xác nhận bằng một xét nghiệm kháng thể đơn dòng đặc hiệu cho N.gonorrhoea. Sự hiện diện của C.trachomatis được xác định bằng kỹ thuật ELISA phát hiện kháng nguyên (IDEIA) trong bệnh phẩm nội mạc cổ tử cung. TPHA được thực hiện cho tất cả các mẫu máu để tìm bệnh giang mai. Tỷ lệ bệnh lây truyền qua đường tình dục phát hiện được ở giang mai 0.5%, lậu 0.7% và C.trachomatis 2.5%.

Một nghiên cứu cắt ngang về nhiễm HIV và các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ mại dâm tại phía nam Việt Nam đã được Nguyễn Thị Thanh Thủy, Võ Tuyết Nhung, Nguyễn Văn Thục, Trương Xuân Liên và Hạ Bá Khiêm thực hiện vào 1995-1996 [24]. Tổng cộng 968 phụ nữ mại dâm ở thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và An Giang được làm xét nghiệm. Các xét nghiệm bệnh lây truyền qua đường tình dục được thực hiện là: nuôi cấy để phân lập N.gonorrhoeae, ELISA (Sanofi, Organon) để phát hiện nhiễm HIV được xác nhận bằng Western Blot, TPHA cho giang mai, DIF cho C.trachomatis và ELISA HBsAg cho HBV. Tỷ lệ hiện mắc của các bệnh lây truyền qua đường tình dục được phát hiện là 40.4% cho giang mai, 3.3% cho lậu, 5.8% cho C.trachomatis, 5.2% cho HIV và 9% cho HBV.

Trong thời gian từ tháng 2/1998 đến 3/1999, các tác giả đã khảo sát 415 phụ nữ từ 15-49 tuổi có gia đình đang sống tại huyện Hóc Môn thành phố Hồ Chí Minh [3]. Các đối tượng được chọn một cách ngẫu nhiên, nếu có đủ điều kiện nghiên cứu thì lập danh sách theo phương pháp ngẫu nhiên đơn, sau đó gửi thư mời đối tượng đến trạm y tế xã khám phụ khoa và lấy mẫu. Cách xử lý bệnh phẩm cũng như cách đọc kết quả được tuân theo quy trình hướng dẫn của bộ xét nghiệm do Bio Merieux cung cấp. Kết luận dương tính với C.trachomatis khi có hơn 10 thể phát huỳnh quang trên quang trường với vật kính 40; bệnh phẩm âm tính khi không có thể C.trachomatis phát huỳnh quang và ít nhất phải có hơn 50 tế bào thượng bì trên bề mặt của giếng. Kết quả 75 nguời có hiện diện của C.trachomatis trên bệnh phẩm phết cổ tử cung, như vậy tần suất lưu hành của viêm cổ tử cung do C.trachomatis là 18.07%.

Tỷ lệ viêm cổ tử cung do C.trachomatis ở phụ nữ đi khám phụ khoa là 32.5% của Trần Thị Lợi tiến hành năm 1999 [8].

Năm 2001-2002, Huỳnh Thị Trọng, Nguyễn Quốc Chinh và Nguyễn Văn Tú đã thực hiện một nghiên cứu cắt ngang với phương pháp chọn mẫu xác suất với cỡ mẫu để xác định tỷ lệ hiện mắc các nhiễm khuẩn đường sinh sản dưới của 2234 phụ nữ đã kết hôn, ở lứa tuổi mang thai, sống tại thành phố Hồ Chí Minh [25]. Các xét nghiệm được thực hiện là: nuôi cấy để phân lập N.gonorrhoea, Smart Check Chlamydia cho C.trachomatis. Tỷ lệ hiện mắc lậu là 0.2%, C.trachomatis là 0.6%,

Năm 2002-2003, Ủy Ban Dân Số, Gia Đình và Trẻ Em Việt Nam – Cục Phòng Chống AIDS Bộ Y Tế và Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành nghiên cứu bệnh lây truyền qua đường tình dục ở phụ nữ mãi dâm tại 5 tỉnh biên giới Lai Châu, Quảng Trị, Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang [26]. Có tất cả 703 phụ nữ mãi dâm của 5 tỉnh tham gia vào nghiên cứu cắt ngang này. Xét nghiệm bệnh lậu và C.trachomatis qua mẫu nước tiểu bằng kỹ thuật Roch Amplicor. Tỷ lệ mắc lậu, C.trachomatis, lậu/C.trachomatis tại Lai Châu 2.0%, 1.0%, 27.3%; Quảng Trị 1.0%, 12.9%, 32.7%; Đồng Tháp 4.7%, 11.4%, 16.0%; An Giang 7.0%, 10.7%, 11.3% và Kiên Giang 4.0%, 13.4%, 24.4%.

Năm 2003, Trung tâm phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) cùng Viện Da Liễu trung ương tiến hành một cuộc điều tra về tỷ lệ lưu hành STI/HIV của các nhóm quần thể dân cư khác nhau tại 5 tỉnh của Việt Nam [29]. Nhiễm C.trachomatis được phát hiện bằng phản ứng PCR và tỷ lệ mắc là 9% trong nhóm tân binh tại Hà Nội và 0.5-5% trong nhóm bệnh nhân đến phòng khám bệnh lây truyền qua đường tình dục. Trong nhóm phụ nữ có thai, tỷ lệ mắc C.trachomatis từ 1.5% đến 5.8%.

Năm 2003, Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh và Văn Phòng Phòng Chống AIDS cùng Trung Tâm Phòng Chống Bệnh Xã Hội Sóc Trăng nghiên cứu về bệnh lây truyền qua đường tình dục ở 395 phụ nữ mại dâm của tỉnh Sóc Trăng [29]. Các kỹ thuật được sử dụng để xét nghiệm lây truyền qua đường tình dục là PCR (Amplicor CT/NG, Roch, 2002) để tìm N.gonorrhoeaC.trachomatis trong nước tiểu. Tỷ lệ hiện mắc lậu, C.trachomatis, lậu/C.trachomatis là 14.9%, 48.4%, 54.9%.

Tần suất nhiễm C.trachomatis ở phụ nữ đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và đã có một số số liệu ban đầu ghi nhận tỉ lệ nhiễm C.trachomatis ở một số đối tượng trong cộng đồng như phụ nữ đang mang thai, phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, cũng như ở những đối tượng nguy cơ cao như phụ nữ đến khám phụ khoa và phụ nữ vô sinh do tắc ống dẫn trứng. Tần suất nhiễm C.trachomatis thay đổi theo từng tác giả, từng nhóm đối tượng, tuy vậy đều thống nhất trong khoảng 20 – 40% ở đối tượng trong cộng đồng [1]. Điểm chung của các nghiên cứu trên là sử dụng kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trực tiếp để tìm kháng nguyên, xác định tình trạng hiện đang nhiễm C.trachomatis.

Lần đầu tiên tại Việt Nam, xét nghiệm kháng thể kháng C.trachomatis được sử dụng như một xét nghiệm sàng lọc. Đối tượng nghiên cứu là tất cả các trường hợp điều trị vô sinh có chỉ định thực hiện thủ thuật thụ tinh nhân tạo (TTNT) tại khoa Hiếm muộn, bệnh viện Từ Dũ trong thời gian từ 20/2/2004 đến 20/7/2004 [31]. Bệnh nhân được tư vấn về tình hình nhiễm C.trachomatis trong cộng đồng, khả năng nhiễm bệnh của bản thân và ảnh hưởng của nhiễm C.trachomatis lên hiệu quả điều trị. Bệnh nhân cũng được tư vấn về xét nghiệm kháng thể kháng C.trachomatis và đồng ý tham gia nghiên cứu. Khi được nhận vào nghiên cứu, bệnh nhân đã được ghi nhận về bệnh sử, thăm khám lâm sàng, thực hiện những xét nghiệm cơ bản. Vào ngày thứ 2 hoặc 3 của kỳ kinh, bệnh nhân được lấy máu thử kháng thể kháng C.trachomatis loại IgG và được bắt đầu dùng toa thuốc kích thích phát triển nang noãn theo phác đồ chuẩn tại khoa. Quy trình thực hiện thủ thuật TTNT được tiến hành theo phác đồ chuẩn tại khoa Hiếm muộn, bệnh viện Từ Dũ. Xét nghiệm Platelia® Chlamydia IgG được thực hiện tại khoa xét nghiệm bệnh viện Từ Dũ, sử dụng máy và bộ xét nghiệm của hãng Bio-Rad bằng kỹ thuật ELISA. Trong thời gian từ 1/3 đến 20/7/2004 có 425 bệnh nhân điều trị vô sinh bằng thủ thuật TTNT được nhận vào nghiên cứu. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 28.3 (từ 19 đến 35), thời gian vô sinh trung bình là 3.7 năm (từ 1 đến 6 năm). Có 99 bệnh nhân cho kết quả dương tính với xét nghiệm kháng thể kháng C.trachomatis (nhóm Ct IgG+), chiếm tỷ lệ 23.3%. Mặc dù không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kết quả điều trị (tỷ lệ beta-hCG dương tính và tỷ lệ thai lâm sàng) giữa hai nhóm bệnh nhân, vẫn có thể ghi nhận tỷ lệ có thai trong nhóm xét nghiệm âm tính với C.trachomatis (nhóm Ct IgG-) cao hơn hẳn (gấp 8 lần) so với kết quả của nhóm xét nghiệm dương tính với C.trachomatis (nhóm Ct IgG+).

Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2006, một nghiên cứu áp dụng kỹ thuật PCR xét nghiệm chẩn đoán C.trachomatis được thực hiện tại Viện da liễu quốc gia trên 555 bệnh nhân [7]. Bệnh nhân là đối tượng trên 15 tuổi đến khám có biểu hiện tiết dịch niệu đạo và tiết dịch âm đạo. Bệnh phẩm là dịch tiết niệu đạo (đối với bệnh nhân nam) và dịch tiết cổ tử cung (đối với bệnh nhân nữ). Tiến hành tách chiết DNA bằng Qiamp DNA Mini Kit của hãng Qiagen, chẩn đoán nhiễm C.trachomatis bằng kỹ thuật PCR với hai cặp mồi KL1/KL2 (nhân đoạn 241 bp trên plasmid của C.trachomatis) và T1/T2 (nhân đoạn 200 bp trên plasmid của C.trachomatis). Bệnh nhân được khẳng định kết quả dương tính khi cả hai cặp mồi đều cho kết quả dương tính. Kết quả có 90 bệnh nhân dương tính với cả hai cặp mồi, chiếm tỷ lệ 16.2%. Trong đó tỷ lệ nhiễm C.trachomatis ở nữ giới là 21/205, chiếm 10.2%. So sánh PCR sử dụng cặp mồi T1/T2, phương pháp PCR sử dụng cặp mồi KL1/KL2 có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu là 99.8%. Độ nhạy và độ đặc hiệu này cao tương đương với các kết quả đã công bố.

Tỷ lệ nhiễm C.trachomatis ở Việt Nam năm 2007 khoảng 5897 ca. Tại Viện Da liễu quốc gia, bằng phương pháp miễn dịch sắc ký phát hiện tỷ lệ nhiễm khoảng 10% số bệnh nhân STI, bằng kỹ thuật PCR phát hiện 16.2%. Trong đó các yếu tố nguy cơ bao gồm bệnh nhân nữ nhỏ hơn 25 tuổi; bệnh nhân nam có viêm đỏ quy đầu hoặc tiết dịch đục, bệnh nhân độc thân [10].

Lấy mẫu kiểu ngẫu nhiên các đối tượng hút thai ba tháng đầu thai kỳ trong giờ hành chính, tại khoa kế hoạch hóa gia đình Bệnh viện Từ Dũ từ 01/08/2007 đến 30/01/2008, thu thập bệnh phẩm tại kênh cổ tử cung làm xét nghiệm PCR (Amplicor® của hãng Roche) được thực hiện tại viện Pasteur, Phạm Văn Đức và cộng sự đã thu được kết quả: trong 1.003 trường hợp nghiên cứu tỷ lệ nhiễm C.trachomatis là 9.2%, phần lớn rơi vào các đối tượng trẻ dưới 30 tuổi, kinh tế trung bình [4].

Tại bệnh viện Phong-Da liễu Trung ương Quy Hoà, tác giả Nguyễn Phúc Như Hà và cộng sự [5,30] đã sử dụng phản ứng multiplex PCR phát hiện vi khuẩn C.trachomatis. Mẫu thử là DNA tách chiết từ các huyền dịch vi khuẩn C.trachomatis và mẫu bệnh phẩm lâm sàng như dịch niệu đạo, nước tiểu nam giới, dịch phết cổ tử cung. Sử dụng mồi đặc hiệu (đặt TaKaRa tổng hợp) cho đoạn DNA dài 241 bp trên cryptic plasmid của C.trachomatis trong thể tích phản ứng là 25 l. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Multiplex PCR có khả năng phát hiện rất cao, có thể nói là lý tưởng đạt mức phát hiện tối thiểu chỉ cần 1 DNA bộ gen của vi khuẩn đích có mặt trong mẫu thử là có thể phát hiện được. Kết quả xét nghiệm bệnh nhân thu được 12.1% trường hợp dương tính trên các tổng số các trường hợp được chẩn đoán viêm cổ tử cung.

Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân tiết dịch âm đạo đến khám tại bệnh viện da liễu thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 6 năm 2008 được xét nghiệm quick test và PCR [6]. 245 bệnh nhân trên 18 tuổi, chia 3 nhóm bị tiết dịch niệu đạo (95), tiết dịch âm đạo (70), bệnh nhân nữ không triệu chứng nhưng có yếu tố nguy cơ (80). Kết quả xét nghiệm bằng PCR: tỷ lệ dương tính với C. Trachomatis ở nhóm bị tiết dịch niệu đạo là 26/95 (27.4%), bệnh nhân có triệu chứng tiết dịch âm đạo là 25/70 (35.7%), bệnh nhân không triệu chứng là 21/80 (26.3%).





Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 361.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương