Niềm vui của Tin Mừng


II. THÁCH THỨC CHO NGƯỜI HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ



tải về 0.79 Mb.
trang6/17
Chuyển đổi dữ liệu10.09.2016
Kích0.79 Mb.
#31956
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

II. THÁCH THỨC CHO NGƯỜI HOẠT ĐỘNG MỤC VỤ


76. Tôi vô cùng biết ơn tất cả những người đang dấn thân hoạt động trong Hội Thánh và cho Hội Thánh. Ở đây tôi không muốn đi vào chi tiết các hoạt động của những người hoạt động mục vụ khác nhau, từ các giám mục xuống tới những người cung cấp các việc phục vụ âm thầm và khiêm tốn nhất. Đúng hơn, tôi muốn suy tư về những thách thức mà tất cả họ phải đối diện trong bối cảnh văn hoá toàn cầu hoá hiện nay. Nhưng một cách công tâm, tôi phải nói trước tiên rằng sự đóng góp của Hội Thánh trong thế giới hôm nay là vô cùng to lớn. Nỗi đau và sự xấu hổ chúng ta cảm thấy vì tội lỗi của một số thành viên của Hội Thánh, và tội lỗi của chính chúng ta, không bao giờ được làm chúng ta quên rằng có vô số người Kitô hữu đang hiến dâng cuộc đời mình trong hi vọng. Họ giúp biết bao nhiêu người được khỏi bệnh hay được chết trong bình an tại các bệnh viện tạm bợ. Họ hiện diện với những người mắc các tật nghiện ngập khác nhau tại những nơi nghèo khổ nhất trên thế giới. Họ hiến mình cho việc giáo dục các trẻ em và thanh niên. Họ chăm sóc những người già không được ai lo cho. Họ tìm cách thông truyền những giá trị trong các môi trường thù nghịch. Họ dấn thân bằng những cách thức khác nhau để chứng tỏ một tình thương vô biên đối với nhân loại được khơi dậy bởi vị Thiên Chúa làm người. Tôi biết ơn vì gương sáng tôi nhận được từ rất nhiều Kitô hữu khi họ vui vẻ hi sinh cuộc đời và thời giờ của họ. Những chứng tá này an ủi và nâng đỡ tôi trong cố gắng của chính mình để khắc phục tính ích kỷ và để tôi hiến mình trọn vẹn hơn.
77. Tuy nhiên, là những đứa con của thời đại này, tất cả chúng ta một cách nào đó cũng chịu ảnh hưởng bởi nền văn hoá toàn cầu hoá hôm nay, nó cho chúng ta những giá trị và khả thể mới, nhưng cũng có thể hạn chế, chi phối và rốt cuộc làm hại chúng ta. Tôi ý thức rằng chúng ta cần tạo ra những khoảng không gian mới trong đó những người hoạt động mục vụ có thể tìm được sự giúp đỡ và chữa trị, “những nơi mà chính đức tin vào Chúa Giêsu chết và phục sinh được canh tân, những nơi mà các vấn đề sâu xa nhất và các mối quan tâm hằng ngày được chia sẻ, nơi mà nhận thức sâu xa hơn về các kinh nghiệm của chúng ta và chính đời sống được thực hiện trong ánh sáng Tin Mừng, vì mục đích định hướng các quyết định của cá nhân và xã hội tới cái tốt và cái đẹp”.[62] Đồng thời, tôi muốn kêu gọi chú ý tới một số cám dỗ đặc biệt ảnh hưởng tới những người hoạt động mục vụ.
Nói có với thách thức của một linh đạo truyền giáo

78. Chúng ta hôm nay đang thấy nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người thánh hiến nam cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái của bản thân họ, khiến họ coi công việc của họ như chỉ là một cái gì phụ thuộc chứ không phải một thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng liêng trở nên bị đồng hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một sự an ủi nào đó chứ không khuyến khích việc gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê loan báo Tin Mừng. Kết quả là chúng ta thấy nhiều người hoạt động rao giảng Tin Mừng, tuy họ vẫn cầu nguyện, nhưng có một lối sống rất cá nhân chủ nghĩa, một sự khủng hoảng căn tính và nhiệt tình trở nên nguội lạnh. Có ba điều xấu tác động lẫn nhau.


79. Có những lúc nền văn hoá truyền thông của chúng ta và một số giới trí thức truyền đi một chủ nghĩa hoài nghi rất mạnh đối với sứ điệp của Hội Thánh, cùng với những chỉ trích giễu cợt. Hậu quả là nhiều nhà hoạt động mục vụ, mặc dù họ cầu nguyện, nhưng ngày càng thêm mặc cảm tự ti dẫn họ tới thái độ tương đối hoá căn tính và các niềm tin Kitô giáo của họ. Điều này tạo ra một cái vòng lẩn quẩn. Rốt cuộc họ cảm thấy không hài lòng với bản thân họ và với công việc họ làm; họ không đồng hoá mình với sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình và điều này làm suy yếu sự dấn thân của họ. Tình trạng này cuối cùng bóp nghẹt niềm vui truyền giáo bằng một thứ ám thị rằng họ giống như mọi người và có tất cả những gì người khác có. Như thế hoạt động rao giảng Tin Mừng của họ trở thành bị ép buộc, họ dành rất ít công sức và thời gian cho công việc này.
80. Các nhà hoạt động mục vụ như thế có thể rơi vào một thứ chủ nghĩa tương đối còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa tương đối lý thuyết, bất kể phong cách linh đạo hay tư duy riêng của họ là gì. Nó chạm tới các quyết định thâm sâu và riêng tư nhất định hình lối sống của họ. Chủ nghĩa tương đối thực tế này hệ tại việc hành động như thể Thiên Chúa không hiện hữu, thực hiện các quyết định như thể người nghèo không tồn tại, đề ra các mục tiêu như thể người khác không tồn tại, hoạt động như thể không có sự tồn tại của những người chưa đón nhận Tin Mừng. Đáng ngạc nhiên là những người rõ ràng từng có những xác tín học thuyết và thiêng liêng vững chắc cũng thường rơi vào một lối sống bám víu vào sự an toàn về tài chánh, hay một ước muốn quyền lực và danh vọng bằng bất cứ giá nào, thay vì hiến mình truyền giáo cho tha nhân. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm say mê truyền giáo!
Nói không với ích kỷ và nguội lạnh thiêng liêng

81. Khi mà chúng ta đang cần nhiều nhất một năng động truyền giáo để đem muối và ánh sáng cho đời, thì nhiều giáo dân sợ rằng có thể họ sẽ được yêu cầu đảm nhận một hoạt động tông đồ nào đó, và họ tìm cách tránh né mọi trách nhiệm có thể lấy mất thì giờ rảnh rỗi của họ. Ví dụ, ngày nay tại các giáo xứ thật khó tìm được những giáo lý viên đã được huấn luyện mà sẵn sàng kiên trì trong công việc này trong một thời gian dài. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các linh mục sợ mất thời giờ rảnh rỗi của mình. Lý do thường là vì người ta cảm thấy nhu cầu quá mạnh muốn bảo vệ sự tự do riêng của họ, họ coi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng như thể là một chất độc nguy hiểm thay vì là một lời đáp hân hoan trước tình yêu của Thiên Chúa mời gọi chúng ta truyền giáo, hoàn thiện bản thân và sinh hoa kết quả. Một số người hoàn toàn từ chối hiến thân cho truyền giáo và rốt cuộc đi đến một tình trạng tê liệt và nhàm chán thiêng liêng.


82. Vấn đề không luôn luôn ở chỗ quá nhiều hoạt động, nhưng hoạt động được thực hiện không tốt, không có động lực thích hợp, không có một linh đạo thấm nhuần hoạt động ấy và làm cho nó thú vị. Kết quả là hoạt động trở nên mệt nhọc quá mức, nhiều khi dẫn tới bệnh tật. Thay vì cảm thấy mệt nhưng vui và thoả mãn, người ta cảm thấy căng thẳng, nặng nề, không thoả mãn và rốt cuộc là không chịu đựng nổi. Nhàm chán mục vụ có thể đến từ một số nguyên nhân. Một số người rơi vào tình trạng này vì họ lao mình vào những kế hoạch không thực tế và không thoả mãn với những gì họ có thể làm hợp với sức của họ. Số khác vì họ thiếu kiên nhẫn để cho phép các tiến trình chín muồi; họ muốn đạt mọi sự ngay tức khắc. Số khác vì họ bám chặt vào một số ít dự án hay ước mơ thành công vô bổ. Số khác nữa vì họ đã mất tiếp xúc thực tế với dân và quá vật chất hoá công việc của họ khiến họ quan tâm nhiều tới bản đồ lộ trình hơn là tới chính cuộc hành trình. Cũng có người rơi vào nhàm chán vì họ không thể đợi; họ muốn làm chủ nhịp độ đời sống. Mối ám ảnh ngày nay với những những kết quả tức thời khiến các nhà hoạt động mục vụ khó chấp nhận bất cứ điều gì có chút dính dáng tới những ý kiến bất đồng, thất bại, chỉ trích hay thập giá.
83. Thế là mối đe doạ lớn nhất từ từ hình thành: “chủ nghĩa thực dụng màu xám của đời sống hằng ngày của Hội Thánh, trong đó mọi sự có vẻ diễn tiến bình thường, nhưng trên thực tế đang hao mòn dần và rơi xuống tình trạng thiển cận”.[63] Bằng cách này một tâm lý nấm mồ phát triển và từ từ biến những người Kitô hữu thành những xác ướp trong một viện bảo tàng. Vỡ mộng với thực tế, với Hội Thánh và với bản thân mình, họ trải nghiệm một cám dỗ ở lại trong một thái độ u buồn vô vọng, níu kéo con tim như “liều thuốc quí nhất của quỉ”.[64] Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!
Nói không với thái độ bi quan vô bổ

84. Niềm vui của Tin Mừng là cái không ai hay điều gì có thể lấy mất được của chúng ta (xem Ga 16:22). Những điều xấu của thế giới—và của Hội Thánh—không thể là cái cớ để chúng ta giảm bớt sự dấn thân và nhiệt tình. Chúng ta hãy coi chúng như là những thách thức có thể giúp chúng ta lớn lên. Với con mắt đức tin, chúng ta có thể thấy ánh sáng mà Chúa Thánh Thần luôn luôn chiếu dọi giữa bóng tối, đồng thời không bao giờ quên rằng “ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20). Đức tin của chúng ta được thách thức để biết rằng nước có thể biến thành rượu như thế nào và lúa mì có thể mọc giữa cỏ dại ra sao. Năm mươi năm sau Công Đồng Vaticanô II, trong khi chúng ta đau buồn vì những rắc rối của thời đại, thay vì một sự lạc quan ngây thơ, thái độ thực tế lớn lao hơn của chúng ta không được có nghĩa là chúng ta ít tin cậy hơn vào Thần Khí hay ít quảng đại hơn. Theo nghĩa này, chúng ta có thể nghe lại một lần nữa những lời của Chân Phước Gioan XXIII vào ngày đáng nhớ 11 tháng 10 năm 1962: “Đôi khi chúng ta ân hận khi phải nghe những tiếng nói của những người thiếu thận trọng và thiếu chừng mực, mặc dù họ cháy bỏng nhiệt tình. Trong thời đại hôm nay, họ không nhìn thấy gì khác ngoài sự bấp bênh và tàn phá... Chúng ta thấy không thể đồng tình với những nhà tiên tri của thảm hoạ, những người luôn luôn tiên báo có thảm hoạ, như thể ngày tận thế đã tới gần. Ở thời đại chúng ta, Chúa Quan Phòng đang đưa chúng ta tới một trật tự mới của các mối tương quan giữa con người; nhờ sự cố gắng của con người và thậm chí vượt quá mọi mong đợi, các mối tương quan này được qui hướng tới sự hoàn thành các ý định cao cả và khôn dò của Thiên Chúa, trong đó mọi sự, kể cả các thất bại của con người, đều dẫn tới lợi ích lớn hơn cho Hội Thánh”.[65]


85. Tại một số nơi đã xuất hiện rõ một sự “sa mạc hoá” thiêng liêng, kết quả của những cố gắng nơi một số xã hội muốn xây dựng mà không có Thiên Chúa, hay muốn loại trừ mọi gốc rễ Kitô giáo của chúng. Tại những nơi ấy, “thế giới Kitô giáo đang trở nên cằn cỗi và đang tự đánh mất mình giống như một mảnh đất bị khai thác quá mức và biến thành sa mạc”.[66] Tại những nước khác, sự chống đối Kitô giáo buộc các Kitô hữu phải che giấu đức tin của họ trên chính mảnh đất quê hương họ. Đây là một loại sa mạc thương đau. Nhưng gia đình và nơi làm việc cũng có thể là một nơi khô cằn mà dù sao đức tin vẫn phải được bảo tồn và truyền thụ. Tuy nhiên, “xuất phát từ chính kinh nghiệm về sa mạc này, về sự trống rỗng này, chúng ta có thể khám phá lại niềm vui đức tin, tầm quan trọng sinh tử của đức tin đối với chúng ta, nam cũng như nữ. Trong sa mạc, chúng ta khám phá lại giá trị của những gì thiết yếu cho cuộc sống; chẳng hạn, trong thế giới hôm nay, có vô số những dấu chỉ, thường được biểu lộ một cách mặc nhiên hay âm thầm, về sự khao khát Thiên Chúa, về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời. Và trong sa mạc, những người có đức tin là những người cần thiết để, bằng chính gương sáng đời sống của họ, họ chỉ cho thấy con đường dẫn tới Đất Hứa và giữ vững niềm hi vọng”.[67] Trong những hoàn cảnh này, chúng ta được kêu gọi làm những mạch nước sự sống cho người khác có thể đến uống. Lắm khi nhiệm vụ này là một cây thập giá nặng nề, nhưng chính từ thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, Đức Giêsu đã hiến mình cho chúng ta như một nguồn nước sự sống. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hi vọng!
Nói có với các mối tương quan mới do Đức Kitô đem đến

87. Ngày nay, khi các mạng và các phương tiện truyền thông đã đạt những bước tiến bộ chưa từng có, chúng ta cảm nhận một thách thức phải tìm ra và chia sẻ một ‘khoa thần bí’ của việc sống chung với nhau, hoà mình và gặp gỡ, đón nhận và nâng đỡ lẫn nhau, lao mình vào giòng thác này, giòng thác hỗn mang nhưng có thể trở thành một trải nghiệm đích thực về tình huynh đệ, một giòng người thể hiện tình liên đới, một cuộc hành hương thánh. Như thế những khả thể của truyền thông càng lớn thì càng trở thành những khả thể lớn cho sự gặp gỡ và tình liên đới với mọi người. Ra khỏi mình để hoà vào với người khác là điều tốt cho chúng ta. Tự đóng kín mình là nếm cảm vị đắng độc hại của tính tự tại, và loài người sẽ trở nên tổi tệ hơn vì mỗi một chọn lựa ích kỷ của chúng ta.


88. Lý tưởng Kitô giáo sẽ luôn luôn là một lời kêu gọi khắc phục tính hoài nghi, thói quen nghi kỵ lẫn nhau, sợ mất cái riêng tư của mình, tất cả những thái độ tự vệ mà thế giới hôm nay áp đặt trên chúng ta. Nhiều người tìm cách trốn tránh người khác và tìm ẩn náu nơi cái tiện nghi tư riêng của mình hay nơi một nhóm thân hữu ít ỏi, từ chối quan điểm hiện thực về khía cạnh xã hội của Tin Mừng. Bởi vì giống như một số người muốn có một Đức Kitô thuần tuý thiêng liêng, không xác thể và không thập giá, họ cũng muốn các mối tương quan nhân vị của họ được cung cấp bởi những thiết bị tinh vi, những màn hình và những hệ thống mà họ có thể bật và tắt bằng lệnh. Trong khi đó, Tin Mừng không ngừng dạy chúng ta mạo hiểm vào những cuộc gặp gỡ trực diện với người khác, với sự hiện diện thể chất của họ vốn thách thức chúng ta, với nỗi đau và các lời kêu xin của họ, với niềm vui của họ lan toả sang chúng ta trong mối tương tác gần gũi và liên tục. Lòng tin đích thực vào Con Thiên Chúa nhập thể thì không thể tách rời khỏi sự tự hiến, tư cách thành viên của cộng đoàn, sự phục vụ, sự hoà giải với người khác. Bằng việc nhập thể, Con Thiên Chúa kêu gọi chúng ta tới cuộc cách mạng của sự dịu dàng.
89. Là một hình thức của tính tự tại, thái độ cách ly có thể được biểu hiện bằng một sự tự lập giả tạo, ở đó không có chỗ cho Thiên Chúa. Nhưng trong lãnh vực tôn giáo, nó cũng có thể khoác bộ áo của một chủ nghĩa tiêu thụ thiêng liêng được cắt cho vừa với chủ nghĩa cá nhân bệnh hoạn. Xu hướng trở về với cái thánh thiêng và đi tìm đời sống thiêng liêng của thời đại chúng ta là một hiện tượng mơ hồ. Ngày hôm nay, thách thức của chúng ta không phải là chủ nghĩa vô thần cho bằng nhu cầu đáp ứng một cách thích hợp cơn khát Thiên Chúa của nhiều người, kẻo họ tìm cách thoả mãn cơn khát này bằng các giải pháp sai lạc hay với một Đức Kitô phi xác thể, một Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta bất cứ điều gì đối với tha nhân. Nếu những người này không tìm thấy trong Hội Thánh một sự sống thiêng liêng có thể giúp chữa lành và giải thoát, và đổ đầy sự an bình vào đời sống họ, đồng thời kêu gọi họ tới sự hiệp thông huynh đệ và hiệu năng truyền giáo, thì rốt cuộc họ sẽ bị lôi kéo bởi những giải pháp không làm cho đời sống họ thực sự là nhân bản, cũng không làm vinh danh Thiên Chúa.
90. Các hình thức chân chính của lòng đạo bình dân là nhập thể, vì chúng được sinh ra từ sự nhập thể của đức tin Kitô giáo trong văn hoá bình dân. Vì lý do này, lòng đạo ấy bao gồm một mối quan hệ nhân bản, không phải với các thần lực hay quyền năng thiêng liêng mơ hồ, nhưng với Thiên Chúa, với Đức Kitô, với Đức Mẹ và các thánh. Các việc sùng đạo này có xác thể, có một khuôn mặt. Chúng có khả năng nuôi dưỡng các mối quan hệ chứ không chỉ giúp người ta trốn tránh. Tại các phần khác của xã hội chúng ta, chúng ta thấy ngày càng tăng sức hấp dẫn của các hình thức khác nhau của một thứ “linh đạo phúc lợi” cách ly với mọi đời sống cộng đồng, hay một thứ “thần học thịnh vượng” không bao hàm trách nhiệm đối với các anh chị em chúng ta, hay những kinh nghiệm phi cá thể mà thực chất chỉ là một hình thức qui về bản thân mình.
91. Một thách thức quan trọng là cho thấy rằng giải pháp sẽ không bao giờ có trong việc trốn tránh mối quan hệ cá nhân và gắn bó với Thiên Chúa, cũng là dấn thân phục vụ tha nhân. Ngày nay thái độ trốn tránh này thường xảy ra khi các tín hữu tìm cách xa tránh hay cách ly với người khác, hay âm thầm bỏ chỗ này sang chỗ khác, bỏ công việc này sang một công việc khác, mà không tạo ra được những mối liên hệ sâu xa và bền chặt ở bất cứ đâu. “Imaginatio locorum et mutatio multos fefellit” (“Mơ đến những nơi khác nhau, bỏ chỗ này sang chỗ khác, đã làm nhiều người lạc lối”).[68] Đây là một phương thuốc sai gây nguy hại cho tâm hồn và đôi khi cho cả thân xác. Chúng ta cần giúp người khác hiểu rằng cách duy nhất là học biết gặp gỡ người khác với thái độ đúng đắn, nghĩa là biết chấp nhận họ làm bạn đồng hành mà không miễn cưỡng. Và học chịu đau khổ trong việc ôm ấp thập giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh mỗi khi chúng ta bị chống đối một cách bất công hay gặp phải sự vô ơn, không bao giờ mệt mỏi vì lựa chọn sống trong tình huynh đệ.[69]
92. Quả vậy, ở đó chúng ta tìm thấy sự chữa lành thực sự, vì cách chúng ta liên kết với người khác có tác dụng chữa lành chứ không làm chúng ta yếu đi, nó là một tình huynh đệ mầu nhiệm, một tình huynh đệ chiêm niệm. Nó là một tình thương huynh đệ có khả năng nhìn thấy sự cao cả thánh thiêng của người khác, của việc nhìn thấy Thiên Chúa nơi mọi người, của việc chấp nhận những phiền toái của cuộc sống chung bằng cách gắn bó với tình yêu của Thiên Chúa, của việc mở lòng ra cho tình thương của Thiên Chúa và tìm kiếm hạnh phúc của tha nhân theo gương Cha chúng ta ở trên trời. Ở đây và bây giờ, đặc biệt ở những nơi chúng ta là một “đoàn chiên nhỏ” (Lc 12:32), các môn đệ Chúa Kitô được kêu gọi sống như một cộng đoàn là muối cho đời và ánh sáng cho trần gian (xem Mt 5:13-16). Chúng ta được kêu gọi làm chứng cho một cách sống chung luôn luôn mới mẻ trong sự trung thành với Tin Mừng.[70] Chúng ta đừng để mình bị cướp mất đời sống chung!
Nói không với tính thế tục trong đời sống thiêng liêng

93. Núp dưới dáng vẻ của lòng đạo đức và thậm chí lòng yêu đối với Hội Thánh, tính thế tục thiêng liêng hệ tại việc không tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa mà là tìm vinh quang loài người và sự thoả mãn của bản thân. Đó là điều Chúa mắng những người Biệt Phái: “Các ông tôn vinh lẫn nhau và không tìm kiếm vinh quang phát xuất từ Thiên Chúa duy nhất, thì làm sao các ông có thể tin?” (Ga 5:44). Đây là một cách tinh vi để tìm “lợi ích cho riêng mình chứ không phải tìm lợi ích cho Đức Giêsu Kitô” (Pl 2:21). Hành động này có nhiều hình thức tuỳ theo mỗi loại người hay nhóm người mà nó ngấm vào.Vì nó dựa trên những vẻ bề ngoài được trau chuốt cẩn thận, bề ngoài nó không có vẻ gì là tội lội; từ ngoài nhìn vào, mọi sự đều nghiêm túc. Nhưng nếu nó ngấm vào Hội Thánh, “nó sẽ vô vàn tai hại hơn bất cứ thái độ thế tục nào chỉ mang tính chất đạo đức”[71]


94. Tính thế tục này có thể gia tăng bằng hai cách có liên hệ mật thiết với nhau. Một là sự hấp dẫn của thuyết ngộ đạo, một đức tin thuần tuý chủ quan chỉ quan tâm duy nhất tới một kinh nghiệm nào đó hay một tập hợp các ý niệm và các thông tin có mục đích an ủi và soi sáng, nhưng rốt cuộc nó giam hãm một cá nhân trong các tư tưởng và tình cảm của mình. Hai là thuyết tân-Pêlagiô mang tính tự phụ của những người ỷ vào sức riêng của mình và coi mình hơn những người khác vì biết được một số qui luật hoặc trung thành một cách cố chấp với một kiểu công giáo đặc thù của quá khứ. Một sự đúng đắn được họ giả định về học thuyết hay kỷ luật làm phát sinh một chủ nghĩa tinh tuý tự mãn và chuyên chế, theo đó người ta phân tích xếp loại những người khác thay vì loan báo Tin Mừng,, và thay vì mở cửa ân sủng ra, người ta tiêu hao sức lực vào việc tra xét và kiểm chứng. Trong cả hai trường hợp, người ta không thực sự quan tâm tới Đức Kitô hay người khác. Đây là những biểu hiện của một thái độ tự tại lấy con người làm trung tâm. Không thể nghĩ rằng một động lực loan báo Tin Mừng đích thực có thể phát sinh từ những hình thức biến chất này của Kitô giáo.
95. Tính thế tục nguy hiểm này được thấy rõ trong một số thái độ có vẻ đối chọi nhau nhưng tất cả đều mang một thái độ tự phụ muốn “giành quyền kiểm soát của Hội Thánh”. Nơi một số người, chúng ta thấy một sự quan tâm phô trương đối với phụng vụ, giáo lý hay uy tín của Hội Thánh, nhưng không hề lo cho Tin Mừng có một tác động thực sự đối với các tín hữu và các nhu cầu cụ thể của thời đại. Theo cách này, đời sống của Hội Thánh bị biến thành một cổ vật trong viện bảo tàng hay một vật thuộc sở hữu của một nhóm ưu tú. Nơi những người khác, tính thế tục này ẩn nấp bên dưới vẻ hào nhoáng của lợi lộc xã hội và chính trị, hay dưới sự kiêu căng vì họ có khả năng xử lý các vấn đề thực tế, hay một sự say mê đối với các chương trình tự lực và tự thể hiện mình. Tính thế tục cũng có thể được biểu hiện bằng việc muốn được người khác để ý tới, xuất hiện với đủ vẻ sang trọng trong đời sống xã hội, trong các buổi gặp gỡ, tiệc tùng và tiếp tân. Nó cũng có thể dẫn tới một não trạng doanh nghiệp, luôn bận bịu với các công việc quản lý, các vấn đề thống kê, kế hoạch và đánh giá mà lợi ích chính không phải là dân Chúa mà là Giáo Hội được nhìn như là một tổ chức. Không hề có dấu ấn của Đức Kitô nhập thể, chịu đóng đinh và phục sinh; các nhóm ưu tú khép kín được hình thành, và không có cố gắng nào để đi ra bên ngoài tìm kiếm những người còn xa cách hay đám quần chúng bao la đang khát Đức Kitô. Nhiệt huyết Tin Mừng bị thay thế bằng sự hưởng thụ trống rỗng tính tự mãn và buông thả.
96. Lối suy nghĩ này cũng nuôi dưỡng thói háo danh của những người có chút ít quyền lực và thà làm tướng của một đạo quân thất trận hơn chỉ là người lính quèn vẫn tiếp tục chiến đấu. Biết bao lần chúng ta mơ mộng những dự án tông đồ to tát, được lên kế hoạch tỉ mỉ, không khác gì những ông tướng bại trận! Nhưng suy nghĩ như thế là chối bỏ lịch sử của chúng ta như một Hội Thánh mà vinh quang của nó chính là vì nó là một lịch sử của hi sinh, của hi vọng và các phấn đấu hằng ngày, lịch sử của những cuộc đời tiêu hao vì phục vụ và trung thành với công việc, dù có thể mệt mỏi, bởi vì mọi lao động đều là “mồ hôi nước mắt”. Ngược lại, chúng ta phí phạm thời giờ để bàn luận về việc “cần phải làm gì”—tiếng Tây Ban Nha gọi là tội “habria-queísmo”—giống như những thầy dạy linh đạo và những chuyên gia mục vụ đứng trên bục cao để giảng dạy. Chúng ta để mình bị cuốn theo những ảo mộng và mất tiếp xúc với những mảnh đời thực và những khó khăn của dân chúng.
97. Những người đã từng rơi vào thái độ thế tục này thường nhìn từ trên cao và từ đàng xa, họ phủ nhận những lời tiên tri của các anh chị em của họ, họ coi nhẹ tính khả tín của những ai đặt câu hỏi, họ không ngừng vạch lá tìm sâu và bị ám ảnh bởi những vẻ bề ngoài. Tâm hồn họ chỉ mở ra với chân trời hạn hẹp của tính tự tại và tư lợi của họ, và hậu quả là họ chẳng học được gì từ những tội lỗi của họ hay thực sự muốn đón nhận ơn tha thứ. Đây là một sự sa đoạ nguỵ trang dưới lớp vỏ của một điều thiện. Chúng ta cần tránh nó bằng cách làm cho Hội Thánh luôn luôn ra khỏi chính mình, qui hướng việc truyền giáo của mình vào Đức Kitô, và dấn thân cho người nghèo. Xin Chúa cứu chúng ta khỏi một Hội Thánh thế tục với những cạm bẫy của hoạt động thiêng liêng và mục vụ bề ngoài! Tính thế tục ngột ngạt này chỉ có thể được chữa lành bằng việc hít thở không khí trong lành của Chúa Thánh Thần, Đấng giải thoát chúng ta khỏi tính vị kỷ trong bộ áo đạo đức bề ngoài mà không có Thiên Chúa. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất Tin Mừng!

Nói không với việc tranh chấp lẫn nhau


98. Biết bao cuộc chiến diễn ra trong nội bộ Dân Chúa và trong các cộng đồng của chúng ta! Trong khu vực sinh sống và nơi làm việc của chúng ta, biết bao cuộc chiến xảy ra do ghen ghét và đố kỵ, ngay cả giữa những người Kitô hữu với nhau! Tính thế tục thiêng liêng khiến người Kitô hữu gây chiến với những người Kitô hữu khác cản trở con đường tìm kiếm quyền lực, uy tín, thú vui và an toàn kinh tế. Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một “phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.
99. Thế giới chúng ta đang bị xâu xé bởi chiến tranh và bạo lực, và bị thương tổn vì một chủ nghĩa cá nhân lan rộng chia rẽ người ta với nhau, khiến họ chống đối lẫn nhau khi đi tìm lợi ích riêng của mình. Tại nhiều nước, các xung đột và các mối chia rẽ cũ trong quá khứ nay xuất hiện trở lại. Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đồng trên khắp thế giới cống hiến một chứng tá rực sáng và hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ. Hãy làm cho mọi người thán phục vì anh chị em chăm lo cho nhau, khích lệ và nâng đỡ lẫn nhau: “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:35). Đây là lời cầu nguyện cảm động của Đức Giêsu: “Xin cho tất cả nên một... trong chúng ta... để thế gian tin...” (Ga 17:21). Hãy cảnh giác trýớc cám dỗ của sự ðố kỵ! Tất cả chúng ta cùng trên một con thuyền hýớng về cùng một bến bờ! Chúng ta hãy xin ơn vui mừng vì các ân điển của mỗi người, chúng thuộc về mọi người.
100. Những người bị tổn thương vì các mối chia rẽ trong lịch sử thường cảm thấy khó chấp nhận lời mời gọi tha thứ và hoà giải của chúng ta, vì họ nghĩ chúng ta làm ngơ trước đau khổ của họ và muốn họ từ bỏ ký ức và các lý tưởng của họ. Nhưng nếu họ thấy chứng tá của các cộng đoàn có tình huynh đệ và hoà giải thực sự, họ sẽ thấy rằng chứng tá ấy sáng ngời và hấp dẫn. Tôi rất đau lòng khi thấy một số cộng đoàn Kitô hữu, thậm chí cả những người thánh hiến, có thể dung dưỡng những hình thức thù nghịch, chia rẽ, vu khống, nói xấu, oán thù, đố kỵ và ước muốn áp đặt một số ý tưởng bằng bất cứ giá nào, thậm chí bằng các hành động bách hại giống như những cuộc săn lùng phù thuỷ thực sự. Chúng ta sẽ rao giảng Tin Mừng cho ai nếu chúng ta hành động theo cách này?
101. Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu luật yêu thương. Tốt biết bao khi có luật này! Ích lợi biết bao vì nó làm chúng ta thương yêu nhau, bất chấp tất cả. Phải, bất chấp tất cả. Lời khuyên nhủ của Thánh Phaolô nhắm vào mỗi người chúng ta: “Ðừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:21). Và một lời nữa: “Khi làm điều thiện, chúng ta đừng nản chí” (Gl 6:9). Tất cả chúng ta đều có những cái ưa cái ghét, và có lẽ ngay lúc này chúng ta đang tức giận với một ai đó. Ít ra chúng ta hãy thưa cùng Chúa: “Chúa ơi, con đang giận người này, người kia. Con cầu nguyện cùng Chúa cho ông ấy, bà ấy”. Cầu nguyện cho một người mà ta tức giận là một bước rất đẹp tiến tới tình yêu, và là một hành vi loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy làm điều đó hôm nay! Chúng ta đừng để mình bị cướp mát lý tưởng tình yêu huynh đệ!
Các thách thức khác cho Hội Thánh

102. Giáo dân rõ ràng là thành phần ðại ða số của Dân Chúa. Thành phần thiểu số—các thừa tác viên có chức thánh—là ðể phục vụ giáo dân. Ngày càng có một sự ý thức nhiều hơn về căn tính và sứ mạng của giáo dân trong Hội Thánh. Chúng ta có thể cậy dựa vào nhiều giáo dân, tuy hầu như vẫn chưa đủ, là những người có một ý thức cộng đoàn sâu xa và một sự trung thành lớn lao đối với các công việc bác ái, dạy giáo lý và cổ vũ đức tin. Nhưng đồng thời, không phải ở mọi nơi đều có một sự ý thức rõ ràng về trách nhiệm này của giáo dân, ăn rễ sâu trong phép rửa tội và thêm sức của họ như thế. Trong một số trường hợp, lý do là vì người giáo dân đã không được cung cấp một sự đào luyện cần thiết để đảm đương những trách nhiệm quan trọng. Trong những trường hợp khác, lý do là vì trong các giáo hội địa phương của họ, người ta đã không dành chỗ để họ lên tiếng và hành động, do một chủ trương giáo sĩ trị thái quá khiến họ không được tham gia vào việc làm các quyết định. Dù rằng nhiều người nay đã tham gia vào các thừa tác vụ giáo dân, sự tham gia này không phản ánh một sự xâm nhập sâu xa hơn các giá trị Kitô giáo vào các lãnh vực xã hội, kinh tế và chính trị. Nó thường vẫn chỉ bó gọn vào các công việc trong nội bộ Hội Thánh, mà không có một sự dấn thân thực sự để đem Tin Mừng làm biến đổi xã hội. Sự đào luyện của giáo dân và việc phúc âm hoá đời sống nghề nghiệp và tri thức là một thách thức mục vụ quan trọng.


103. Hội Thánh nhìn nhận sự đóng góp không thể thiếu của phụ nữ cho xã hội nhờ sự nhậy cảm, trực giác và các năng khiếu đặc trưng mà họ có, nhiều hơn đàn ông. Tôi nghĩ, ví dụ như phụ nữ thường có mối quan tâm đặc biệt đối với những người khác, được biểu hiện cách đặc biệt, tuy không phải là biểu hiện duy nhất, trong tình mẫu tử. Tôi vui mừng nhìn nhận rằng các phụ nữ đang chia sẻ trách nhiệm với các linh mục, giúp họ hướng dẫn dân chúng, các gia đình và các nhóm, và có nhiều đóng góp mới cho suy tư thần học. Nhưng chúng ta cần tạo ra nhiều cơ hội hơn nữa để có sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ trong Hội Thánh. Bởi vì “tài năng thiên phú của nữ giới là cần thiết trong mọi biểu hiện trong đời sống xã hội, sự hiện diện của phụ nữ cũng phải được bảo đảm tại nơi làm việc”[72] và trong các khung cảnh khác nhau trong đó các quyết định được đề ra, cả trong Hội Thánh và trong các cơ cấu xã hội.
104. Các đòi hỏi rằng các quyền hợp pháp của phụ nữ phải được tôn trọng, dựa trên sự xác tín vững vàng rằng người nam và người nữ bình đẳng với nhau về phẩm giá, đang đặt ra cho Hội Thánh những vấn đề sâu xa và thách thức mà chúng ta không thể coi nhẹ và lẩn tránh. Việc chức linh mục được dành riêng cho nam giới, như một dấu chỉ Đức Kitô là Phu Quân hiến mình trong bí tích Thánh Thể, là vấn đề không thể bàn cãi, nhưng nó có thể tỏ ra gây chia rẽ đặc biệt nếu quyền năng của bí tích bị đồng hoá với quyền năng nói chung. Phải nhớ rằng khi nói về quyền năng bí tích “chúng ta đang ở trong lãnh vực chức năng hoạt động, chứ không phải lãnh vực phẩm giá hay sự thánh thiện”.[73] Chức tư tế thừa tác là phương tiện Chúa Giêsu dùng để phục vụ dân Ngài, nhưng phẩm giá cao cả của chúng ta bắt nguồn từ phép rửa tội mà mọi người có thể lãnh nhận. Việc đồng hoá người linh mục với Đức Kitô là đầu—nghĩa là nguồn mạch chính của ân sủng—không có nghĩa là đặt người linh mục lên trên những người khác. Trong Hội Thánh, các chức vụ “không đặt một số người lên địa vị cao hơn những người khác”.[74] Trên thực tế, Đức Maria là một phụ nữ nhưng quan trọng hơn các giám mục. Thậm chí khi chức năng của chức linh mục thừa tác được coi là thuộc “phẩm trật”, ta vẫn phải nhớ rằng “nó hoàn toàn được qui hướng về sự thánh thiện của các chi thể của Đức Kitô”.[75] Chìa khoá và trục của chức năng này không phải là quyền lực hiểu như là sự thống trị, nhưng là quyền lực để cử hành bí tích Thánh Thể; đây là nguồn gốc quyền bính của chức linh mục, đó luôn luôn là một sự phục vụ Dân Chúa. Hiểu như thế, đây là một thách thức lớn cho các mục tử và các nhà thần học, những người có điều kiện thích hợp để nhận ra đầy đủ hơn điều này bao gồm những yếu tố gì liên quan tới vai trò mà người phụ nữ có thể đóng trong việc làm các quyết định trong các lãnh vực khác nhau của đời sống Hội Thánh.
105. Thừa tác vụ giới trẻ, như được tổ chức theo truyền thống, cũng đã chịu tác động bởi các thay đổi xã hội. Giới trẻ thường không thể tìm thấy những giải đáp cho các mối quan tâm, nhu cầu, vấn đề và các thương tổn của họ trong các cơ cấu bình thường. Là người lớn, chúng ta cảm thấy khó kiên nhẫn lắng nghe họ, trân trọng các mối quan tâm và đòi hỏi của họ, và nói với họ bằng một ngôn ngữ họ có thể hiểu. Cùng một lý do ấy, các cố gắng của chúng ta trong lãnh vực giáo dục không tạo ra những kết quả mong muốn. Sự xuất hiện và phát triển của các hiệp hội và các phong trào mà đa phần là giới trẻ có thể được nhìn như là công trình của Chúa Thánh Thần, Đấng mở ra những lối đi mới để đáp ứng các mong đợi của họ và cuộc tìm kiếm một đời sống thiêng liêng sâu xa và một ý thức thực tế hơn về tư cách thuộc về. Tuy nhiên vẫn cần bảo đảm rằng các hiệp hội này tham gia một cách tích cực vào các cố gắng mục vụ toàn thể của Hội Thánh.[76]
106. Mặc dù không phải luôn luôn dễ tiếp cận giới trẻ, nhưng chúng ta đã có tiến bộ trong hai lãnh vực: sự ý thức mà toàn thể cộng đồng được kêu gọi loan báo Tin Mừng và giáo dục cho giới trẻ, và nhu cầu cấp bách để giới trẻ thực thi vai trò lãnh đạo nhiều hơn. Chúng ta phải nhìn nhận rằng bất chấp cơn khủng hoảng hiện nay về dấn thân và các mối quan hệ cộng đồng, nhiều người trẻ đang chia sẻ mối quan tâm chung về các vấn đề của thế giới chúng ta và đang thực hiện những hình thức khác nhau trong việc cổ động tích cực và hoạt động tình nguyện.
107. Nhiều nơi đang trải qua một tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đây thường là do thiếu một nhiệt tình tông đồ có sức lan toả trong các cộng đồng, dẫn đến sự nguội lạnh của niềm phấn khởi và sức hấp dẫn. Ở đâu có sự sống, nhiệt tình và ước muốn đem Đức Kitô đến cho người khác, ở đó sẽ xuất hiện các ơn gọi đích thực. Thậm chí tại những giáo xứ mà các linh mục không đặc biệt dấn thân và vui vẻ, đời sống huynh đệ và nhiệt tình của cộng đồng có thể đánh thức nơi giới trẻ một ước muốn hiến mình hoàn toàn cho Thiên Chúa và cho việc rao giảng Tin Mừng. Điều này đặc biệt đúng nếu một cộng đồng sinh động như thế liên lỷ cầu nguyện cho các ơn gọi và can đảm đề nghị cho những người trẻ của mình con đường thánh hiến đặc biệt. Mặt khác, bất chấp tình trạng thiếu ơn gọi, ngày nay chúng ta ngày càng ý thức hơn về nhu cầu có một qui trình tuyển lựa các ứng sinh cho chức linh mục. Các chủng viện không thể tiếp nhận các ứng sinh căn cứ vào bất cứ động cơ nào, đặc biệt nếu các động cơ ấy liên quan tới sự an toàn tình cảm hay sự theo đuổi quyền lực, danh vọng hay của cải.
108. Như đã nói trên kia, tôi không có ý cung cấp một bản chẩn đoán đầy đủ, nhưng tôi mời gọi các cộng đồng bổ sung và làm giàu những quan điểm này trên cơ sở ý thức của họ về những thách thức đang đặt ra trước mặt họ và những người xung quanh. Bằng cách này, tôi hi vọng họ sẽ nhận ra rằng mỗi khi đọc những dấu chỉ của thời đại, chúng ta nên nghe ý kiến của những người trẻ và những người già. Cả hai hạng người này là một nguồn hi vọng cho mọi người. Người già cống hiến những ký ức và sự khôn ngoan của kinh nghiệm để cảnh giác chúng ta tránh lặp lại những lỗi lầm của chúng ta trong quá khứ. Người trẻ kêu gọi chúng ta đổi mới và mở rộng niềm hi vọng, vì họ biểu thị những hướng đi mới cho loài người và mời gọi chúng ta hướng tới tương lai, để chúng ta khỏi bám víu vào một sự tiếc nuối những cơ cấu và những tập quán cũ không còn đem lại sức sống cho thế giới hôm nay.
109. Các thách thức xuất hiện là để bị vượt qua! Chúng ta hãy là những con người thực tế, nhưng không để mất niềm vui, sự táo bạo và sự dấn thân trong hi vọng tràn trề của chúng ta. Đừng để mình bị cướp mất nhuệ khí truyền giáo.


Каталог: mfiles -> data

tải về 0.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương