Quản trị marketing quốc tế Philip Kotler


Sự co giãn và tính co giãn của đường cầu



tải về 4.83 Mb.
trang40/45
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.83 Mb.
#37906
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   45

Sự co giãn và tính co giãn của đường cầu


Do sự tính chất co giãn của đường cầu, một công ty ít có cơ hội giữ nguyên hoặc thay đổi mức giá đều đặn, độc lập đối với những hoạt động của đối thủ cạnh tranh. Những nhà sản xuất đồng hồ Thuỵ Sỹ không có cách gì ngăn chặn được thị phần của mình giảm từ 80% cuối thập niên 40 xuống còn 22% trong thập niên 80 do mức giá tấn công của những hãng sản xuất đồng hồ của Nhật Bản, đặc biệt là chủng loại đồng hồ có mức giá vừa phải. Công ty Ford cho rằng mình giữ vị trí hàng đầu ở Anh là điều hiển nhiên nên đã đơn phương kết thúc chiến tranh giá cả bằng việc loại bỏ chiết khấu và những khoản khuyến khích khác. Động thái này đã cho thấy một sai lầm mang tính chất chiến lược vì những đối thủ cạnh tranh đã không làm theo điều đó, và thị phần chi phối của Ford đã giảm từ 32% xuống còn 27%. Phải luôn nhớ rằng thị trường chỉ cần một công ty bắt đầu hoặc tiếp tục chiến tranh giá cả.

Đưa ra mức giá cạnh tranh không có nghĩa là mức giá của công ty phải bằng hoặc thấp hơn mức giá thị trường. Một sản phẩm có chất lượng cao hoặc độc nhất có thể có mức giá cao hơn, thịt bò của Mỹ thường được chế biến từ gia súc ăn ngũ cốc, bán chạy hơn so với thịt bò của úC và Niu Zealand trên thị trường Nhật Bản vì gia súc của những nước này được chăn nuôi bằng cỏ và yield leaner meat. Vào giữa thập niên 80, những mẫu thiết kế trang phục của Anh, trông có vẻ kì quái (cả về màu sắc và hình dáng) đã được bán với mức giá (premium prices ). Ví dụ như áo sơ mi được bán với mức giá là 90USD. Một sản phẩm được thiết kế hợp thời trang có thể được bán với mức giá cao hơn thị trường. Đó chính là chiến lược của Sony, Sony đã không tham gia vào chiến tranh giá cả vì như thế sẽ ảnh hưởng đến hình ảnh của công ty này. Tuy nhiên, Sony cũng đã từng phải giảm giá khi mà các đối thủ cạnh tranh thực hiện kế hoạch giảm giá bán, như thế sẽ làm cho chênh lệch giá cả giữa Sony và các đối thủ cạnh tranh được nới rộng (?).

Một công ty có thể tự cô lập mình bằng cách sử dụng chiến lược giảm giá mạnh bằng cách tập trung vào tạo ra hình ảnh độc tôn cho sản phẩm của mình. Uy tín của sản phẩm cho phép công ty trở thành nhà độc quyền và thu được phần giá phụ thêm. Cartier đã thu được rất nhiều lợi nhuận từ danh tiếng của công ty. Một chiếc đồng hồ được công ty này thuê sản xuất hết 125USD, thì được Cartier bán ra với giá gấp 5 lần.

Một nghiên cứu về các công ty xuất khẩu của Pháp, Tây Đức, và Vương quốc Anh cho thấy: một số hãng cho rằng cạnh tranh với mức giá cơ bản là không thực tế thậm chí còn mang lại nguy hiểm đối với các hãng. Sự cạnh tranh về giá xuất khẩu của các hãng bị cho là phương thức cạnh tranh “thô”, và phương thức cạnh tranh này chỉ được áp dụng đối với hàng tiêu dùng thông thường có chất lượng và hàm lượng kỹ thuật không cao. Cũng theo báo cáo này, “Only the primitives sell on price as a continuing policy”.


Tỷ giá hối đoái


Một nhân tố mà nhìn chung không ảnh hưởng đến thị trường nội địa nhưng lại ảnh hưởng đến thị trường marketing quốc tế là tỉ giá hối đoái. Từ tháng 3 năm 1985, khi đồng đô la Mỹ giảm giá đáng kể để chống lại các đồng tiền mạnh khác đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty đa quốc gia của Mỹ thu được các khoản lợi nhuận khổng lồ do lợi nhuận ở thị trường nước ngoài của các công ty này khi qui đổi ra đô la Mỹ được nhiều hơn do tỉ giá hối đoái giảm. Ngược lại, sự giảm giá của đồng đô la Mỹ chẳng đem lại lợi ích gì cho các nhà xuất khẩu Nhật Bản. Do sự tăng giá của đồng yên, công ty Komatsu đã buộc phải 3 lần tăng giá sản phẩm vào năm 1985 và 1986. Lần đầu tiên tăng 5% vào tháng 11, lần thứ hai tăng 13% vào tháng 4. Hai tháng sau đó công ty này đã phải tăng giá lần thứ 3 thêm từ 2% đến 10%. Những tổn thất do tăng giá đã buộc công ty này phải mở một chi nhánh ở Mỹ năm 1986. Những công ty khác như Nissan, Honda và Toyota cũng đã nhiều lần phải tăng giá. Mức tăng giá lớn nhất trên thị trường đương nhiên thuộc về các công ty của Nhật Bản (như hàng điện tử đắt tiền : đầu CD, đầu video). Tuy nhiên, khả năng tăng giá của các công ty này cũng bị hạn chế tại thị trường có mức giá thấp do Hàn Quốc nắm giữ.

Một vấn đề về giá cả khác đòi hỏi đồng tiền phải được sử dụng đúng mục đích. Thông thường người bán thường yêu cầu thanh toán bằng đồng tiền mạnh, trong khi người mua lại muốn trả bằng đồng tiền yếu. Những công ty của Châu Âu cũng có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách sử dụng đồng ECU vàng thay cho đồng tiền riêng của mỗi quốc gia đối với giá hàng hoá trong bảng báo giá (xem biểu đồ 18). Nhưng những luật lệ mang tính chất địa phương cũng cần phải được xem xét. Hi lạp là một nước quản lý rất chặt chẽ tỉ giá hối đoái. Tất cả những hợp đồng với bất kì công dân nào của Hi lạp đều phải thanh toán bằng đồng drachmae. Bất kì điều khoản nào của hợp đồng không thoả mãn yêu cầu trên thì hợp đồng sẽ bị chấm dứt. Luật pháp Hi lạp cũng không cho phép ấn định giá hàng hoá bằng đồng drachma – giá trên sẽ được niêm yết theo tỉ giá hối đoái của đồng tiền nước ngoài tại thời điểm nào đó trong tương lai.


Doanh số bán hàng


Doanh số bán hàng có ảnh hưởng lớn đến mức giá: nó thể hiện mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa hai nhân tố. Nhìn chung, một công ty sẽ không muốn có thấp hơn khi mà doanh số cao. Có nhiều lí do có thể giải thích cho sự tồn tại của mối quan hệ này. Kể từ khi những hàng hoá có khả năng quay vòng cao được bán ra, người mua có xu hướng thích tiêu dùng hàng hoá với mức giá ưa thích. Cũng như vậy, những hàng hoá đó mất chi phí cơ hội thấp hơn do chúng đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Hơn thế nữa, chi phí bán hàng thấp hơn do những hàng hoá này được bán ra mà không cần nhiều nỗ lực bán hàng. Tuy nhiên, người đưa ra quyết định không thể tự nhiên đạt được kết quả đó mà sự quay vòng của hàng hoá là một nhân tố nhân quả. Điều đó là hoàn toàn có thể khi mà sự quay vòng của hàng hoá là nhân tố ảnh hưởng. Giá cả hàng hoá thấp hơn khi tốc độ quay vòng của hàng hoá cao, điều đó là có thể nhưng đối với hàng dự trữ thì không hoàn toàn đúng.

Doanh số cao liên quan đến 2 thuật ngữ là learning curve effect hoặc forwarding pricing. Phương thức giá này phụ thuộc vào khối lượng lớn hàng hoá được bán ra, tại thời điểm hiện tại hoặc trong tương lai, sẽ làm giảm chi phí sản xuất và chi phí giảm chứng minh cho sự chấp nhận một mức giá khởi điểm thấp. Sự giảm chi phí sản xuất là cần thiết cân bằng hiệu quả kinh tế tạo điểm có mức sản xuất cao và vì hiệu quả sản xuất cao xuất phát từ khả năng sử dụng, vận hành máy móc để nâng cao khả năng sản xuất của người công nhân. Hệ quả là, cách thức này đòi hỏi mức giá khởi đầu phải được xác định cao hơn do khối lượng dự tính trong tương lai, chứ không phải do khối lượng hiện tại. Cách thức này được áp dụng đối với sự biến đổi trong hai thập kỷ gần đây của những máy tính khổng lồ trị giá hàng trăm nghìn đô la thành những đơn vị hàng hoá (portable unit) trị giá chỉ vài đô la. Những thành công và thất bại của Texas Instrument đều do hệ thống giá cả và sản xuất. TI có thể giảm giá đều đặn cũng như đặt mức sản xuất ngày càng cao hơn. Nhưng nhiều lần trong quá trình này, TI đã giảm giá nhanh hơn giảm chi phí sản xuất, và cuối cùng thiệt hại đã buộc công ty này phải rút lui khỏi thị trường đồng hồ kỹ thuật số và máy tính gia đình.




tải về 4.83 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   45




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương