SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang51/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   47   48   49   50   51   52   53   54   ...   68

2350 1632

Những người đã đính hôn cũng được mời gọi tiết dục để giữ khiết tịnh. Trong thời gian thử thách này, họ học biết tôn trọng lẫn nhau, tập chung thủy và hy vọng được đón nhận nhau như quà tặng của Thiên Chúa. Họ sẽ dành những hành động biểu lộ tình yêu vợ chồng cho sau ngày thành hôn. Họ phải giúp nhau sống khiết tịnh.


Những lỗi phạm đến đức khiết tịnh
2351 2528

Dâm ô là ham muốn sai trái hay hưởng thụ vô độ khoái lạc tình dục. Khoái lạc tình dục trở thành sai trái, khi con người chỉ tìm hưởng thụ để thỏa mãn chính mình, chứ không nhằm mục đích truyền sinh và kết hợp trong tình yêu.


2352

Thủ dâm là cố tình kích thích cơ quan sinh dục nhằm gây khoái lạc tình dục. "Dựa theo truyền thống ngàn đời và bất biến, huấn quyền cũng như cảm thức luân lý của các tín hữu không ngần ngại khẳng định rằng, thủ dâm tự bản chất là một hành động sai trái nghiêm trọng", vì "tự ý sử dụng khả năng tình dục ngoài quan hệ vợ chồng bình thường, dù với động lực nào đi nữa, cũng là sai mục đích". Làm như vậy, người ta hưởng thụ khoái lạc tình dục bên ngoài "quan hệ tình dục hợp luật luân lý là quan hệ thực hiện một sự hiến thân trọn vẹn cho nhau và thực hiện việc truyền sinh trong khuôn khổ của tình yêu đích thực" ( x. CDF,déd. "Persona humana" 9 ).



1735

Để phán đoán đúng đắn về trách nhiện luân lý của đương sự, cũng như đưa ra một đường hướng mục vụ, chúng ta cần lưu ý đến tình trạng thiếu trưởng thành tình cảm, áp lực của các thói quen, tâm trạng lo âu cũng như những yếu tố khác về tâm lý xã hội. Các nhân tố này có thể làm trách nhiệm luân lý của đương sự được giảm khinh ngay cả đến mức tối thiểu.


2353

Tà dâm là quan hệ xác thịt ngoài hôn nhân giữa một người nam và một người nữ. Đây là lỗi nặng, xúc phạm đến nhân phẩm và phái tính của con người, vốn qui về lợi ích của đôi vợ chồng, cũng như sinh sản và giáo dục con cái. Ngoài ra, tà dâm còn là một gương xấu nghiêm trọng khi làm băng hoại giới trẻ.


2354 2523

Sách báo và tranh ảnh khiêu dâm, cố ý phơi bày những hành vi tình dục thầm kín thực sự hay mô phỏng ấn phẩm khiêu dâm, xúc phạm đến đức khiết tịnh vì làm biến chất hành vi ái ân là việc trao ban thầm kín của vợ chồng với nhau; chúng làm tổn thương nặng nề đến phẩm giá của những người dự phần (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả), vì người này trở thành đối tượng cho một thú vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người kia. Ấn phẩm khiêu dâm đưa tất cả những người tham gia vào thế giới ảo tưởng. Đó là một lỗi nặng. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến những ấn phẩm khiêu dâm này.


2355 1735

Mại dâm xúc phạm đến phẩm giá của người bán dâm vì họ biến mình thành trò vui xác thịt cho người mua dâm. Kẻ mua dâm phạm tội nặng nơi bản thân: họ vi phạm đức khiết tịnh đã cam kết khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, và làm ô uế thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần ( x. 1Cr 6,15-20 ). Mại dâm là một đại họa cho xã hội, thường là phụ nữ hành nghề, nhưng cũng có đàn ông, trẻ em cũng như thiếu niên (trong hai trường hợp cuối, tội thêm nặng vì gây gương mù, gương xấu). Mại dâm bao giờ cũng là tội trọng; nhưng trách nhiệm của kẻ mại dâm có thể giảm khinh vì túng bấn, bị hăm dọa hay áp lực xã hội.


2356 2297 1756 2388

Hiếp dâm là dùng bạo lực bắt kẻ khác quan hệ nhục dục với mình. Đây là tội phạm đến công bằng và bác ái. Hiếp dâm xúc phạm nặng nề đến quyền được tôn trọng, quyền tự do và toàn vẹn thể lý cũng như tinh thần của nạn nhân, gây thương tổn nghiêm trọng có thể kéo dài cả cuộc đời của nạn nhân. Hiếp dâm tự nó là một hành vi xấu xa, tội này lại càng nặng nề hơn nữa, khi cha mẹ hay người giáo dục lạm dụng thân xác các em được ủy thác cho họ.


Đức khiết tịnh và sự đồng tính luyến ái
2357 2333

Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy bị lôi cuốn tính dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái. Đồng tính luyến ái xuất hiện trong nhiều thời đại và văn hóa, với nhiều hình thức khác nhau. Cho đến nay, người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân tâm thần của hiện tượng này. Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng ( x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1Tm 1,10 ), truyền thống HộiThánh luôn tuyên bố :"Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn" ( x. CDF, décl "persona humana" 8 ). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.


2358

Đừng quên một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống và, nếu là


2359 2347

Những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi sống khiết tịnh. Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Ki-tô giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một tình bạn vô vị lợi.


III. TÌNH YÊU VỢ CHỒNG
2360 1601

Theo ý định của Thiên Chúa, phái tính hướng về tình yêu vợ chồng. Trong hôn nhân, ái ân trở thành dấu chỉ và bảo đảm của sự hiệp thông tinh thần. Giữa hai tín hữu, dây liên kết hôn nhân được thánh hóa bằng bí tích.


2361 1643-2332

"Nhờ khả năng tính dục, người nam và người nữ hiến thân cho nhau qua những hành vi dành riêng cho vợ chồng. Tính dục không chỉ là hành vi sinh lý, nhưng liên can đến những điều thâm sâu nhất của nhân vị. Tính dục chỉ thực sự xứng đáng với con người, khi nó là thành phần không thể thiếu của tình yêu giữa người nam và người nữ đã cam kết hiến thân cho nhau trọn vẹn suốt đời ( x. FC 11 ).


1611

Tô-bi-a chỗi dậy, ra khỏi giường và nói với Sa-ra : "Đứng lên em, chúng ta hãy cầu nguyện nài xin Đức Chúa xót thương và phù hộ chúng ta". Cô đứng lên, rồi cả hai bắt đầu cầu nguyện và nài xin cho mình được an lành. Tô-bi-a bắt đầu như sau : "Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con, xin chúc tụng Chúa.... Chính Chúa đã dựng nên ông A-đam, dựng nên cho ông một người trợ thủ và nâng đỡ là bà E-và vợ ông. Và loài người đã sinh ra từ hai ông bà. Chính Chúa đã nói : "Con người ở một mình thì không tốt, Ta sẽ làm cho nó một người trợ thủ giống như nó". Giờ đây, không phải vì lòng dục mà con lấy em con đây, nhưng vì lòng chân thành. Xin Chúa đoái thương con và em con, cho chúng con được sống bên nhau đến tuổi già". Rồi họ đồng thanh nói : "A-men, A-men!" Sau đó, họ ngủ luôn cho đến sáng" (Tb 8, 4-9).


2362

"Những hành vi thực hiện sự kết hợp thân mật và thanh khiết của đôi vợ chồng đều cao quý và chính đáng. Được thi hành cách thực sự nhân linh, những hành vi ấy biểu hiện và khích lệ sự hiến thân cho nhau nhờ đó hai người làm cho nhau thêm phong phú trong hoan lạc và biết ơn" ( x. GS 49,2 ).

“Chính Đấng Sáng Tạo ... đã muốn rằng trong nhiệm vụ truyền sinh đôi vợ chồng cảm thấy một sự vui thú và thỏa mãn nơi thân xác và tinh thần. Vì vậy, vợ chồng chẳng làm điều gì xấu khi tìm kiếm và tận hưởng sự khoái lạc đó. Họ đón nhận những gì Đấng Sáng Tạo đã ban cho. Tuy nhiên, họ phải biết giữ tiết độ” ( Pi-ô XII, bài giảng 29 - 10 - 1951 ).
2363

Nhờ sự kết hợp của vợ chồng, hai mục đích của hôn nhân được thực hiện : lợi ích của chính đôi vợ chồng và lưu truyền sự sống. Không thể tách rời hai ý nghĩa hoặc hai giá trị này của hôn nhân mà không làm biến chất đời sống tinh thần của vợ chồng cũng như phương hại đến lợi ích của hôn nhân và tương lai của gia đình.


Như thế tình yêu vợ chồng đòi hỏi người nam và người nữ vừa phải chung thủy vừa phải sẵn sàng đón nhận con cái.
1646-1648

Sự thủy chung của vợ chồng
2364 1603 1615

"Đấng Sáng Tạo đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và yêu thương của đôi vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân nghĩa là sự ưng thuận cá nhân và không thể rút lại ( x. GS 48,1 ). Cả hai hiến thân cho nhau vĩnh viễn và trọn vẹn. Họ không còn là hai, nhưng đã trở thành một thân thể duy nhất. Khi đã tự do cam kết, hôn ước buộc đôi vợ chồng không được tiêu hủy hoặc lập một hôn ước khác (x. CIC, can. 1056 ). "Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, thì loài người không được phân ly" (Mc 10,9) ( x. Mt 19,1-12 , 1 Cr 7,10-11 ).


2365 1640

Thiên Chúa là Đấng trung tín vì Người kiên trì giữ lời thề hứa. Bí tích Hôn Phối làm cho hai vợ chồng tham dự vào sự trung tín của Đức Ki-tô đối với Hội Thánh. Nhờ sống khiết tịnh trong hôn nhân, họ minh chứng mầu nhiệm đó trước mặt thế gian.


Thánh Gio-an Kim Khẩu gợi ý cho các tân lang tâm sự với tân nương : anh yêu em, anh quí em hơn cả mạng sống mình. Cuộc sống này chẳng là gì hết, anh chỉ mơ ước được sống bên em ở đời này và hy vọng không bao giờ chia lìa ở đời sau....Anh yêu em hơn mọi sự, và không gì làm cho anh khổ tâm bằng anh không có được những tâm tình như em (Bài giảng Eph. 20,8 ).
Chức năng truyền sinh
2366

Truyền sinh là một ân huệ, một mục tiêu của hôn nhân, vì tình yêu vợ chồng tự nhiên hướng về việc sinh sản con cái. Con cái là hoa quả và thành tựu của tình yêu vợ chồng, hiện diện ngay trong việc vợ chồng hiến thân cho nhau, chứ không phải một cái gì từ bên ngoài được ghép vào. Vì thế Hội Thánh "bảo vệ sự sống" ( x. FC 30 ) và dạy rằng "mọi hành vi ân ái phải tự nó mở ngỏ cho việc truyền sinh" ( x. HV 11 ). "Giáo lý này đã được Huấn Quyền trình bày nhiều lần, nền tảng của giáo lý này là sự liên kết bất khả phân ly giữa hai ý nghĩa của hành vi ân ái : kết hợp và truyền sinh. Đây là điều chính Thiên Chúa đã muốn và con người không được tách rời ( x. HV 12; x. Piô XI, enc. "Casti connubii" ).


2367 2205

Vì được mời gọi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào quyền năng sáng tạo và tư cách làm cha làm mẹ cùng với Thiên Chúa (x. Ep 3,14, Mt 23,9). "Trong khi thi hành bổn phận truyền sinh và giáo dục (điều phải được coi là sứ mệnh riêng biệt của vợ chồng), đôi vợ chồng biết rằng mình cộng tác với tình yêu của Thiên Chúa sáng tạo và như trở thành những người diễn đạt tình yêu của Người. Do đó, họ sẽ chu toàn bổn phận trong tinh thần trách nhiệm của một con người và của Ki-tô hữu" ( x. GS 50,2 ).


2368

Một khía cạnh đặc biệt của trách nhiệm đó là điều hòa truyền sinh. Khi có lý do chính đáng, đôi vợ chồng có quyền kéo dài khoảng cách giữa các lần sinh nở. Chính họ phải chứng thực rằng ước muốn đó không do ích kỷ, nhưng xứng hợp với lòng quảng đại chính đáng của bậc làm cha mẹ có trách nhiệm. Ngoài ra, họ phải xử sự theo những tiêu chuẩn khách quan của luân lý :


"Khi cần hòa hợp tình yêu vợ chồng với việc sinh sản con cái có trách nhiệm, phải ý thức rằng giá trị luân lý của hành động không chỉ lệ thuộc vào ý muốn thành thực và việc cân nhắc các lý do, nhưng phải được thẩm định theo những tiêu chuẩn khách quan suy diễn từ bản tính nhân vị và của hành động nơi nhân vị : những tiêu chuẩn ấy tôn trọng ý nghĩa trọn vẹn của sự trao hiến và sinh sản con cái trong khung cảnh tình yêu đích thực. Đó là điều không thể thực hiện được nếu không thực tâm vun trồng đức khiết tịnh trong bậc vợ chồng" (x. GS 51,3).
2369

"Khi duy trì hai khía cạnh thiết yếu là kết hợp và truyền sinh, hành vi ân ái giữ được toàn vẹn ý nghĩa của tình yêu hỗ tương và chân thực, qui hướng về ơn gọi vô cùng cao cả của con người là được làm cha làm mẹ" ( x. HV 12 ).



2370

Tiết dục định kỳ cũng như những phương pháp điều hòa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai ( x. HV 16 ), đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính. Ngược lại, "mọi hành động nhằm mục đích hay tạo phương thế ngăn cản sự truyền sinh trước, hoặc trong khi giao hợp, hoặc trong diễn tiến các hiệu quả tự nhiên của việc giao hợp, tự bản chất là xấu" ( HV 14).


“Trong hôn nhân, hai vợ chồng hiến thân trọn vẹn cho nhau. Việc ngừa thai đi ngược lại vì họ không còn trao tặng cho nhau trọn vẹn nữa. Chẳng những họ không cộng tác vào công cuộc trao ban sự sống mà còn làm sai lạc chân lý nội tại của tình yêu vợ chồng là hiến thân trọn vẹn cho nhau. Về mặt nhân học và luân lý, sự khác biệt giữa ngừa thai và việc sử dụng các chu kỳ thụ thai bắt nguồn từ hai quan niệm không thể giản lược với nhau về con người và về tính dục của con người” (FC 32).
2371 1703

"Ngoài ra, mọi người đều phải ý thức rằng sự sống con người, và trách nhiệm lưu truyền sự sống, không chỉ giới hạn ở đời này, cũng như không thể hiểu và đo lường được trọn vẹn ý nghĩa ở đời này, nhưng luôn qui chiếu về định mệnh vĩnh cửu của con người" ( x. GS 51, 4 ) ).


2372 2209

Nhà Nước có trách nhiệm mang lại lợi ích cho các công dân, nên có quyền can thiệp để định hướng việc gia tăng dân số. Tuy nhiên, chỉ được làm qua những thông tin khách quan và tôn trọng tự do, chứ không bao giờ được dùng biện pháp quyền lực và cưỡng bách. Nhà Nước không được tước bỏ quyền quyết định của các đôi vợ chồng, vì chính họ là những người đầu tiên có trách nhiệm về việc sinh sản và giáo dục các con cái ( x. HV 23,PP 37 ). Trong lãnh vực này, Nhà Nước không có quyền can thiệp bằng những phương thế trái với luật luân lý.


Con cái là quà tặng của Thiên Chúa
2373

Thánh Kinh và Thánh Truyền coi những gia đình đông con là một dấu chỉ phúc lành của Thiên Chúa và lòng quảng đại của cha mẹ ( x. GS 50, 2 ).


2374 1654

Thật đau khổ cho những đôi vợ chồng không con. "Ông Áp-ra-ham thưa : Lạy Đức Chúa, Chúa sẽ ban cho con cái gì ? Con ra đi mà không con cái" (St 15, 2). Ra-khen nói với chồng mình là Gia-cóp : "Xin cho tôi được có con, không thì tôi chết mất" (St 30,1)


2375 2293

Những nghiên cứu nhằm giải quyết chứng vô sinh rất đáng khuyến khích, với điều kiện chúng phải "phục vụ con người, phục vụ các quyền bất khả nhượng cũng như lợ)i ích đích thực và toàn vẹn của con người, đúng theo dự định và ý muốn của Thiên Chúa" ( x."Donum vitae" 2 ).


2376

Những kỹ thuật phá vỡ liên hệ phụ mẫu qua sự can thiệp của một người thứ ba (cho tinh dịch hoặc noãn bào, cho mượn tử cung) là những hành vi phải bị loại bỏ. Những kỹ thuật này (thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo khác nguồn) vi phạm quyền của đứa trẻ phải được sinh ra do cha mẹ đã chính thức kết hôn và quyền được biết cha mẹ là ai. Những kỹ thuật này vi phạm "độc quyền làm cha làm mẹ của đôi vợ chồng" ( x."Donum vitae" 2,1 ).


2377

Nếu được thực hiện cho đôi vợ chồng, những kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ thai nhân tạo cùng nguồn, có lẽ sẽ ít tổn hại hơn; nhưng về mặt luân lý, chúng vẫn không thể được chấp nhận, vì tách rời hành vi tính dục với việc truyền sinh. Sinh sản con cái không còn là một hành vi của hai con người hiến thân cho nhau, nhưng "sự sống và căn tính của phôi thai bị trao vào tay các bác sĩ và các nhà sinh học, và để kỹ thuật thống trị trên nguồn gốc và vận mệnh của con người. Một mối quan hệ thống trị như thế tự bản chất đi ngược với phẩm giá và sự bình đẳng chung của cả cha mẹ lẫn con cái" ( x."Donum vitae" 2,5 ). Về phương diện luân lý, việc truyền sinh mất đi sự hoàn thiện đặc thù của nó, khi không còn là kết quả của hành vi ân ái, nghĩa là quan hệ vợ chồng... Để cho việc truyền sinh xứng với phẩm giá con người, chúng ta phải tôn trọng mối dây liên hệ giữa những ý nghĩa của hành vi ân ái và sự tôn trọng tính thống nhất của bản tính con người" ( x."Donum vitae" 2,4 ).


2378

Đứa trẻ không phải là một của nợ, nhưng là một hồng ân . "Hồng ân ưu việt của hôn nhân" là một con người. Không được coi đứa trẻ như một vật sở hữu, như người ta thường nghĩ là mình có "quyền trên con cái". Trong lãnh vực nầy, đứa trẻ thực sự có những quyền: quyền được sinh ra trong tình yêu của cha mẹ, và quyền được tôn trọng như một con người ngay từ lúc mới thành thai (x."Donum vitae" 2,8).



2379

Tin Mừng cho thấy vô sinh thể lý không phải là một điều dữ tuyệt đối. Đôi vợ chồng nào, sau khi đã tận dụng mọi trợ giúp chính đáng của y khoa, vẫn phải chịu nỗi đau khổ vô sinh, được mời gọi liên kết với Thập Giá của Chúa là nguồn mạch mọi phong phú thiêng liêng. Họ có thể sống quảng đại bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi hoặc tham gia những công tác phục vụ tha nhân.


IV. NHỮNG XÚC PHẠM ĐẾN PHẨM GIÁ HÔN NHÂN
2380 1611

Ngoại tình là thất tín của vợ chồng. Khi hai người nam nữ có quan hệ tính dục với nhau, dù là nhất thời mà trong đó có ít nhất một người đã kết hôn thì cả hai phạm tội ngoại tình. Đức Ki-tô lên án tội này ngay cả khi chỉ là một ước muốn (x. Mt 5,27-28). Điều răn thứ sáu và Tân Ước tuyệt đối cấm tội ngoại tình ( x. Mt 5,32; 19,6; Mc 10,11; 1Cr 6,9-10 ).

Các ngôn sứ tố giác tội ngoại tình là một tội trọng vì là một trong các hình thức thờ ngẫu tượng ( x. Hs 2,7; Gr 5,7; 13,27 ).


2381 1640

Ngoại tình là điều bất công. Người phạm tội đó bỏ không thực hiện những cam kết của mình, làm tổn hại đến dây liên kết hôn nhân là dấu chỉ của sự giao ước, vi phạm quyền của người phối ngẫu và xâm phạm định chế hôn nhân khi lỗi phạm hôn ước. Người ấy làm phương hại đến lợi ích của việc sinh sản và của con cái vốn cần đến sự kết hợp bền vững của cha mẹ.




Ly hôn
2382 1614

Chúa Giê-su nhấn mạnh đến ý định ban đầu của Đấng Sáng Tạo là hôn nhân bất khả phân ly ( x. Mt 5,31-32; 19,3-9; Mc 10,9; Lc 16,18; 1Cr 7,10-11 ). Người bãi bỏ những khoan nhượng trong luật cũ (x. Mt 19,7-9 ).


Giữa hai người đã chịu Bí Tích Thánh Tẩy, "hôn nhân đã ký kết và hoàn hợp thì không thể bị tháo gỡ bởi bất cứ quyền lực nhân loại nào, bất cứ vì lý do gì, ngoại trừ cái chết" ( x. CIC, can. 1141 ).
2383 1649

Trong một số trường hợp đã được Giáo Luật dự liệu, đôi vợ chồng có thể được phép ly thân nhưng vẫn còn duy trì dây liên kết hôn nhân ( x. CIC, can. 1151-1155 ).


Nếu việc ly hôn về phần đời là phương cách duy nhất còn lại để bảo đảm một số quyền lợi chính đáng, chăm sóc con cái hoặc bảo vệ gia sản, thì có thể tạm chấp nhận mà không lỗi về luân lý.
2384 1650

Ly dị vi phạm nghiêm trọng luật tự nhiên, phế bỏ khế ước mà vợ chồng đã tự do ưng thuận để sống với nhau cho đến chết. Ly dị làm tổn hại giao ước cứu độ mà bí tích Hôn Phối là dấu chỉ. Tái hôn dù được luật đời công nhận càng làm cho tình trạng đỗ vỡ thêm tệ hại : người tái hôn, sau khi ly dị, phạm tội ngoại tình công khai và thường xuyên :
“Nếu người chồng, sau khi đã chia ly với vợ mình, ăn ở với một người phụ nữ khác, thì phạm tội ngoại tình, vì làm cho phụ nữ đó cũng phạm tội ngoại tình; người phụ nữ ăn ở với người đàn ông đó phạm tội ngoại tình vì đã dụ dỗ chồng của người khác” ( T. Ba-xi-li-ô, nguyên tắc luân lý 73 ).
2385

Ly dị là phi luân vì làm xáo trộn gia đình và xã hội. Việc xáo trộn này kéo theo nhiều tổn hại nghiêm trọng : cho người phối ngẫu vì bị ruồng bỏ; cho con cái phải đau khổ vì cha mẹ phân ly, và lắm khi còn bị dằng co không biết theo ai; cho xã hội vì hiệu quả lây lan của nó, nó thực sự là một tai ương cho xã hội.

2386 1640

Nếu một trong đôi vợ chồng là nạn nhân vô tội của phán quyết ly dị do tòa án dân sự, người này không vi phạm luật luân lý. Có sự phân biệt rõ ràng giữa người phối ngẫu thành thật cố gắng trung thành với bí tích Hôn Phối và bị ruồng bỏ bất công, với người phá hủy hôn nhân thành sự theo Giáo Luật ( x. FC 84 ) do phạm lỗi nặng.


Những xúc phạm khác đến phẩm giá hôn nhân
2387 1610

Chúng ta hiểu được bi kịch của một người, vì muốn hoán cải theo Tin Mừng buộc phải từ bỏ một hoặc nhiều người vợ đã chung sống nhiều năm. Tuy nhiên, đa thê không phù hợp với luật luân lý, tuyệt đối nghịch lại với sự hiệp thông giữa vợ chồng : trực tiếp chối bỏ kế hoạch của Thiên Chúa đã được mặ)c khải cho ta từ buổi đầu, nghịch với phẩm giá bình đẳng của người nữ và người nam, cả hai hiến thân cho nhau trong một tình yêu trọn vẹn, duy nhất và độc hữu ( x. FC 19; GS 47,2 ). Theo đức công bình, người đa thê khi trở thành ki-tô hữu phải chu toàn những trách vụ tài trợ cho các bà vợ trước và con cái của mình.



2388 2356 2207

Tội loạn luân là quan hệ tính dục giữa những người họ hàng cùng huyết tộc hoặc hôn thuộc, mà luật cấm kết hôn với nhau ( x. Lv 18,7-20 ). Thánh Phao-lô lên án trọng tội này : "Đi đâu cũng chỉ nghe nói đến chuyện dâm ô xảy ra giữa anh em... có kẻ ăn ở với thê thiếp của cha mình! ... Nhân danh Chúa Giê-su, chúng ta phải nộp con người đó cho Xa-tan để xác thịt nó bị hủy diệt" ( x. 1 Cr 5,1.4-5 )...Tội loạn luân phá vỡ quan hệ gia đình và cho thấy một sự thoái hóa trở về thú tính.
2389 2285

Có thể gọi là loạn luân, những lạm dụng tính dục do những người trưởng thành đối với trẻ con hoặc thiếu niên đã được ủy thác cho họ. Người phạm tội này phải chịu trách nhiệm gấp đôi : một mặt vì gây gương xấu xâm phạm đến sự toàn vẹn thể lý và luân lý của các người trẻ, và để lại hậu quả tai hại suốt đời, mặt khác vì họ lỗi trách nhiệm giáo dục của mình.


2390 1631

Tự do sống chung là khi một người nam và một người nữ sống như vợ chồng nhưng không chịu tiến hành hôn nhân chính thức theo luật.
Kiểu nói tự do sống chung là dối trá, vì có nghĩa gì một sự kết hợp trong đó hai con người không cam kết với nhau và do đó cũng chứng tỏ rằng họ không tín nhiệm nơi người kia, nơi chính mình, hoặc ở tương lai ?
2353 1385

Kiểu nói này chỉ nhiều hoàn cảnh khác nhau : ăn ở với nhau không cưới xin, từ chối kết hôn theo đúng tính chất của hôn nhân, không thể ràng buộc nhau bằng những cam kết dài lâu ( x. FC 81 ). Tất cả những trường hợp này xúc phạm phẩm giá của hôn nhân, phá hủy ý niệm về gia đình, làm suy giảm cảm thức về lòng thủy chung. Chúng nghịch với luật luân lý : hành vi tính dục chỉ được chấp nhận trong hôn nhân; ngoài hôn nhân, luôn luôn đó là một tội trọng và không được hiệp thông các bí tích.


2391 2364

Ngày nay, nhiều người đòi hỏi " quyền thử nghiệm", khi có ý định kết hôn. Dù những người quan hệ tính dục tiền hôn nhân có quyết tâm kết hôn, cũng không thể bảo đảm quan hệ liên vị giữa họ là chân thật và thủy chung, và nhất là giữ cho quan hệ này khỏi những ý muốn ngông cuồng và nông nổi ( x."Persone humana" 7 ). Về phương diện luân lý, sự kết hợp xác thịt chỉ hợp pháp khi đã chính thức kết hôn. Tình yêu không chấp nhận thử nghiệm; nhưng đòi hỏi hiến thân cho nhau trọn vẹn và dứt khoát ( x. FC 80 ).


TÓM LƯỢC
2392

"Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi con người" ( x. FC 11 ).
2393

Khi sáng tạo con người có nam có nữ, Thiên Chúa cho họ bình đẳng về nhân phẩm. Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nhìn nhận và chấp nhận phái tính của mình.
2394

Đức Ki-tô là khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình.
2395

Sống khiết tịnh là làm chủ phái tính, giúp ta làm chủ bản thân.
2396

Các tội trọng nghịch với đức khiết tịnh là : thủ dâm, tà dâm, sản xuất và phổ biến ấn phẩm khiêu dâm, đồng tính luyến ái.
2397

Giao ước đôi vợ chồng đã tự do ký kết bao hàm một tình yêu chung thủy, buộc vợ chồng bất khả phân ly.
2398

Con cái là phúc lành, quà tặng, cứu cánh của hôn nhân. Khi thông truyền sự sống, đôi vợ chồng tham dự vào tư cách làm cha làm mẹ cùng với Thiên Chúa.
2399

Việc điều hòa sinh sản là một trong những khía cạnh thể hiện tư cách làm cha làm mẹ có trách nhiệm. Nhưng ý hướng chính đáng của vợ chồng không đủ để biện minh cho việc sử dụng các phương thế không thể chấp nhận về phương diện luân lý (thí dụ trực tiếp triệt sản hoặc ngừa thai).

tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   47   48   49   50   51   52   53   54   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương