PHẦn mở ĐẦu tính cấp thiết của đề tài


Đặc điểm nhu cầu tin của người dùng tin



tải về 0.62 Mb.
trang3/8
Chuyển đổi dữ liệu06.08.2016
Kích0.62 Mb.
#14604
1   2   3   4   5   6   7   8

Đặc điểm nhu cầu tin của người dùng tin

  • Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Luật Hà Nội

Như đã biết, số lượng người dùng tin tại Trung tâm chủ yếu là sinh viên (90%). Qua điều tra bảng hỏi, đã cho ra một số kết quả phản ánh phần nào nhu cầu tin của bạn đọc tại trung tâm:

Nhu cầu sử dụng thông tin số về các lĩnh lực tri thức đa dạng và phong phú như về kinh tế, thương mại, lịch sử, địa lý…nhưng mức độ thường xuyên và chủ yếu quan tâm nhất vẫn là Luật (90%). Mức độ quan tâm lĩnh vực trong ngành Luật hết sức đa dạng như Luật kinh tế, Luật hình sự, Luật dân sự, Luật hành chính nhà nước…



Lĩnh vực

Mức độ (%)

Rất quan tâm

Quan tâm

Ít quan tâm

Không bao giờ

Luật kinh tế

57

37

6

0

Luật hình sự

54

43

3

0

Luật dân sự

12

67

6

0

Luật hành chính NN

14

50

37

0

Luật quốc tế KD

26

33

40

0

Luật thương mại

33

43

16

0

Khác

6

26

23

0

Bảng 1: Nhu cầu tin lĩnh vực ngành Luật tại Trung tâm TTTV Đại học Luật

Theo bảng thống kê, có thể thấy bạn đọc quan tâm hết sức đa dạng các lĩnh vực trong ngành Luật, tuy nhiên, nhiều nhất là Luật kinh tế và Luật hình sự. Chiếm tỉ lệ quan tâm ít nhất là Luật dân sự, Luật hành chính Nhà nước.

Ý kiến bạn đọc đánh giá về mức độ đáp ứng nội dung tài liệu của cơ quan chủ yếu là rất tốt (3%) và tốt (77%). Có 20% bạn đọc đánh giá chưa tốt.

Nhu cầu khai thác tài liệu Luật dưới dạng số chiếm 84%. Hình thức sử dụng tài liệu số cũng đa dạng như CSDL toàn văn (54%), CSDL thư mục (26%), CSDL dữ kiện (10%), khác (10%)

Bạn đọc chủ yếu khai thác tài liệu số qua cổng thông tin của thư viện (70%), google(100%)…

Ngôn ngữ tài liệu bạn đọc thường sử dụng là tiếng Việt (100%) và tiếng Anh (36%).



  • Trung tâm Thông tin – Thư viện và Nghiên cứu Khoa học của Văn phòng Quốc hội

Do việc bảo mật của Trung tâm nên tác giả không được phát bảng hỏi khảo sát nhu cầu tin, mà chỉ được phép nghiên cứu tìm hiểu tài liệu, một số thông tin về nhu cầu tin của đại biểu Quốc hội khóa 12, phóng vấn cán bộ Trung tâm, để thấy được nhu cầu tin của người dùng tin tại Trung tâm.

Lĩnh vực Đại biểu Quốc hội quan tâm phong phú đa dạng, đặc biệt là Pháp luật, Kinh tế, Chính trị, Xã hội, Y tế, Giáo dục. Hình thức thông tin được các đại biểu ưu tiên sử dụng là thông tin tham khảo chuyên đề, thông tin hỏi – đáp, CSDL…

Nhu cầu sử dụng ngôn ngữ tư liệu của các Đại biểu Quốc hội chủ yếu là tiếng Việt. Bên cạnh đó, sử dụng đa dạng các loại ngôn ngữ khác như Anh, Pháp, Nga, Đức…

Mức độ quan tâm của Đại biểu Quốc hội đối với nguồn thông tin như CSDL trên máy tính, thông tin chuyên đề, phương tiện thông tin đại chúng, hay qua tiếp xúc cử tri là chủ yếu.

Dưới đây là kết quả bảng hỏi trong một công trình nghiên cứu cho thấy sự đánh giá về chất lượng thông tin, nghiên cứu do Trung tâm cung cấp:



Biểu đồ 1: Đánh giá về chất lượng thông tin, nghiên cứu do Trung tâm cung cấp


  • Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật

Là một Thư viện với đối tượng phục vụ bạn đọc còn hạn chế, đặc điểm nhu cầu tin của bạn đọc tại Thư viện cũng có những nét riêng.

Nhu cầu sử dụng thông tin số về các lĩnh lực tri thức cũng đa dạng và phong phú như về kinh tế, thương mại, lịch sử, địa lý…và quan tâm nhất vẫn là Luật (66%). Mức độ quan tâm lĩnh vực về ngành Luật cũng đa dạng: Luật kinh tế, Luật hình sự, Luật dân sự… Nhu cầu khai thác tài liệu Luật dưới dạng số chiếm 94% và đa dạng các hình thức sử dụng: CSDL toàn văn (20%), CSDL dữ kiện (36%), CSDL thư mục (30%)…Trên cơ sở đó truy cập tài liệu số qua nhiều kênh khác nhau như cổng thông tin của thư viện khác(46%), goodle (70%), người quen cung cấp (36%)…



Lĩnh vực

Mức độ (%)

Rất quan tâm

Quan tâm

Ít quan tâm

Không bao giờ

Luật kinh tế

30

26

6

0

Luật hình sự

33

33

6

0

Luật dân sự

40

30

6

0

Luật hành chính NN

33

33

0

0

Luật quốc tế KD

16

23

13

0

Luật thương mại

43

23

3

0

Khác

6

13

36

0

Bảng 2: Nhu cầu tin lĩnh vực ngành Luật tại Thư viện Viện Nhà nước và Pháp luật

Bảng thống kê cho thấy, nhu cầu tin về lĩnh vực ngành Luật đa dạng và đồng đều. Chiếm tỉ lệ quan tâm cao nhất là Luật thương mại, Luật dân sự. Ít nhất là Luật quốc tế kinh doanh.

Bạn đọc tại Thư viện sử dụng tài liệu bằng nhiều ngôn ngữ, nhưng chủ yếu là tiếng Việt và tiếng Anh, bên cạnh là một số ngôn ngữ khác như tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Nhật, tuy nhiên số lượng ít.

16% bạn đọc cho ý kiến đánh giá mức độ đáp ứng nội dung tài liệu của thư viện là rất tốt, 60% cho ý kiến tốt và 23% cho ý kiến chưa tốt.



  • Thư viện Học viện Tư pháp

Đối tượng người dùng tin tại Thư viện chủ yếu là cán bộ, giảng viên, học viên của Học viện. Một đối tượng nữa là các thành phần như Luật sư, Thẩm phán…Nhu cầu khai thác thông tin về các lĩnh vực tri thức cũng đa dạng, và chú trọng vào ngành Luật (98%). Các lĩnh vực chuyên sâu trong ngành Luật đều được các đối tượng bạn đọc quan tâm với tần suất cao: Luật kinh tế, Luật hành chính nhà nước, Luật thương mại…

Lĩnh vực

Mức độ (%)

Rất quan tâm

Quan tâm

Ít quan tâm

Không bao giờ

Luật kinh tế

60

33

3

0

Luật hình sự

33

50

13

0

Luật dân sự

53

40

0

0

Luật hành chính NN

13

40

30

0

Luật quốc tế KD

20

43

33

0

Luật thương mại

43

40

0

0

Khác

13

23

20

0

Bảng 3: Nhu cầu tin lĩnh vực ngành Luật tại Thư viện Học viện Tư pháp

Cũng theo bảng thống kê thì Luật kinh tế và Luật dân sự là 2 lĩnh vực được quan tâm nhiều nhất. Mức độ quan tâm ít nhất là Luật hành chính Nhà nước.

Nhu cầu khai thác tài liệu Luật dưới dạng số chiếm 80%. Hình thức sử dụng tài liệu số cũng đa dạng như CSDL toàn văn (43%), CSDL thư mục (46%)…

Bạn đọc chủ yếu khai thác tài liệu số qua cổng thông tin của thư viện (56%), google(87%), qua người quen cung cấp (23%), cổng thông tin thư viện khác (16%).

Ngôn ngữ tài liệu bạn đọc thường sử dụng là tiếng Việt (100%) và tiếng Anh (36%).

67% bạn đọc cho ý kiến mức độ đáp ứng nội dung tài liệu của cơ quan là tốt. Tuy nhiên có một số lượng lớn tới 33% cho ý kiến không tốt. Như vậy nhu cầu người dùng tin chưa được đáp ứng tốt nhất.



    1. Các yếu tố tác động đến việc phát triển tài nguyên thông tin số

      1. Chính sách phát triển nguồn tài nguyên thông tin số

Xây dựng, phát triển tài nguyên số đang là xu hướng tất yếu ở tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Để xây dựng phát triển được nguồn tài nguyên số theo đúng nghĩa, cần có những đánh giá chính xác về thực trạng và nhu cầu của thư viện, từ đó có quan điểm thống nhất, có cách tiếp cận đúng đắn và lựa chọn những bước đi thích hợp. Chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước, của chính các cơ quan TTTV là một trong những yếu tố hàng đầu tác động tới hoạt động sứ mệnh này.

Năm 2002, Chính phủ ra Nghị định số 72/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện. Tại chương IV điều 14 có viết: “Bảo đảm kinh phí cho các thư viện phát triển vốn tài liệu, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, theo hướng hiện đại hóa, từng bước thực hiện điện tử hóa, tự động hóa, xây dựng thư viện điện tử, tạo cảnh quan môi trường văn hóa nhằm nâng cao chất lượng người đọc, tổ chức khai thác, sử dụng vốn tài liệu, thông tin và các hoạt động khác của thư viện theo đúng chỉ tiêu, kế hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt”. [2, tr.6]. Đây là một bước chuyển biến lớn trong việc định hướng cho các thư viện phát triển nguồn lực thông tin của mình. Nghị định ra đời đáp ứng theo nhu cầu phát triển của xã hội, khi mà sự phát triển của công nghệ thông tin đang tác động vào mọi mặt của đời sống xã hội. Các văn bản pháp quy tiếp tục được ra đời nhằm cụ thể hóa hơn hoạt động phát triển thư viện cũng như khẳng định nhiệm vụ vai trò của thư viện hơn nữa.

Tại chương IV điều 23 của Pháp lệnh Thư viện có viết: “Thư viện hoạt động bằng ngân sách nhà nước, được thu phí đối với các hoạt động dịch vụ sao chụp, nhân bản tài liệu, biên dịch phù hợp pháp luật về bảo vệ quyền tác giả, biên soạn thư mục, phục vụ tài liệu tại nhà hay gửi qua bưu điện và một số dịch vụ khác theo yêu cầu của người sử dụng vốn tài liệu thư viện”. [4, tr.8]

Với thực tế công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trên cơ sở đó: Chỉ thị 58-CT/TW của Bộ chính trị (khóa III) về “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” được ban hành.

Các văn bản pháp quy về công tác thư viện đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng – Nhà nước ta đối với sự phát triển của sự nghiệp thư viện nói chung và công tác phát triển tài liệu số nói riêng. Trên cơ sở đó, các cơ quan TTTV nói chung, và các thư viện ngành Luật nói riêng xây dựng nên những chính sách phát triển thư viện của cơ quan mình, hướng theo mục tiêu nhiệm vụ chiến lược của Đảng – Nhà nước.


      1. Quy mô cơ quan thông tin - thư viện

Vấn đề xây dựng, phát triển tài nguyên thông tin số hiện nay là nhiệm vụ chiến lược đối với các cơ quan TTTV. Tuy nhiên đây là nhiệm vụ khó khăn và nhiều thách thức. Bởi lẽ xây dựng, phát triển tài nguyên số và việc chia sẻ nó với bên ngoài đòi hỏi sự đầu tư không nhỏ về cả nguồn lực tiền bạc và con người. Các cơ quan TTTV hiện nay phải đánh giá được năng lực của mình để có thể quyết định chính xác. Yếu tố quy mô thư viện là yếu tố quan trọng quyết định việc có hay không việc xây dựng phát triển tài nguyên số. Điều này đúng không chỉ đối với các cơ quan TTTV nói chung mà cả các thư viện ngành Luật nói riêng. Nếu quy mô và tiềm lực của cơ quan còn hạn chế thì vấn đề xây dựng tài nguyên số là cả thách thức lớn trong một giai đoạn phát triển. Thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi các cơ quan TTTV cần nhìn nhận đánh giá đúng khả năng của cơ quan, để có thể ưu tiên phát triển các loại hình tài liệu nào, xây dựng tài nguyên theo các phương thức nào

      1. Kinh phí hoạt động

Một tác động mang tính sống còn đối với hoạt động xây dựng, phát triển tài nguyên số của các cơ quan TTTV – đó chính là kinh phí hoạt động. Thực tế cho thấy, bất kỳ hoạt động riêng lẻ nào trong quá trình xây dựng, phát triển tài nguyên số đều phụ thuộc vào tính khả thi của các nguồn kinh phí. Ngân sách tài chính của các cơ quan TTTV được cấp thường không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của người dùng. Do vậy, ngân sách này cần phải đảm bảo tính cân đối giữa các loại hình/khổ mẫu tài liệu và hình thức truy cập nhằm đáp ứng nhu cầu người dùng. Chính vì vậy đòi hỏi các cơ quan TTTV cần lên kế hoạch để kinh phí bổ sung phát triển tài nguyên số của mình đáp ứng được. Điều này dựa trên sự phong phú và đa dạng của loại hình, chủ đề tài liệu đối với các chuyên ngành đào tạo khác nhau; Sự phân phối tài liệu hợp lý đảm bảo nhu cầu truy nhập thông tin.

Kinh phí có những ảnh hưởng trực tiếp nhất định đến việc lựa chọn, đặt mua và bổ sung các nguồn tài nguyên thông tin đưa vào phục vụ. Hơn nữa, với nguồn kinh phí phụ thuộc từ nhiều nguồn khác nhau đòi hỏi cán bộ làm công tác bổ sung cũng như các nhà quản lý có cái nhìn toàn diện hơn trong việc đưa ra chính sách phát triển tài nguyên số của cơ quan mình một cách hợp lý để vẫn đáp ứng được nhu cầu thông tin của người dùng, khả năng duy trì hoạt động của cơ quan. Khi các cơ quan TTTV càng đảm bảo khả năng cung cấp thông tin của mình nhằm đáp ứng nhu cầu và duy trì người dùng, thì các nguồn tài chính sử dụng để mua tài liệu hay quyền truy cập thông tin càng trở nên hạn chế. Chính vì thế mà nghiên cứu định hướng chiến lược cần phải phù hợp với các phương thức, công cụ quản lý trong môi trường hiện tại. Thế nên đôi khi sự thiếu hụt về kinh phí không tránh khỏi, dẫn đến việc tỷ lệ hóa các bộ sưu tập với các mục đích và chính sách phục vụ khác nhau – trở thành một hoạt động quan trọng đối với người quản lý cũng như người trực tiếp làm công tác bổ sung tài liệu, quá trình bổ sung tài liệu.

Như đã nói, xây dựng một thư viện số, tài nguyên số là vấn đề không nhỏ về nhân lực, vật lực. Đây là chiến lược phát triển mang lại hiệu quả trong tương lai, nhưng là sự đòi hỏi đầy thách thức của các yếu tố đảm bảo. Chi phí để xây dựng và duy trì phát triển tài nguyên số của các cơ quan là vấn đề cốt lõi hàng đầu. Bởi sự đòi hỏi của công nghệ hiện đại, phương thức hoạt động hiện đại…và từ chính nguồn ngân sách được cấp còn eo hẹp. Chính vì vậy mà đối với tất cả các cơ quan TTTV nói chung, ngành Luật nói riêng cần hết sức chú tâm tới vấn đề này. Cần phải có chiến lược hoạch định kinh phí rõ ràng cũng như thu hút các nguồn tài trợ, tìm kiếm kinh phí hỗ trợ cho sự hoạt động.


      1. Trình độ cán bộ

Trong thư viện số, dù có sự hỗ trợ của công nghệ, nhưng các cán bộ thư viện phải là người quản trị những Sưu tập số, nguồn tài liệu số của cơ quan. Cán bộ thư viện phải trở thành những chuyên gia thông tin trong xã hội tri thức.

Các thư viện số đòi hỏi phải có các cán bộ thư viện số. Các bộ sưu tập số hóa cần được chọn lọc, thu thập, tổ chức, tạo truy cập và bảo quản. Các dịch vụ của thư viện số cần được thực hiện đúng kế hoạch, thực hiện đúng hợp đồng và được giúp đỡ đầy đủ. Các máy tính là các công cụ quan trọng nhất trong xây dựng các thư viện số nhưng con người mới giúp cho các hoạt động trong thư viện kết hợp lại với nhau và duy trì hoạt động của thư viện.

Nếu như trong thư viện truyền thống người cán bộ thư viện chỉ được biết đến như là người trông coi sách, có nhiệm vụ giữ sách và cho mượn sách thì trong thời đại thư viện số vai trò của cán bộ thư viện thay đổi hoàn toàn. Các công việc chính của cán bộ thư viện có thể vẫn là: thu thập tài liệu, thông tin, xử lý kỹ thuật tài liệu, làm phân loại, biên mục, tổ chức các hình thức phục vụ, nhưng chất của công việc đã thay đổi cơ bản. Người cán bộ thư viện được xem như là người tổ chức và chuyên gia thông tin, môi trường làm việc của họ là môi trường "số". Nhiệm vụ của một cán bộ thư viện số được xem xét với các góc độ sau:

 Thu thập tư liệu: Lựa chọn, bổ sung, xử lý, bảo quản, tổ chức phục vụ các bộ sưu tập số;

 Thiết kế cấu trúc kỹ thuật cho thư viện số;

 Biên mục: Mô tả nội dung tài liệu số (siêu dữ liệu);

 Xây dựng kế hoạch, hỗ trợ các dịch vụ số (định hướng thông tin, tư vấn chuyển giao…);

 Tạo lập các giao diện thân thiện với người sử dụng trong hệ thống mạng;

 Xây dựng các chính sánh, tiêu chuẩn liên quan đến thư viện;

 Thiết kế, duy trì và chuyển giao các sản phẩm thông tin chất lượng cao với giá trị gia tăng;

 Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với thông tin số trong môi trường mạng;

 Bảo đảm an ninh thông tin.

 Hình thức, phương thức phục vụ

Cho dù phục vụ thư viện truyền thống hay thư viện số thì đối tượng và mục tiêu phục vụ vẫn là đáp ứng nhu cầu thông tin cho người dùng tin. Tuy nhiên, trong thư viện truyền thống bạn đọc không có nhiều dịch vụ để lựa chọn ngoài việc đến thư viện tra tìm tài liệu qua các tủ mục lục truyền thống, ghi phiếu yêu cầu và thông qua thủ thư mượn, đọc tài liệu in trên giấy. Trong thư viện số, thủ thư có thể cung cấp cho bạn đọc những dịch vụ đa dạng, linh hoạt bao gồm:

 Phân tích và xử lý các loại thông tin khác nhau;

 Thúc đẩy và tổ chức các giá trị tiềm ẩn trong mọi thông tin;

 Cung cấp những sản phẩm, dịch vụ thông tin có giá trị đúng lúc, đúng đối tượng.

 Chuyển giao thông tin đến người dùng và cung cấp các dịch vụ chuyên biệt có định hướng…

 Yêu cầu kiến thức, năng lực

Có kiến thức tổng hợp: để đáp ứng được yêu cầu của thư viên số, tài liệu số, người cán bộ thư viện cần có những kiến thức cơ bản về các ngành khoa học thư viện, khoa học thông tin, công nghệ thông tin, ngoại ngữ và một số chuyên ngành cụ thể khác Khả năng nắm bắt thông tin cao:

+ Có phản ứng nhanh nhạy với các nguồn thông tin khác nhau;

+ Có kỹ năng trong việc tìm kiếm thông tin;

+ Có niềm đam mê trong công việc, ý thức xây dựng và cung cấp thông tin;

+ Có kỹ năng xử lý làm tăng giá trị của thông tin;

+ Có khả năng sàng lọc và đánh giá thông tin;

+ Có khả năng thu thập, bổ sung;

+ Có khả năng tổ chức, quản lý thông tin;

+ Có khả năng phổ biến thông tin đến người sử dụng đúng lúc, đúng đối tượng;

+ Năng động, sáng tạo, tinh thần đồng đội cao, có tầm nhìn chiến lược, biết xây dựng dự án.

Nội dung

Cán bộ thư viện truyền thống

Cán bộ thư viện số

Vai trò trong xã hội

Thu thập, phổ biến tư liệu

Chuyên gia thông tin

Định hướng thông tin



Môi trường làm việc

Thư viện truyền thống

Thư viện số

Hệ thống kiến thức

Đơn lẻ

Tổng hợp

Nhóm độc giả

Cố định

Bất cứ người dùng kết nối mạng máy tính

Cơ sở dịch vụ

Bên trong toàn nhà thư viện

Trên hệ mạng máy tính

Nội dung công việc

Đơn điệu

Đa dạng, phong phú

Cách thức phục vụ

Bị động

Chủ động

Đối tượng làm việc

Tài liệu in

Các bộ sưu tập số

Nội dung công việc

Gửi giao tài liệu

Định hướng thông tin, tư vấn và chuyển giao công nghệ hiện đại

Trình độ làm việc

Thấp ( Ngoại ngữ và CNTT )

Cao, chuyên nghiệp

Bảng 4: Sự khác nhau giữa thủ thư số và thủ thư truyền thống

Mặc dù các yêu cầu chung đối với các thư viện số hóa cũng giống như với các bộ sưu tập phi số hóa, nhưng để tổ chức một bộ sưu tập số thì không hề giống với việc tổ chức một bộ sưu tập in. Nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với các cán bộ thư viện số hiện nay không hề giống với những gì họ đã được học ở trường. Hơn nữa đứng trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thì kiến thức học được hôm nay sẽ sớm bị lạc hậu nay mai. Vì vậy người cán bộ thư viện cần có các khả năng cá nhân đặc biệt (do bẩm sinh) hơn là chuyên môn nghiệp vụ (do học tập tích lũy).

Các cán bộ thư viện phải thật nhạy bén với những thay đổi, họ phải học tập (có chọn lọc) và thực hành thường xuyên. Họ phải nhiệt tình với học tập, phải tự rèn luyện và có tinh thần sẵn sàng đối mặt với những thách thức. Hơn thế nữa, họ phải là những người có năng lực về công nghệ.

Những cán bộ đáp ứng được các yêu cầu trên chính là những người sẽ áp dụng các phương pháp mới, tiên tiến để hoàn thành nhiệm vụ truyền thống của ngành thư viện: chọn lọc, thu thập, tổ chức, cung cấp truy cập, và bảo quản nguồn lưu trữ trí tuệ và nghệ thuật của loài người. 

Lĩnh vực chuyên môn thư viện đang rất cần có các chuyên viên trẻ, mới tốt nghiệp vì hiện nay rất nhiều thư viện truyền thống đang chuyển đổi sang thư viện số. Các công việc trong thư viện số sẽ thu hút đội ngũ chuyên viên thư viện kế cận. 

Nhiệm vụ chính của các cán bộ thư viện số là quản lý, lãnh đạo và các công tác liên quan đến trang web. Nhiêm vụ quản lý tập trung vào phần lập kế hoạch và đánh giá các dự án thư viện số, trong khi công tác lãnh đạo và chuyên môn trong lĩnh vực thư viện số đòi hỏi các cán bộ thư viện số phải cộng tác với nhau và cả với người sử dụng.  

Các cán bộ thư viện số hiện nay rất chú trọng các kỹ năng về thông tin và quản lý dự án để họ có thể chứng minh khả năng của mình trong các dự án hợp tác và làm việc theo nhóm. Các thư viện số sẽ vẫn thay đổi không ngừng nên các cán bộ thư viện số phải có khả năng thích ứng được với sự thay đổi đó.

Với thực tế như vậy, một cán bộ thư viện số cần đáp ứng được 2 yêu cầu: một là phải có các kỹ năng như là kỹ năng về thông tin, về phân tích xu hướng; hai là phải tiếp tục nâng cao trình độ thông tin và kỹ thuật về tổ chức và công tác thực tiễn trong hoạt động xây dựng các thư viện số, các nguồn tài nguyên số.




      1. tải về 0.62 Mb.

        Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương