Quản trị marketing quốc tế Philip Kotler



tải về 4.83 Mb.
trang2/45
Chuyển đổi dữ liệu10.05.2018
Kích4.83 Mb.
#37906
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   45

Để tồn tại


Vì phần lớn các quốc gia không được may mắn như nước Mỹ về quy mô thị trường, nguồn lực và các cơ hội, họ phải tiến hành thương mại với các nước khác để tồn tại. Hồng Kông là lãnh thổ hiểu rất rõ vấn đề này. Không có lương thực và nước từ Trung Quốc, thuộc địa này của Anh sẽ không thể tồn tại lâu dài. Một số quốc gia ở châu Âu cũng vậy bởi phần lớn các quốc gia châu Âu có quy mô tương đối nhỏ. Không có thị trường nước ngoài, các công ty châu Âu không thể có được tính kinh tế nhờ quy mô để có thể cạnh tranh với các công ty Mỹ. Trong một quảng cáo của mình, Nestlé đã đề cập tới quốc gia Thuỵ Sỹ của mình như một nơi thiếu nguồn lực tự nhiên và do đó công ty đã buộc phải dựa vào thương mại và đi theo xu hướng siêu quốc gia. Với Mỹ, quốc gia được những ưu đãi về nguồn lực, quy mô dân số và là nơi có mức tiêu dùng cao nhất, thì sự đi xuống của kinh tế trong nước cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng. Vì thế, Mỹ cũng cần thương mại như các nước khác để có thể tồn tại và phát triển. Vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán ở Mỹ năm 1987 với ảnh hưởng lan sang cả các thị trường khác trên toàn thế giới đã khiến nhiều nghị sỹ Mỹ phải xem xét lại các biện pháp bảo hộ và họ đã thấy rằng, nền kinh tế các quốc gia phụ thuộc rất chặt chẽ vào nhau. Một dự thảo bảo hộ được đưa ra nhằm làm ảnh hưởng tới nền kinh tế của nước khác sẽ rất dễ gây ra chính ảnh hưởng cho kinh tế Mỹ.

Sự phát triển của các thị trường ngoài nước


Những người làm công ty thị trường của Mỹ không thể bỏ qua những tiềm năng to lớn của thị trường quốc tế, nhất là có tới 95% dân số thế giới sống ngoài nước Mỹ và nắm giữ 75% tài sản của toàn thế giới. Thị trường nước ngoài vì thế không chỉ rất lớn mà còn có thể đang phát triển nhanh hơn thị trường Mỹ. Sự suy giảm tăng trưởng dân số Mỹ đã khiến cho những ngành nghề kinh doanh thức ăn trẻ em, đồ ăn nhanh và đồ uống bị ảnh hưởng. Lối sống thay đổi cũng giải thích vì sao sự tăng trưởng của các thị trường khác cần phải được xem xét một cách nghiêm túc. Chẳng hạn như việc chăm lo cho sức khoẻ đã khiến do doanh số thuốc lá và rượu bị giảm sút. Không có thị trường nước ngoài, các công ty kinh doanh rượu của Mỹ sẽ bị chính lượng rượu thừa cuốn trôi. Một ví dụ khác, Singer là một công ty đã từng bị những đe doạ về tình trạng sản xuất dư thừa khi phụ nữ Mỹ tham gia vào lực lượng lao động nhiều hơn. Những phụ nữ này sẽ tự may vá ít hơn và mua đồ may sẵn nhiều hơn.

Doanh lợi và lợi nhuận.


Thị trường nước ngoàI chiếm một thị phần rất lớn trong tổng hoạt động kinh doanh của rất nhiều công ty Mỹ, các công ty này có hàng loạt các thị trường với trình độ văn hóa cao ở nước ngoài. Các công ty như IBM, Hewlett Packard, Exxon, Mobil, Texaco, Pan Am, và Tupperware có tới hơn một nửa doanh thu thu được từ thị trường nước ngoàI . Về mặt lợi nhuận thì các công ty Canada Dry, Max Factor, Milton Bradlery, Coca-cola, và ITT có tới hơn một nửa lợi nhuận ròng của họ thu được từ các hoạt động kinh doanh ở nước ngoàI . Trong rất nhiều trường hợp, những hoạt động ở nước ngoàI có thể đóng gớp vào lợi nhuận của công ty những tỷ lệ không giống nhau khi so sánh nó với tổng doanh thu tạo ra. Một sự thua lỗ 5% trong doanh thu từ các hoạt động kinh doanh nước ngoàI có thể dẫn tới sự mất hơn 5% trong lợi nhuận. Hiện tượng này gây ra bởi chi phí cố định rõ ràng đã được tính tại nội địa thấp hơn chi phí lao động và nguyên liệu ở nước ngoàI , làm giảm cường độ cạnh tranh ở nước ngoàI và tiếp tục như thế. Trong trường hợp của Coca- Cola, những hoạt động kinh doanh ở nước ngoàI tạo ra 38% doanh thu và 53% lợi nhuận. Ân tượng hơn nữa là tập đoàn ITT mà các hoạt động ở nước ngoàI chỉ chiếm 37% tổng doanh thu nhưng lại tạo ra 67% lợi nhuận. Những công ty Mỹ với những khoản lợi nhuận khổng lồ thu được từ thị trường nước ngoàI là Exxon, Occidential, IBM, Phillip, Bchlumberger , Mobil, Texaco, Chevron, Allied, và Amoco.

Đa dạng hóa.


Nhu cầu đối với hầu hết các sản phẩm đều chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố mang tính chu kỳ như chu kỳ kinh tế và các nhân tố theo mùa như thời tiết. Và kết quả không mong muốn của sự biến đổi này là sự biến động về doanh thu, cáI mà tiếp đó có thể biển động đủ mạnh để gây ra việc xa thảI người lao động. Một cách để phân tán rủi ro là lựa chọn những thị trường ở nước ngoàI như một giảI pháp cho vấn đề nhu cầu đa dạng. Những thị trường này thậm chí những biến động bởi tạo ra các thị trường tiêu thụ cho sản phẩm cho doanh nghiệp có công xuất sẩn xuất dư thừa. Ví dụ , thời tiết lạnh có thể làm giảm sức tiêu thụ của nước ngọt. Nhưng không phảI tất cả các nước đều bước vào mùa đông đồng thời cùng một lúc và một vàI nước vẫn có thời tiết khá ấm áp quanh năm. Một tình huống tương tự cũng xảy ra đối với chu kỳ kinh doanh: Chu kỳ kinh doanh tại Châu Âu thường muộn hơn chu kỳ kinh doanh tại Mỹ. Việc bán hàng tại thị trường nội địa và tại thị trường nước ngoàI trong sự khác biệt về thời gian xảy ra chu kỳ kinh tế vẫn cólợi cho các công ty chẳng hạn như Culligan. Mặc dù, Culligan phảI đối đầu với mức suy giảm về doanh thu tại thị trường nội địa trong những năm 1970 và 1971, nhưng tổng doanh thu của công ty vẫn không mấy thay đổi bởi có sự tăng lên trong doanh thu ở nước ngoàI. Nói cách khác, doanh thu ở nước ngoàI sụt giảm lại được vực dậy bởi doanh thu trong nước đang tăng mạnh.

Lạm phát và giá cả của hiện đại hóa.


Lợi nhuận của việc xuất khẩu rõ ràng là đầy sức thuyết phục. Nhưng nhập khẩu cũng đem lại lợi nhuận cao cho thị trường Mỹ, bởi vì chúng góp phần dụ trữ năng lực sản xuất cho nền kinh tế Mỹ. Nếu không có nhập khẩu ( hoặc có một vàI hạn chế trong nhập khẩu ) thì sẽ không mang lại động lực cho các doanh nghiệp nội địa trong việc ổn định giá cả hàng hóa của họ.Việc thiếu cơ hội lựa chọn sản phẩm nhập khẩu buộc những người tiêu dùng phảI trả tiền nhiều hơn, gây ra lạm phát và đẩy nhanh lợi nhuận của các công ty trong nước lên quá cao. Sự biến động này thường đóng vai trò khởi đầu cho yêu cầu của công nhân về mức lương cao hơn; đẩy mạnh hơn nữa nạn lạm phát . Những hạn nghạch nhập khẩu được đưa ra đối với loại ôtô của Nhật đã giữ được 46200 việc làm trong ngành công nghiệp của Mỹ nhưng với một chi phí lên đến 160000$ cho một việc làm một năm. Chi phí quá lớn này đã gây ra việc tăng thêm (vào năm 1983) 400$ vào giá mỗi ôtô của Mỹ và 1000$ vào giá mỗi hàng nhập khẩu từ Nhật . Khoản lợi này thuộc về Detroit tạo nên một mức lợi nhuận cao kỷ lục đối với các nhà sản xuất ôtô của Mỹ. Những khoản lợi ngắn hạn này thu được từ những biện pháp quản lý của chính phủ trong vấn đề cung hàng nhập khẩu có thể trong dàI hạn sẽ quay lại đánh trả các công ty trong nước. Các biện pháp hạn chế thương mại không chỉ làm giảm cạnh tranh bằng giá cả ngắn hạn, mà chúng còn có ảnh hưởng mạnh trong nhu cầu tiêu dùng trong nhiều năm tới. Ơ Châu Âu khi giá của nước cam ép tăng lên, người tiêu dùng chuyển sang dùng nước tráI cây khác. Cũng như thế những người trồng cam Florida cảm thấy lo sợ khi thấy giá quá cao khiến người tiêu dùng chuyển sang tiêu dùng hàng hóa khác. Sau mùa đông lạnh giá năm 1962 ngành cam quýt của nước này phảI mất 10 năm mới giành lại được khách hàng của họ. Những người trồng cam của Mỹ cuối cùng cũng học được cách cùng tồn tại với hàng hóa nhập ngoại bởi họ hiểu ra rằng nước quả nhập từ Brazil, thông qua việc giảm tối đa mức tăng giá, lại có thể giữ được người tiêu dùng.


tải về 4.83 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   45




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương