Niềm vui của Tin Mừng



tải về 0.79 Mb.
trang17/17
Chuyển đổi dữ liệu10.09.2016
Kích0.79 Mb.
#31956
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

CHÚ THÍCH


[1] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Gaudete in Domino (9-5-1975), 22: AAS 67 (1975), 297.

[2] Ibid. 8: AAS 67 (1975), 292.

[3] Thông Điệp Deus Caritas Est (25-12-2005), 1: AAS 98 (2006), 217.

[4] ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện Aparecida, 29-6-2007, 360.

[5] Ibid.

[6] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 80: AAS 68 (1976), 75.

[7] Spiritual Canticle, 36, 10.

[8] Adversus Haereses, IV, c. 34, n. 1: PG 7, pars prior, 1083: “Omnem novitatem attulit, semetipsum afferens”.

[9] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 7: AAS 68 (1976), 9.

[10] Cf. Propositio 7.

[11] BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Bế Mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục (28-10-2012): AAS 104 (2102), 890.

[12] Ibid.

[13] BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Khai Mạc Đại Hội Lần Thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribê (13-5-2007), Aparecida, Brazil: AAS 99 (2007), 437.

[14] Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990), 34: AAS 83 (1991), 280.

[15] Ibid., 40: AAS 83 (1991), 287.

[16] Ibid., 86: AAS 83 (1991), 333.

[17] ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện Aparecida, 29-6-2007, 548.

[18] Ibid., 370.

[19] Cf. Propositio 1.

[20] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), 32: AAS 81 (1989) 451.

[21] ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện Aparecida, 29-6-2007, 201.

[22] Ibid., 551.

[23] PHAOLÔ VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam (6-8-1964), 9, 10, 11: AAS 56 (1964), 611-612.

[24] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, 6.

[25] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001), 19: AAS 94 (2002), 390.

[26] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), 26: AAS 81 (1989), 438.

[27] Cf. Propositio 26.

[28] Cf. Propositio 44.

[29] Cf. Propositio 26.

[30] Cf. Propositio 41.

[31] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ của Giám Mục Christus Dominus, 11.

[32] Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ nhân Kỷ Niệm 40 Năm Sắc Lệnh Ad Gentes (11-3-2006): AAS 98 (2006), 337.

[33] Cf. Propositio 42.

[34] Cf. Giáo Luật 460-468; 492-502; 511-514; 536-537.

[35] Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 95: AAS 87 (1995), 977-978.

[36] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 23.

[37] GIOAN PHAOLÔ II, Tự Sắc Apostolos Suos (21-5-1998): AAS 90 (1998), 641-658.

[38] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, 11.

[39] Cf. S. Th., I-II, q. 66, a. 4-6.

[40] S. Th., I-II, q. 108, a. 1.

[41] “Chúng ta thờ phương Thiên Chúa không phải bằng những lễ vật hay những quà tặng vật chất cho Người, nhưng đúng hơn là cho chúng ta và cho tha nhân. Thiên Chúa không cần các lễ vật của chúng ta, nhưng Người đòi chúng ta dâng những lễ vật ấy để tôn thờ Người và để mang lại lợi ích cho anh chị em chúng ta. Đối với Người, lòng thương xót là lễ vật đẹp lòng Chúa nhất, vì nó có sức khắc phục các khiếm khuyết trong việc tôn thờ và trong lễ vật của chúng ta, và vì hơn tất cả các thứ khác, lòng thương xót t́m kiếm lợi ích cho đồng loại của chúng ta” (S. Th., II-II, q. 30, a. 4, ad 1).

[42] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Mặc Khải Dei Verbum, 12.

[43] Tự Sắc Socialium Scientiarum (1-1-1994): AAS 86 (1994), 209.

[44] Thánh Tôma Aquinô cắt nghĩa rằng số lượng lớn các tạo vật và sự đa dạng của chúng “là ý muốn của tác nhân đệ nhất”, Người muốn rằng “cái gì mà một cá thể còn thiếu để phản chiếu sự tốt lành của Thượng Đế thì được bù lại bởi các cá thể khác”, vì sự tốt lành của Tạo Hoá “không thể được phản chiếu đầy đủ bởi chỉ một tạo vật mà thôi” (S. Th., I, q. 47, a. 1). Vì vậy chúng ta cần hiểu rõ sự đa dạng của các chủng loại trong các mối liên hệ của chúng với nhau (cf. S. Th., I, q. 47, a. 2, ad 1; q. 47, a. 3). Tương tự, chúng ta cần lắng nghe và bổ sung cho nhau trong nhận thức cục bộ của chúng ta về thực tại và về Tin Mừng.

[45] GIOAN XXIII, Diễn từ Khai Mạc Công Đồng Vaticanô II (11-10-1962): AAS 54 (1962), 792: “Est enim aliud ipsum depositum fidei, seu veritates, quae veneranda doctrina nostra continentur, aliud modus, quo eaedem enuntiantur”.

[46] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Ut Unum Sint (25-5-1995), 19: AAS 87 (1995), 933.

[47] S. Th., I-II, q. 107, a. 4.

[48] Ibid.

[49] Số 1735

[50] Cf. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Familiaris Consortio (22-11-1981), 34: AAS 74 (1982), 123.

[51] Cf. THÁNH AMBROSIÔ, De Sacramentis, IV, 6, 28: PL 16, 464: “Tôi phải luôn luôn lãnh nhận bí tích này để được tha thứ tội lỗi. Nếu tôi liên tục phạm tội, tôi phải có thuốc chữa”; ID., op. cit., IV, 5, 24: PL 16, 463: “Những người ăn manna đều đã chết; những ai ăn thánh thể này sẽ được ơn tha các tội của họ” ; SAINT CYRIL OF ALEXANDRIA, In Joh. Evang., IV, 2: PG 73, 584-585: “Tôi xét mình và thấy mình bất xứng. Với những người nói như vậy, tôi nói: Vậy khi nào bạn sẽ xứng đáng? Khi cuối cùng bạn ra trình diện trước toà Chúa Kitô ư? Vậy nếu các tội lỗi ngăn cản bạn không đến gần [Ngài] và bạn không bao giờ ngưng phạm tội—vì như Thánh Vịnh nói, ‘nào ai biết lỗi của mình?’—bạn sẽ tiếp tục không dự phần vào ơn thánh hoá ban sự sống đời đời sao?”

[52] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho các Giám Mục Brazil tại Nhà Thờ Chính Toà São Paolo, (11-5-2007), 3: AAS 99 (2007), 428.

[53] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992), 10: AAS 84 (1992), 673.

[54] PHAOLÔ VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam (6-11-1964), 19: AAS 56 (1964), 609.

[55] THÁNH GIOAN CHRYSOSTOMÔ, De Lazaro Concio, II, 6: PG 48, 992D.

[56] Cf. Propositio 13.

[57] GIOAN PHAOLÔ, Tông Huấn Ecclesia in Africa (11-9-1995), 52: AAS 88 (1996), 32-33; ID.,Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis (30 December 1987), 22: AAS 80 (1988), 539.

[58] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Ecclesia in Asia (11-11-1999), 7: AAS 92 (2000), 458.

[59] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO HOA KỲ, “Mục vụ cho những người có xu hướng đồng tính luyến ái: Hướng dẫn chăm sóc mục vụ” (2006), 17.

[60] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC PHÁP, “Tư Vấn Gia Đình và Xã Hội, Mở rộng hôn nhân cho những người đồng giới? Hãy mở cuộc tranh luận!” (28-9-2012).

[61] Cf. Propositio 25.

[62] CÔNG GIÁO TIẾN HÀNH Ý, “Sứ Điệp của Đại Hội Toàn Quốc Gửi Giáo Hội và Tổ Quốc” (8-5-2011).

[63] J. RATZINGER, The Current Situation of Faith and Theology. Giảng huấn tại Hội nghị các Chủ Tịch các Uỷ Ban Giám Mục Châu Mỹ Latinh về Giáo Lý Đức Tin, Guadalajara, Mexico, 1996. Bản dịch tiếng Anh trong L’Osservatore Romano, Ấn bản tiếng Anh, 6-12-1996. Cf. ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn kiện Aparecida, 29-6-2007, 12.

[64] G. BERNANOS, Journal d’un curé de campagne, Paris, 1974, 135.

[65] Diễn từ Khai mạc Công Đồng Vaticanô II (11-10-1962): 4, 2-4: AAS 54 (1962), 789.

[66] J.H. NEWMAN, Thư ngày 26-1-1833, trong The Letters and Diaries of John Henry Newman, vol. III, Oxford 1979, 204.

[67] BÊNÊĐICTÔ XVI, Bài giảng Thánh Lễ Khai mạc Năm Đức Tin (11-10-2012): AAS 104 (2012), 881.

[68] THOMAS À KEMPIS, De Imitatione Christi, Lib. I, IX, 5: . “Imaginatio locorum et mutatio multos fefellit” (“Dreaming of different places, and moving from one to another, has misled many”).

[69] Chúng ta có thể học được từ chứng từ của Thánh Têrêsa Lisieux khi ngài kể về một chị nữ tu kia rất khó tính nhưng một trải nghiệm nội tâm đã có một tác động quyết định đối với chị ấy: “Một chiều mùa đông tôi đang làm công tác thường xuyên của mình. Trời lạnh và tối dần... Thình lình tôi nghe từ đàng xa những tiếng đàn nhạc nhịp nhàng. Tôi bắt đầu tưởng tượng ra một căn phòng thắp sáng, dát vàng, và trong phòng có các quí bà còn trẻ ăn mặc lịch lãm đang trao đổi cho nhau những lời tâng bốc xã giao. Rồi tôi nhìn sang người phụ nữ nghèo bị bệnh mà tôi đang chăm sóc. Thay vì tiếng nhạc du dương, tôi nghe thấy tiếng bà rên rỉ và than thở... Tôi không thể diễn tả nổi điều gì đang xảy ra trong tâm hồn mình. Tôi chỉ biết rằng Chúa đã soi sáng tâm hồn tôi bằng những tia sáng chân lý vượt quá sự hào nhoáng phù du của những thú vui trần thế, khiến tôi khó có thể tin vào niềm hạnh phúc của mình” (Ms. C, 29v-30r, in Oeuvres Complètes, Paris, 1992, 274-275).

[70] Cf. Propositio 8.

[71] H. DE LUBAC, Méditation sur l’Église, Paris, 1968, 321.

[72] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 295.

[73] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), 51: AAS 81 (1989), 413.

[74] THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Tuyên Bố Inter Insigniores về Vấn đề chấp nhận phụ nữ vào chức linh mục thừa tác (15-10-1976): AAS 68 (1977) 115, dẫn trong GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), chú thích 190: AAS 81 (1989), 493.

[75] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Mulieris Dignitatem (15-8-1988), 27: AAS 80 (1988), 1718.

[76] Cf. Propositio 51.

[77] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999), 19: AAS 92 (2000), 478.

[78] Ibid., 2: AAS 92 (2000), 451.

[79] Cf. Propositio 4.

[80] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 1.

[81] Bài Suy Niệm trong Phiên Họp Chung I tại Hội Nghị Thường Kỳ XIII của Thượng Hội Đồng Giám Mục (8-10-2012): AAS 104 (2012), 897.

[82] Cf. Propositio 6; CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Vụ về Hội Thánh trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium Spes, 22.

[83] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 9.

[84] Cf. ĐẠI HỘI LẦN THỨ III CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ,Văn Kiện Puebla, 23-3-1979, Nos. 386-387.

[85] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Vụ về Hội Thánh trong Thế Giới Hôm Nay Gaudium Spes, 36.

[86] Ibid., 25.

[87] Ibid., 53.

[88] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001), 40: AAS 93 (2001), 295.

[89] Ibid.

[90] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990), 52: AAS 83 (1991), 300; cf. Tông Huấn Catechesi Tradendae (16 October 1979) 53: AAS 71 (1979), 1321.

[91] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001), 16: AAS 94 (2002), 383.

[92] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Africa (14-9-1995), 61: AAS 88 (1996), 39.

[93] THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th. I, q. 39, a. 8 cons. 2: “Nếu không có Chúa Thánh Thần là sợi dây nối kết cả hai, chúng ta không thể hiểu được sự hiệp nhất liên kết giữa Cha và Con”; cf. I, q. 37, a. 1, ad 3.

[94] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Oceania (22-11-2001), 17: AAS 94 (2002), 385.

[95] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999), 20: AAS 92 (2000), 478-482.

[96] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 12.

[97] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Fides et Ratio (14-9-1998), 71: AAS 91 (1999), 60.

[98] ĐẠI HỘI LẦN THỨ III CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện Puebla, 23-3-1979, 450; cf. ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện Aparecida, 29-6-2007, 264.

[99] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999), 21: AAS 92 (2000), 482-484.

[100] Số 48: AAS 68 (1976), 38.

[101] Ibid.

[102] Diễn từ Khai Mạc Đại Hội Lần Thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribê (13-5-2007), 1: AAS 90 (2007), 446.

[103] ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ, Văn Kiện Aparecida, 29-6-2007, 262.

[104] Ibid., 263

[105] Cf. THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th., II-II, q. 2, a. 2.

[106] ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ,Văn Kiện Aparecida, 29-6-2007, 264.

[107] Ibid.

[108] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 12.

[109] Cf. Propositio 17.

[110] Cf. Propositio 30.

[111] Cf. Propositio 27.

[112] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Dies Domini (31 May 1998), 41: AAS 90 (1998), 738-739.

[113] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 78: AAS 68 (1976), 71.

[114] Ibid.

[115] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992), 26: AAS 84 (1992), 698.

[116] Ibid., 25: AAS 84 (1992), 696.

[117] THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th. II-II, q. 188, a. 6.

[118] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 76: AAS 68 (1976), 68.

[119] Ibid., 75: AAS 68 (1976), 65.

[120] Ibid., 63: AAS 68 (1976), 53

[121] Ibid., 43: AAS 68 (1976), 33

[122] Ibid.

[123] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992), 10: AAS 84 (1992), 672.

[124] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 40: AAS 68 (1976), 31.

[125] Ibid., 43: AAS 68 (1976), 33.

[126] Cf. Propositio 9.

[127] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Pastores Dabo Vobis (25-3-1992), 26: AAS 84 (1992), 698.

[128] Cf. Propositio 38.

[129] Cf. Propositio 20.

[130] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Phương Tiện Truyền Thông Inter Mirifica, 6.

[131] Cf. De Musica, VI, 13, 38: PL 32, 1183-1184; Confessiones, IV, 13.20: PL 32, 701.

[132] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho buổi trình chiếu phim tài liệu “Art and Faith”—Via Pulchritudinis (25-10-2012): L’Osservatore Romano (27-10-2012), 7.

[133] S. Th., I-II, q. 65, a. 3, ad 2: “propter aliquas dispositiones contrarias”.

[134] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Asia (6-11-1999), 20: AAS 92 (2000), 481.

[135] BÊNÊĐICTÔ XVI , Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini (30-9-2010), 1: AAS 102 (2010), 682.

[136] Cf. Propositio 11.

[137] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Mặc Khải Dei Verbum, 21-22.

[138] Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Verbum Domini (30-9-2010), 86-87: AAS 102 (2010), 757-760.

[139] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ trong Hội Nghị Khoáng Đại Lần Thứ Nhất của Thượng Hội Đồng Giám Mục (8-10-2012): AAS 104 (2012), 896.

[140] PHAOLÔ VI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Evangelii Nuntiandi (8-12-1975), 17: AAS 68 (1976), 17.

[141] GIOAN PHAOLÔ II, Sứ Điệp cho Người Khuyết Tật, Angelus (16-11-1980): Insegnamenti, 3/2 (1980), 1232.

[142] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 52.

[143] GIOAN PHAOLÔ II, Catechesis (24 April 1991): Insegnamenti, 14/1 (1991), 853.

[144] BÊNÊĐICTÔ XVI, Tự Sắc Intima Ecclesiae Natura (11-11-2012): AAS 104 (2012), 996.

[145] Thông Điệp Populorum Progressio (16-3-1967), 14: AAS 59 (1967), 264.

[146] PHAOLÔ VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi (8-12-1075), 29: AAS 68 (1976), 25.

[147] ĐẠI HỘI LẦN THỨ V CỦA CÁC GIÁM MỤC CHÂU MỸ LATINH VÀ CARIBÊ,Văn Kiện Aparecida, 29-6-June 2007, 380.

[148] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 9.

[149] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in America (22-1-1999), 27: AAS 91 (1999), 762.

[150] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est (25-12-2005), 28: AAS 98 (2006), 239-240.

[151] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 12.

[152] Tông Thư Octogesima Adveniens (14-5-1971), 4: AAS 63 (1971), 403.

[153] THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Libertatis Nuntius (6-8-1984), XI, 1: AAS 76 (1984), 903.

[154] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 157.

[155] PHAOLÔ VI, Tông Thư Octogesima Adveniens (14-5-1971), 23: AAS 63 (1971), 418.

[156] PHAOLÔ VI, Thông Điệp Populorum Progressio (26-3-1967), 65: AAS 59 (1967), 289.

[157] Ibid., 15: AAS 59 (1967), 265.

[158] CONFERÊNCIA NACIONAL DOS BISPOS DO BRAZIL, Exigências evangélicas e éticas de superação da miséria e da fome (April 2002), Introduction, 2.

[159] GIOAN XXIII, Thông Điệp Mater et Magistra (15-5-1961), 3: AAS 53 (1961), 402.

[160] THÁNH AUGUSTINÔ, De Catechizandis Rudibus, I, XIX, 22: PL 40, 327.

[161] THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Libertatis Nuntius (6-8-1984), XI, 18: AAS 76 (1984), 907-908.

[162] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Centesimus Annus (1-5-1991), 41: AAS 83 (1991), 844-845.

[163] GIOAN PHAOLÔ II, Bài giảng trong Thánh Lễ cầu cho việc Loan Báo Tin Mừng cho các Dân Tộc tại Santo Domingo (11-10-1984), 5: AAS 77 (1985), 358.

[164] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis (30-12-1987), 42: AAS 80 (1988), 572.

[165] Diễn từ tại Phiên Khai Mạc Hội Nghị Khoáng Đại Lần Thứ V của các Giám Mục Châu Mỹ Latinh và Caribê (13-5-2007), 3: AAS 99 (2007), 450.

[166] THÁNH TÔMA AQUINÔ, S. Th., II-II, q. 27, a. 2.

[167] Ibid., I-II, q. 110, a. 1.

[168] Ibid., I-II, q. 26, a. 3.

[169] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001), 50: AAS 93 (2001), 303.

[170] Ibid.

[171] Cf. Propositio 45.

[172] THÁNH BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN, Huấn Thị Libertatis Nuntius (6-8-1984), XI, 18: AAS 76 (1984), 908.

[173] Cố gắng này bao gồm sự dấn thân nhằm “loại trừ các nguyên nhân thuộc cơ chế khiến cho kinh tế toàn cầu không hoạt động tốt”: BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho Ngoại Giao Đoàn (8-1-2007): AAS 99 (2007), 73.

[174] Cf. UỶ BAN XÃ HỘI CỦA HĐGM PHÁP, Réhabiliter la politique (17-2-1999); cf. PIUS XI, Message of 18-12-1927.

[175] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Caritas in Veritate (29-6-2009), 2: AAS 101 (2009), 642.

[176] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Christifideles Laici (30-12-1988), 37: AAS 81 (1989), 461.

[177] Cf. Propositio 56.

[178] HĐGM CÔNG GIÁO PHILÍPPIN, Thư Mục Vụ What is Happening to our Beautiful Land? (29-1-1988).

[179] PHAOLÔ VI, Thông Điệp Populorum Progressio (26-3-1967), 76: AAS 59 (1967), 294-295.

[180] HĐGM CÔNG GIÁO HOA KỲ, Thư Mục Vụ Forming Conscience for Faithful Citizenship (Tháng 11-2007), 13.

[181] HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 161.

[182] Das Ende der Neuzeit, Würzburg, 1965, 30-31.

[183] Cf. I. QUILES, S.J., Filosofía de la educación personalista, Buenos Aires, 1981, 46-53.

[184] UỶ BAN THƯỜNG VỤ HĐGM CONGO, Thư Chung về tình hình an ninh trong nước (5-12-2012), 11.

[185] Cf. PLATO, Gorgias, 465.

[186] BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho Giáo Triều Rôma (21-12-2012): AAS 105 (2013), 51.

[187] Cf. Propositio 14.

[188] Cf. Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 1910; HỘI ĐỒNG GIÁO HOÀNG VỀ CÔNG LÝ VÀ HOÀ BÌNH, Toát Yếu Học Thuyết Xã Hội của Hội Thánh, 168.

[189] Cf. Propositio 54.

[190] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Fides et Ratio (14-9-1998), 88: AAS 91 (1999), 74.

[191] THÁNH TÔMA AQUINÔ, Summa contra Gentiles, I, 7; cf. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Fides et Ratio (14-9-1998), 43: AAS 91 (1999), 39.

[192] SECOND VATICAN COUNCIL, Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, 4.

[193] Cf. Propositio 52.

[194] HĐGM ẤN ĐỘ, Tuyên Bố Chung của Đại Hội XXX: Vai trò của Hội Thánh cho một nước Ấn Độ tốt đẹp hơn (8-3-2013), 8.9.

[195] Cf. Propositio 53.

[196] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990), 56: AAS 83 (1991), 304.

[197] Cf. BÊNÊĐICTÔ XVI, Diễn từ cho Giáo Triều Rôma (21-12-2012): AAS 105 (2006), 51; CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Hội Thánh Ad Gentes, 9; Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 856.

[198] CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 16.

[199] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Kitô giáo và các Tôn Giáo trên Thế Giới (1996), 72: Enchiridion Vaticanum 15, No. 1061.

[200] Ibid.

[201] Cf. ibid., 81-87: Enchiridion Vaticanum 15, Nos. 1070-1076.

[202] Cf. Propositio 16.

[203] BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng Ecclesia in Medio Oriente (14-9-2012), 26: AAS 104 (2012), 762.

[204] Cf. Propositio 55.

[205] Cf. Propositio 36.

[206] GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Ineunte (6-1-2001), 52: AAS 93 (2001), 304.

[207] Cf. V.M. FERNÁNDEZ, “Espiritualidad para la esperanza activa. Discurso en la apertura del I Congreso Nacional de Doctrina Social de la Iglesia (Rosario 2011)”, in UC Actualidad, 142 (2011), 16.

[208] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Missio (7-12-1990), 45: AAS 83 (1991), 292.

[209] BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp, Deus Caritas Est (25-122005), 16: AAS 98 (2006), 230.

[210] Ibid., 39: AAS 98 (2006), 250.

[211] HỘI NGHỊ ĐẶC BIỆT LẦN THỨ HAI CHO CHÂU ÂU CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC, Sứ điệp cuối, 1: L’Osservatore Romano, Ấn bản hằng tuần tiếng Anh, 27-10-1999, 5.

[212] ISAAC OF STELLA, Sermo 51: PL 194, 1863, 1865.

[213] Nican Mopohua, 118-119.

[214] Cf. CÔNG ĐỒNG VATICANÔ II, Hiến Chế Tín Lý về Hội Thánh Lumen Gentium, 52-69.

[215] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Mater (25-3-1987), 6: AAS 79 (1987), 366-367.

[216] Cf. Propositio 58.

[217] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Mater (25-3-1987), 17: AAS 79 (1987), 381.

[†] Phụ chú của người dịch:

® Bản dịch tiếng Việt này dựa trên bản tiếng Anh chính thức của Vatican, POPE FRANCIS, The Joy of the Gospel, Vatican Press (2013). Các câu trích Kinh Thánh lấy từ bản dịch của Nhóm PVCGK với một ít thích nghi theo bản tiếng Anh.

Đã có khá nhiều phản ứng trái chiều, đồng tình (như Michael Novak), hay chống đối (như Rush Limbaugh) về Tông Huấn này, và từ cả các phe cực hữu lẫn cấp tiến tại Hoa Kỳ, hay phe tả (như các báo Guardian, Reuters của Anh), đặc biệt liên quan tới các quan điểm của Đức Giáo Hoàng về chính trị và kinh tế. Tuy nhiên muốn hiểu đúng tư tưởng của Đức Giáo Hoàng, cần phải đọc Tông Huấn này theo chủ đích của chính ngài là lãnh vực mục vụ. Có thể xem thêm chi tiết tại các đường link dưới đây:

http://vaticaninsider.lastampa.it/en/world-news/detail/articolo/usa-us-estados-unidos-papa-pope-el-papa-30384/

http://www.vietcatholic.net/News/Html/119628.htm

Ở số 54, điểm gây tranh cãi là thuật ngữ “trickle-down” (“sự nhỏ giọt”) của bản dịch tiếng Anh mà một số người cho là dịch không chính xác và có ý tiêu cực. Bản gốc tiếng Tây Ban Nha viết là “derame” (“cái gì tràn ra, vung vãi ra”), bản tiếng Pháp dịch là “rechute favorable” (“cái tràn ra có lợi”). Trong bản tiếng Việt này, chúng tôi tạm dịch là “lọt sàng xuống nia”, một câu nói quen dùng trong tiếng Việt và xem ra hợp với bản tiếng Tây Ban Nha và bản tiếng Pháp và có lẽ phần nào lột tả đúng ý của tác giả hơn.

Xem bài phỏng vấn Đức Thánh Cha của ký giả báo La Stampa tại đây: http://www.vietcatholic.net/News/Html/119628.htm

Đặc biệt xem nhận định khá chi tiết của Michael Novak tại đây:

http://www.nationalreview.com/article/365720/agreeing-pope-francis-michael-novak; bản dịch tiếng Việt của Vũ Văn An trên Vietcatholic.org: http://vietcatholic.org/News/Html/119583.htm


Tác giả bài viết: UB/LBTM/HĐGMVN chuyển ngữ
Каталог: mfiles -> data

tải về 0.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương