SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang50/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   46   47   48   49   50   51   52   53   ...   68

2290 1809

Đức tiết độ giúp con người tránh mọi thái quá như : ăn uống quá độ, rượu chè, say sưa lạm dụng thuốc lá và y dược. Những người say rượu hoặc say mê tốc độ, gây nguy hiểm cho tha nhân và ngay chính mình trên đường bộ, đường thủy và đường hàng không, đều phạm tội nặng.


2291

Việc sử dụng ma túy gây tác hại nặng nề cho sức khỏe và mạng sống con người. Chỉ trừ trường hợp trị liệu, sử dụng ma túy là một lỗi nặng. Bí mật sản xuất và buôn bán ma túy là tội ác, vì cộng tác trực tiếp vào các hành vi vi phạm nghiêm trọng luật luân lý, do hậu quả lôi cuốn người ta phạm tội.

Tôn trọng con người và nghiên cứu khoa học
2292

Những thí nghiệm khoa học, y học hoặc tâm lý học, trên những con người hoặc các nhóm người, có thể góp phần vào việc chữa bệnh và tiến bộ của y tế công cộng.


2293 159 1703

Việc nghiên cứu khoa học, lý thuyết hay ứng dụng là một cách biểu lộ đầy ý nghĩa quyền bá chủ của con người trên các thụ tạo. Khoa học và kỹ thuật là những phương tiện quí giá khi phục vụ và phát triển toàn diện con người để mưu ích chung; nhưng khoa học kỹ thuật không đem lại ý nghĩa cho cuộc đời và sự tiến bộ của loài người. Khoa học và kỹ thuật qui hướng về con người, xuất phát từ con người và tiến bộ nhờ con người, vì thế chính con người và các giá trị luân lý của con người là mục đích và là những giới hạn cho khoa học kỹ thuật.


2294 1375

Lập trường cho rằng việc nghiên cứu khoa học lý thuyết và ứng dụng có giá trị trung lập về phương diện luân lý là điều không tưởng. Cũng thế, những tiêu chuẩn định hướng để phát triển khoa học kỹ thuật không thể căn cứ vào hiệu quả kỹ thuật, hay sự hữu dụng đối với người này nhưng lại tổn hại người khác, hoặc tệ hơn nữa, vào những ý thức hệ đang thống trị. Từ ý nghĩa nội tại của chúng, khoa học và kỹ thuật, phải tôn trọng vô điều kiện các tiêu chuẩn căn bản của luân lý, phải phục vụ con người cũng như các quyền bất khả nhượng, lợi ích đích thực và toàn vẹn của con người, theo đúng kế hoạch và ý muốn của Thiên Chúa.




2295 1753

Những nghiên cứu và thí nghiệm trên con người không thể biện minh cho những hành vi tự chúng vẫn nghịch với phẩm giá con người và luật luân lý. Ngay cả sự ưng thuận của đương sự cũng không biện minh được cho những hành vi đó. Về mặt luân lý, không được phép thí nghiệm trên con người nếu thấy trước những rủi ro không cân xứng hay có thể tránh được cho mạng sống và sự toàn vẹn tâm sinh lý của đương sự. Những thí nghiệm như thế không phù hợp với phẩm giá của con người, nhất là khi không có sự hiểu biết và ưng thuận của đương sự và của những người có quyền theo pháp luật.


2296 2301

Việc ghép các bộ phận cơ thể phù hợp với luật luân lý nếu các nguy hiểm và rủi ro về thể xác và tâm lý nơi người cho, cân xứng với lợi ích của người nhận. Hiến các bộ phận sau khi chết là điều cao quí đáng khen thưởng, và phải được khuyến khích như một biểu lộ tình liên đới quảng đại. Về phương diện luân lý, không thể chấp nhận lấy bộ phận nếu người cho, hoặc những thân nhân có quyền, không minh thị đồng ý. Cũng vậy, về phương diện luân lý, không thể chấp nhận việc trực tiếp gây tàn phế hoặc cái chết cho một người, dù nhằm mục đích kéo dài đời sống của những người khác.
Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể
2297

Nạn bắt cóc và giữ làm con tin, gây kinh hoàng và tạo áp lực nặng nề cho những nạn nhân. Về phương diện luân lý, những việc này là bất chính. Dùng khủng bố để đe dọa, gây thương tích và giết người bừa bãi là đi ngược lại công bình và bác ái cách nghiêm trọng. Tra tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương, để trả thù, là đều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con người.

Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý ( x. DS 3722 ).


2298 2267

Trong quá khứ các chính phủ hợp pháp thường sử dụng những biện pháp tàn bạo để duy trì lề luật và trật tự; thường các mục tử của Hội Thánh chẳng những đã không phản kháng việc đó, mà còn áp dụng các qui định của bộ luật Rô-ma về tra tấn trong tòa án của mình. Bên cạnh những sự kiện đáng tiếc đó, Hội Thánh luôn luôn dạy phải nhân từ và thương xót, lại nghiêm cấm các giáo sĩ không được gây đổ máu. Đến nay, người ta thấy rõ là các biện pháp tàn bạo đó không cần thiết cho trật tự công cộng, cũng chẳng phù hợp với những quyền chính đáng của con người. Ngược lại, những thực hành đó lại còn đưa đến những suy thoái tệ hại hơn. Chúng ta phải đấu tranh để hủy bỏ chúng. Phải cầu nguyện cho những nạn nhân và các lý hình.


Tôn trọng người chết
2299 1525

Phải lưu tâm săn sóc những người hấp hối để giúp họ sống những giây phút cuối đời cách tốt đẹp và bình an. Thân nhân phải nâng đỡ họ bằng lời cầu nguyện và lo cho họ lãnh nhận các bí tích đúng lúc, để chuẩn bị họ gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống.


2300 1681-1690

Trong niềm tin và hy vọng vào sự sống lại, người tín hữu phải tôn trọng và bác ái đối với thi hài của những người quá cố. Chôn xác kẻ chết là một trong "bảy mối thương xác" ( x. Tb 1,16-18 ). Việc đó tỏ lòng quí trọng con cái Thiên Chúa mà thân xác họ là đền thờ của Chúa Thánh Thần.


2301

Về phương diện luân lý, được phép mổ tử thi để điều tra pháp lý hoặc để nghiên cứu khoa học. Việc hiến các bộ phận cơ thể sau khi chết là việc hợp pháp và đáng khen.


Hội Thánh cho phép hỏa táng nếu việc này không phương hại tới đức tin vào sự sống lại của thân xác ( x. CIC, can. 1176, 3 ).
III- BẢO VỆ HÒA BÌNH
Hòa bình
2302 1765

Khi nhắc lại giới luật "Chớ giết người" (Mt 5,21), Chúa đòi chúng ta giữ tâm hồn bình an. Người kết án cơn giận dữ giết người và lòng thù ghét.


Giận dữ là một ước muốn trả thù. "Ki-tô hữu không được ước muốn trả thù điều ác của kẻ đáng trừng phạt", nhưng được phép bắt họ làm một việc đền bù "để sửa chữa các việc xấu và bảo tồn công lý" ( T. Tô-ma Aquinô. s.th.2-2,158,1,ad 3 ). Giận dữ đến độ muốn giết chết, hay làm bị thương người khác, là vi phạm nặng nề đức ái, là phạm một tội trọng. Chúa nói : "Ai giận anh em mình, thì cũng đáng bị đưa ra tòa rồi" (Mt 5,22).
2303 2094-1933

Cố ý thù ghét người khác là điều nghịch với đức ái. Thù ghét tha nhân là một tội khi cố tình ước muốn điều dữ cho người ấy, và sẽ là một tội nặng khi muốn cho họ bị tai hại nặng nề : "Còn Thầy, Thầy bảo anh em : phải yêu kẻ thù, và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em, như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời"(Mt 5,44-45).
2304 1909 1807

Cần phải có hòa bình để con người được sống và phát triển. Hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh và không chỉ giới hạn ở việc giữ thế quân bình giữa các lực lượng đối lập. Thế giới chỉ có hòa bình khi tài sản của con người được bảo vệ, con người được tự do giao lưu, phẩm giá của con người và của các dân tộc được tôn trọng, tình huynh đệ được thực thi. Hòa bình là "ổn định trật tư" ( T. Âu-tinh, civ. 19, 13 ), là công trình của công lý ( x. Is 32, 17 ) và hoa quả của đức ái ( x. GS 78, 1-2 ).


2305 1468

Hòa bình trên trần thế là hình bóng và hoa trái của bình an của Đức Ki-tô, "Thủ lãnh Hòa Bình" thời Mê-si-a (Is 9,5). Nhờ máu đổ ra "trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù hận" ngay trong thân xác Người (Ep 2,16) ( x. Cl 1,20-22 ). Người đã giao hòa loài người với Thiên Chúa và làm cho Hội Thánh trở thành bí tích hiệp nhất nhân loại và kết hợp nhân loại với Thiên Chúa. "Chính Người là bình an của chúng ta" (Eph 2,14). Người tuyên bố "phúc thay ai xây dựng hòa bình" (Mt 5,9).


2306 2267

Những ai khước từ bạo lực và đổ máu, sử dụng những phương thế tự vệ vừa tầm những kẻ yếu nhất, để bảo vệ quyền lợi của con người là những người làm chứng cho đức bác ái Tin Mừng, miễn là điều này không phương hại đến các quyền và bổn phận của những người khác cũng như các tập thể khác. Họ ý thức được những tác hại trầm trọng về thể lý và luân lý khi sử dụng bạo lực để gây ra tàn phá và chết chóc ( x. GS 78, 5 ).


Xa lánh chiến tranh
2307

Điều răn thứ năm cấm cố ý hủy hoại mạng sống con người. Vì chiến tranh gây ra tai hại và bất công, nên Hội Thánh khẩn thiết thúc giục chúng ta cầu nguyện và hành động để Thiên Chúa nhân lành giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ ngàn đời của chiến tranh ( x. GS 81,4 ).


2308 2266

Mỗi công dân và mỗi người lãnh đạo đều phải hành động để tránh chiến tranh. Tuy nhiên, "bao lâu nguy cơ chiến tranh tồn tại, bao lâu chưa có quyền bính quốc tế nào có thẩm quyền và có đủ sức mạnh, thì một khi đã tận dụng mọi phương thế ôn hòa, các chính phủ được phép sử dụng quyền tự vệ chính đáng" ( x. GS 79, 4 ).


2309 2243

Phải xem xét nghiêm ngặt các điều kiện phải có để tự vệ chính đáng bằng sức mạnh quân sự. Một quyết định như thế rất nghiêm trọng, nên phải hội đủ các điều kiện sau đây :

. Thiệt hại do kẻ xâm lược gây ra cho quốc gia hoặc cho cộng đồng các quốc gia có tính lâu dài, nghiêm trọng và chắc chắn;

. Tất cả các phương thế khác để chấm dứt tình trạng này không thể thực hành được hoặc vô hiệu;

. Phải hội đủ các điều kiện quan trọng để thành công;

. Việc sử dụng vũ khí không gây những tai hại và hỗn loạn nghiêm trọng lớn hơn những tai hại ta đang cố loại trừ.

Phải lượng định sức mạnh tàn phá của các phương tiện chiến tranh hiện đại khi thẩm định điều kiện nầy.Trên đây là những yếu tố truyền thống được liệt kê trong học thuyết "chiến tranh chính đáng".
1897

Những người có trách nhiệm bảo vệ công ích, phải thận trọng phán đoán khi thẩm định các điều kiện cho một cuộc chiến tự vệ chính đáng.


2310

Trong trường hợp này, Nhà Nước có quyền và bổn phận đề ra cho công dân những nghĩa vụ cần thiết để bảo vệ tổ quốc.


2239 1909

Những người phục vụ tổ quốc trong quân đội là những kẻ phụng sự cho an ninh và tự do của các dân tộc. Khi chu toàn đúng đắn bổn phận, họ thật sự góp phần vào lợi ích chung của quốc gia và gìn giữ hòa bình ( x. GS 79, 5 ).


2311 1782,1790

Chính quyền phải dự liệu một cách công bằng cho trường hợp những người, vì lý do lương tâm, không chịu sử dụng vũ khí, nhưng vẫn có bổn phận phục vụ cộng đồng nhân loại dưới một hình thức khác ( x. GS 79,3 ).


2312

Hội Thánh và lý trí con người đều khẳng định rằng luật luân lý vẫn còn nguyên hiệu lực trong thời gian chiến tranh. "Không phải vì chiến tranh đã chẳng may khai diễn, mà các đối thủ đều được phép muốn làm gì thì làm" ( x. GS 79,4 ).


2313

Phải tôn trọng và đối xử nhân đạo với thường dân, thương binh và tù binh.


2242

Những hành động cố ý vi phạm nhân quyền và các nguyên tắc phổ quát của nhân quyền, cũng như các lệnh truyền thi hành các hành động ấy, đều là tội ác. Chấp hành mệnh lệnh cách mù quáng không đủ để bào chữa cho những ai tuân hành các lệnh đó. Do đó, việc tiêu diệt một dân tộc, một quốc gia hoặc một nhóm thiểu số phải bị kết án như một tội trọng. Luân lý đòi chúng ta phải chống lại các mệnh lệnh diệt chủng.


2314

"Mọi hành động hiếu chiến nhằm tiêu diệt bừa bãi nguyên cả một thành phố hoặc những vùng rộng lớn cùng với dân cư ở đó, là một tội ác chống lại Thiên Chúa và chính con người. Phải cực lực lên án và không ngần ngại tố cáo tội ác đó" ( x. GS 80, 4 ). Nguy cơ của chiến tranh hiện đại là tạo dịp cho những người có trong tay các vũ khí khoa học, đặc biệt là vũ khí nguyên tử , sinh học hoặc hóa học, phạm những thứ tội ác như thế.


2315

Thật là nghịch lý, nhiều người xem việc tích lũy vũ khí như một phương thế khiến đối phương không dám gây chiến. Họ coi đó là một phương thế hữu hiệu nhất khả dĩ bảo đảm hòa bình giữa các quốc gia. Về mặt luân lý, phải rất dè dặt đối với phương thức ngăn đe này. Chạy đua vũ trang không bảo đảm được hòa bình , thay vì loại bỏ các lý do gây chiến, lại có nguy cơ làm cho các lý do đó trở thành trầm trọng hơn. Việc chi tiêu những khoản tiền khổng lồ để chế tạo vũ khí ngày càng tối tân, ngăn cản việc trợ giúp các dân tộc nghèo đói ( x. PP 53 ), ngăn trở các dân tộc phát triển. Việc vũ trang quá mức làm gia tăng những lý do xung đột và tạo thêm nguy cơ lây lan chiến tranh.


2316 1906

Việc sản xuất và buôn bán vũ khí có ảnh hưởng đến công ích của các quốc gia và của cộng đồng quốc tế. Do đó, các nhà cầm quyền có quyền và bổn phận ra những qui định về vấn đề này. Lợi nhuận trước mắt của cá nhân hoặc tập thể không thể biện minh cho các tổ chức kinh doanh châm ngòi bạo lực và xung đột giữa các quốc gia, và gây nguy hại cho trật tự luật pháp quốc tế.
2317 1938, 2538 1941

Hòa bình không ngừng bị đe dọa và chiến tranh nổ ra vì những bất công, bất bình đẳng thái quá về kinh tế hoặc xã hội, vì lòng tham, sự ngờ vực và tính kiêu căng đang hoành hành giữa những con người và các quốc gia. Tất cả những gì được thực hiện nhằm khắc phục các tệ hại này đều góp phần vào việc kiến tạo hòa bình và xa lánh chiến tranh :


"Bao lâu con người còn là những kẻ tội lỗi, hiểm họa chiến tranh còn đe dọa, và vẫn còn đe dọa cho đến khi Chúa Ki-tô quang lâm. Tuy nhiên, nhờ kết hiệp trong bác ái, con người thắng vượt tội lỗi, và cũng thắng vượt bạo lực cho tới khi lời sau đây được hoàn tất : "Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến"(Is 2,4) ( x. GS 78,6 ).

TÓM LƯỢC
2318

"Chính Thiên Chúa nắm trong tay, hồn của mọi sinh linh cũng như hơi thở của mọi xác phàm" (G 12,10).
2319

Từ lúc mới được thành thai cho đến khi chết, mạng sống con người là điều linh thánh, vì con người đã được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ, theo hình ảnh và giống Thiên Chúa hằng sống và thánh thiện.
2320

Giết người là một tội trọng phạm đến phẩm giá con người và sự thánh thiện của Đấng Sáng Tạo.
2321

Luật cấm giết người không loại trừ quyền làm cho một kẻ gây hấn mất khả năng tác hại. Tự vệ chính đáng là trọng trách của người có trách nhiệm bảo vệ mạng sống người khác hay công ích.
2322

Ngay từ lúc mới được thành thai, đứa bé đã có quyền sống. Trực tiếp phá thai, như là mục đích hay phương tiện đều là "một hành vi ô nhục" (x. GS 27, 3 ) vi phạm nghiêm trọng luật luân lý. Hội Thánh ra vạ tuyệt thông cho kẻ phạm tội này.
2323

Ngay từ lúc thành thai, phôi thai phải được đối xử như một con người, nên phải được che chở cho được toàn vẹn, được chăm sóc và chữa trị như mọi con người khác.
2324

Cố ý giết chết để tránh đau dù dưới bất cứ hình thức và lý do nào, vẫn là tội giết người. Một tội phạm nghiêm trọng nghịch với phẩm giá con người và với lòng tôn kính Thiên Chúa hằng sống, Đấng Tạo Thành con người.
2325

Tự sát là lỗi phạm nặng nề đến sự công bình, đức cậy và đức mến. Điều răn thứ năm cấm tự sát.
2326

Gương xấu là một lỗi nặng nếu vì làm một điều xấu hay bỏ một điều tốt, mà lôi kéo tha nhân đến chỗ cố ý phạm lỗi nặng.
2327

Vì cuộc chiến tranh nào cũng gây ra tai họa và bất công, chúng ta phải làm hết khả năng để ngăn chặn, Hội Thánh cầu nguyện : "Xin Chúa cứu chữa chúng con khỏi nạn đói, ôn dịch và chiến tranh".
2328

Hội Thánh và lý trí con người đều khẳng định rằng : luật luân lý vẫn còn nguyên hiệu lực trong thời gian chiến tranh. Những thực hành cố ý nghịch với quyền các dân tộc và với các nguyên tắc phổ quát của quyền đó đều là tội ác.
2329

"Chạy đua vũ trang là một tai họa hết sức trầm trọng cho nhân loại và xúc phạm đến người nghèo một cách không thể tha thứ được" (GS 81,3).
2330

"Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5,9).

Mục 6
ĐIỀU RĂN THỨ SÁU

"Ngươi không được ngoại tình" (Xh 20,14, Đnl 5,17).


"Anh em nghe luật dạy người xưa rằng : "Chớ ngoại tình". Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết : "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5,27-28).
369-373

I. "THIÊN CHÚA SÁNG TẠO CON NGƯỜI, CÓ NAM CÓ NỮ..."
2331 1604

"Thiên Chúa là tình yêu, Người sống mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu nơi chính bản thân. Khi tạo dựng con người theo hình ảnh mình ... Thiên Chúa trao ban cho người nam và người nữ một )thiên chức; do đó họ có khả năng và trách nhiệm sống yêu thương và hiệp thông" ( x. FC. 11 ).


"Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình ... Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ" (St 1,27). "Hãy sinh sôi nảy nở thât nhiều" (St 1,28); ngày Thiên Chúa sáng tạo con người, Chúa làm ra con người giống như Thiên Chúa. Chúa sáng tạo con người có nam có nữ : Chúa chúc phúc cho họ và đặt tên cho họ và gọi họ là "người", ngày họ được sáng tạo (St 5,1-2) .

2332 362

Phái tính ảnh hưởng trên toàn bộ con người, cả xác và hồn. Phái tính đặc biệt liên quan đến đời sống tình cảm, khả năng yêu thương và truyền sinh, nói chung mọi tương quan với người khác.
2333 1603

Mỗi người, nam cũng như nữ, phải nhìn nhận và chấp nhận phái tính của mình. Sự khác biệt và bổ sung cho nhau về thể xác, tinh thần và tâm linh hướng đến đời sống hôn nhân và gia đình. Sự hòa hợp của đôi vợ chồng và của xã hội tùy thuộc phần nào vào việc hai bên nam nữ bổ túc, đáp ứng và nâng đỡ lẫn nhau.


2334 357

"Khi tạo dựng con người có nam có nữ, Thiên Chúa cho họ bình đẳng về nhân phẩm" ( x. FC 22, x. GS 49,2 ). "Con người là một nhân vị, vì thế người nam và người nữ bình đẳng với nhau, cả hai được tạo dựng theo hình ảnh và giống Thiên Chúa" ( x. MD 6 ).


2335 2205

Người nam và người nữ bình đẳng về phẩm giá, dù cách thức khác nhau, cả hai là hình ảnh của Thiên Chúa quyền năng và yêu thương. Sự kết hợp giữa người nam và người nữ trong hôn nhân mô phỏng nơi thân xác con người sự quảng đại và sung mãn của Đấng Sáng Tạo : "Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt" (St 2,24). Sự kết hợp này là nguồn gốc mọi thế hệ loài người (St 4, 1-2.25-26; 5,1).


2336 1614

Đức Giê-su đã đến trả lại cho thụ tạo tình trạng tinh tuyền nguyên thủy của chúng. Trong Bài Giảng Trên Núi, Người đã giải thích chính xác ý định của Thiên Chúa : "Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng : "Chớ ngoại tình". Còn Thầy, Thầy bảo anh em : "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì ngoại tình trong lòng với người ấy rồi" (Mt 5,27-28). "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp loài người không được phân ly" ( Mt 19,6).


Truyền thống của Hội Thánh hiểu điều răn thứ sáu đề cập đến mọi lãnh vực về phái tính của con người.
II. ƠN GỌI SỐNG KHIẾT TỊNH
2337 2520

Sống khiết tịnh là làm chủ phái tính, nhờ đó thống nhất được đời sống thể lý và tinh thần. Phái tính cho thấy con người thuộc về thế giới vật chất và sinh học, nhưng khi được hội nhập vào tương quan giữa người với người, trong đó người nam và người nữ hiến thân cho nhau trọn vẹn và vĩnh viễn, phái tính mới có giá trị thực sự nhân linh.


Như vậy, đức khiết tịnh liên quan đến toàn thể nhân vị và đòi hiến thân trọn vẹn.
Toàn thể nhân vị
2338

Người khiết tịnh giữ được toàn bộ sức mạnh của sự sống và tình yêu có nơi mình; nhờ đó thống nhất được nhân vị và tránh được mọi thái độ làm tổn thương đến sự thống nhất này. Người khiết tịnh không chấp nhận cuộc sống hai mặt, cách nói hai ý (Mt 5,37).


2339 1767

Đức khiết tịnh đòi hỏi phải học biết tự chủ, để sống như một con người. Rõ ràng con người phải chọn lựa : hoặc chế ngự các đam mê và được bình an; hoặc làm nô lệ chúng và trở nên bất hạnh (Hc 1,22). "Phẩm giá con người đòi họ phải hành động theo một sự lựa chọn ý thức và tự do, được tác động và quyết định bởi một xác tín cá nhân chứ không phải chỉ dưới hiệu quả các thôi thúc của bản năng hoặc của một sự cưỡng chế bên ngoài. Con người đạt đến phẩm cách đó khi tự giải thoát khỏi mọi nô dịch của các đam mê, nhờ tự do chọn lấy điều thiện, con người theo đuổi cùng đích của mình và khôn khéo thực sự tạo cho mình những phương tiện thích ứng" ( x.GS 17 ).


2340 2015

Ai muốn trung thành với những lời hứa khi được rửa tội và chống lại các cơn cám dỗ, phải dùng những )phương thế sau : phải biết mình, khổ chế tùy theo hoàn cảnh, tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa, thực hành các đức tính luân lý và chuyên cần cầu nguyện. "Khiết tịnh giúp chúng ta tìm lại được sự thống nhất bản thân đã đánh mất khi để cho mình bị phân tán". ( T. Âu tinh, conf.10,29 )


2341 1809

Muốn sống khiết tịnh phải giữ đức tiết độ, vì nhân đức này dùng lý trí để hướng dẫn các đam mê và những thèm muốn giác quan của con người.


2342 407

Muốn tự chủ phải luyện tập lâu dài và công phu. Không bao giờ có thể coi như đã tập xong, phải cố gắng suốt đời, ở mọi lứa tuổi (x.Tt 2,1-6), phải đặc biệt cố gắng vào một số giai đoạn hình thành nhân cách, như tuổi nhi đồng và thiếu niên.


2343 2223

Đời sống khiết tịnh cũng có những qui luật tăng trưởng, phải kinh qua những bất toàn và có khi cả tội lỗi nữa. "Ngày qua ngày, con người đức độ và khiết tịnh được hình thành bằng nhiều lựa chọn tự do. Nhờ đó, họ nhận biết, yêu mến và chu toàn điều thiện luân lý qua những giai đoạn tăng trưởng" ( x. FC 34 ).


2344 2525

Sống khiết tịnh là nhiệm vụ của mỗi người, nhưng cũng là một nỗ lực về văn hóa, vì sự thăng tiến của nhân vị và sự phát triển của xã hội lệ thuộc nhau ( x. GS 25,1 ). Người ta chỉ sống khiết tịnh được, khi các quyền của con người được tôn trọng, đặc biệt quyền được thông tin và giáo dục để biết tôn trọng các giá trị luân lý và tâm linh của đời sống con người.


2345 1810

Đức khiết tịnh là một nhân đức luân lý. nhưng đó cũng là hồng ân của Thiên Chúa, một ân sủng, một hoa trái của Thánh Thần ( x. Gl 5,22). Chúa Thánh Thần ban cho người tín hữu sức mạnh để noi theo ( x. 1Ga 3,3 ) sự thanh khiết của Đức Ki-tô.


Hiến thân trọn vẹn
2346 1827 210

Đức mến là linh hồn của mọi nhân đức. Dưới ảnh hưởng của đức mến, đức khiết tịnh là trường dạy tự hiến. Tự chủ là để tự hiến. Người sống khiết tịnh trở thành nhân chứng của Thiên Chúa trung tín và yêu thương.


2347 374

Đức khiết tịnh nảy nở trong tình bằng hữu, giúp người môn đệ bước theo và bắt chước Đấng đã chọn chúng ta làm bạn hữu của Người ( x. Ga 15,15 ), đã hiến thân trọn vẹn cho chúng ta và cho ta thông phần thiên tính của Người. Thiên Chúa hứa ban cuộc sống bất diệt cho người sống khiết tịnh.

Đức khiết tịnh bộc lộ rõ ràng qua tình thân với những người xung quanh. Tình thân hữu phát triển giữa những người cùng phái, khác phái là điều tốt đẹp cho mọi người, dẫn đến sự hiệp thông tinh thần.
Những cách sống khiết tịnh
2348

Mọi tín hữu đều được mời gọi sống khiết tịnh. Ki-tô hữu là người đã "mặc lấy Đức Ki-tô" (Gl 3,27), khuôn mẫu của đời sống khiết tịnh. Ai tin vào Đức Ki-tô đều được mời gọi sống đời khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình. Khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người tín hữu cam kết giữ đức khiết tịnh trong đời sống tình cảm.


2349 1620

"Mỗi người giữ đức khiết tịnh tùy theo bậc sống của mình : người này trong bậc trinh khiết hay độc thân của đời thánh hiến, một cách thức dễ dàng tận hiến trọn vẹn tâm hồn cho Thiên Chúa; kẻ khác trong bậc gia đình hay độc thân, tùy theo luật luân lý xác định" (x. CDF, déd."Persona humana" À11 ). Người có gia đình được mời gọi giữ đức khiết tịnh trong đời sống vợ chồng; người độc thân giữ đức khiết tịnh khi sống tiết dục.


"Có ba hình thức sống khiết tịnh: khiết tịnh của bậc hôn nhân, khiết tịnh của người góa bụa và khiết tịnh của kẻ đồng trinh. Chúng ta không ca tụng lối sống này mà loại bỏ lối sống khác. Về điều này, kỷ luật của Hội Thánh rất rộng rãi" ( T. Am-rô-xi-ô,Vid. 23 ).

tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   46   47   48   49   50   51   52   53   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương