Niềm vui của Tin Mừng


CHƯƠNG NĂM NHỮNG NGƯỜI LOAN BÁO TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN



tải về 0.79 Mb.
trang15/17
Chuyển đổi dữ liệu10.09.2016
Kích0.79 Mb.
#31956
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

CHƯƠNG NĂM

NHỮNG NGƯỜI LOAN BÁO TIN MỪNG ĐẦY THÁNH THẦN


259. Những người loan báo Tin Mừng đầy Thánh Thần là những người dũng cảm mở lòng mình ra cho hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các tông đồ ra khỏi chính mình và biến họ thành sứ giả công bố các kỳ công của Thiên Chúa, có khả năng nói cho mỗi người bằng thứ tiếng riêng của họ. Chúa Thánh Thần cũng ban cho họ ơn can đảm để công bố sự mới mẻ của Tin Mừng một cách dạn dĩ (parrhesía) mọi thời và mọi nơi, cả khi gặp chống đối. Chúng ta hãy chạy đến với Người hôm nay, vững vàng trong kinh nguyện, vì không cầu nguyện thì mọi hoạt động của chúng ta có nguy cơ vô hiệu quả và sứ điệp của chúng ta trở thành trống rỗng. Đức Giêsu muốn những người loan báo Tin Mừng không chỉ rao giảng bằng lời nói, nhưng trên hết bằng một đời sống được biến đổi bởi sự hiện diện của Thiên Chúa.


260. Trong chương cuối này, tôi không muốn trình bày một tổng hợp về linh đạo Kitô giáo, hay khai triển các chủ đề lớn như cầu nguyện, thờ lạy Thánh Thể, hay việc cử hành đức tin trong phụng vụ. Về tất cả các chủ đề này, chúng ta đã có những bản văn có giá trị của Huấn Quyền và những tác phẩm nổi tiếng của các tác giả lớn rồi. Tôi không dám thay thế hay làm tốt hơn các kho tàng này. Tôi chỉ muốn cung cấp một ít tư tưởng về tinh thần của việc tân phúc âm hoá.
261. Mỗi khi ta nói một cái gì là “có khí thế”, nó thường chỉ về một sức thúc đẩy bên trong gây khích lệ, tạo động lực, nuôi dưỡng và cống hiến ý nghĩa cho hoạt động cá nhân và cộng đồng của chúng ta. Việc phúc âm hoá đầy Thánh Thần không đồng nghĩa với một tập hợp các công việc được thực hiện vì bổn phận bất chấp các xu hướng và ước muốn riêng của một người. Ước gì tôi có được những lời thích hợp để khơi dậy niềm phấn khích cho một chương mới của việc phúc âm hoá đầy nhiệt huyết, vui tươi, quảng đại, can đảm, yêu thương vô bờ và hấp dẫn! Nhưng tôi nhận ra rằng không có lời khích lệ nào là đủ trừ khi lòng chúng ta cháy lửa của Chúa Thánh Thần. Việc phúc âm hoá đầy Thần Khí là công việc được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, vì Người là linh hồn của Hội Thánh được gọi để công bố Tin Mừng. Trước khi cống hiến một số động lực và gợi ý thiêng liêng, một lần nữa tôi cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến. Tôi nài xin Người đến và đổi mới Hội Thánh, khuấy động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh bạo ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi dân mọi nước.

I. CÁC LÝ DO CANH TÂN ĐỘNG LỰC TRUYỀN GIÁO


262. Những người loan báo Tin Mừng đầy Thánh Thần là những người cầu nguyện và làm việc. Có các khái niệm thần bí mà không có một sự vươn ra xã hội và truyền giáo thì chẳng ích gì cho việc loan báo Tin Mừng, cũng như những bài nói hay hoặc những thực hành xã hội hay mục vụ mà thiếu một linh đạo thì chẳng thể cải hoá các tâm hồn. Các phương thế đơn phương và bất cập này chỉ có thể tiếp cận được một ít nhóm người và tỏ ra không có thể toả sáng bên ngoài những nhóm này vì chúng cắt xén Tin Mừng. Cái cần là khả năng vun trồng một không gian nội tâm có thể đem lại ý nghĩa cho sự dấn thân và hoạt động.[205] Nếu không có những thời khắc lâu để thờ phượng, gặp gỡ Lời Chúa trong kinh nguyện, hay đối thoại chân thành với Chúa, công việc của chúng ta dễ dàng trở thành vô nghĩa; chúng ta mất năng lượng do sự chán ngán và những khó khăn, và nhiệt huyết của chúng ta tắt dần. Hội Thánh cấp thiết cần hơi thở sâu của kinh nguyện, và tôi rất mừng khi thấy ngày càng tăng số những nhóm người ở mọi cấp trong đời sống Hội Thánh chuyên tâm cầu nguyện và chuyển cầu, đọc lời Chúa trong kinh nguyện và liên lỷ chầu Thánh Thể. Dù vậy, “chúng ta phải bác bỏ cái cám dỗ cung cấp một thứ linh đạo tư riêng và cá nhân, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của đức ái, chưa nói đến những hệ luỵ của sự nhập thể”.[206] Luôn luôn có nguy cơ là một số thời khắc cầu nguyện có thể trở thành cái cớ để từ chối hiến thân truyền giáo; một lối sống tư riêng có thể khiến người Kitô hữu tìm trú ẩn nơi một số hình thức linh đạo sai lạc.
263. Chúng ta nên nghĩ đến các Kitô hữu thời kỳ đầu và nhiều anh chị em chúng ta trong suốt dòng lịch sử, họ là những người tràn trề niềm vui, can đảm không mệt mỏi và nhiệt tình trong việc rao giảng Tin Mừng. Một số người ngày nay thường tự an ủi mình rằng hoàn cảnh bây giờ không dễ dàng như xưa, nhưng chúng ta biết rằng đế chế Roma thời ấy không hề thuận lợi cho sứ điệp Tin Mừng, cho cuộc đấu tranh vì công lý, hay việc bảo vệ phẩm giá con người. Mỗi thời kỳ lịch sử đều ghi dấu những yếu đuối của con người, tính tham lam, tự mãn và ích kỷ, chưa nói gì đến những dục vọng luôn rình rập chúng ta. Nhũng chuyện này luôn luôn hiện hữu dưới hình thức này hay hình thức khác,; chúng bắt nguồn từ những giới hạn của con người hơn là từ những hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy chúng ta đừng nói rằng thời buổi ngày nay khó khăn hơn; nó chỉ khác hơn thôi; Nhưng chúng ta cũng hãy học nơi các thánh là những người đã đi trước chúng ta, đã đối diện với những khó khăn của thời họ. Vì thế tôi đề nghị chúng ta dừng lại để tìm ra một số lý do có thể giúp chúng ta hôm nay bắt chước họ.[207]
Gặp gỡ thân tình với tình yêu cứu độ của Đức Giêsu

264. Lý do đầu tiên cho việc loan báo Tin Mừng là tình yêu của Chúa Giêsu mà chúng ta đã lãnh nhận, kinh nghiệm cứu độ thôi thúc chúng ta ngày càng yêu mến Ngài nhiều hơn. Có tình yêu nào không cảm thấy nhu cầu nói với người yêu, chỉ ra người yêu, làm cho người yêu được biết đến? Nếu chúng ta không cảm thấy cháy bỏng ước muốn chia sẻ tình yêu này, chúng ta cần phải tha thiết cầu nguyện để Ngài một lần nữa đánh động lòng chúng ta. Chúng ta cần nài xin ơn Ngài hằng ngày, xin Ngài mở những trái tim lạnh nhạt của chúng ta và khuấy động đời sống ơ hờ và hời hợt của chúng ta. Đứng trước mặt Ngài với trái tim rộng mở và để Ngài nhìn chúng ta, chúng ta thấy được cái nhìn yêu thương mà ông Nathanael đã nhìn thấy hôm Đức Giêsu nói với ông: “Tôi đã nhìn thấy anh dưới cây vả” (Ga 1:48). Tốt biết bao khi đứng trước tượng chịu nạn, hay quì gối trước Thánh Thể, và chỉ đơn giản ở trong sự hiện diện của Ngài! Tốt biết bao khi một lần nữa ngài đánh động cuộc đời chúng ta và thúc đẩy chúng ta chia sẻ sự sống mới của Ngài! Điều xảy ra sau đó là “chúng ta nói ra điều chúng ta đã thấy và đã nghe!” (1 Ga 1:3). Sự khích lệ tốt nhất để chia sẻ Tin Mừng là qua việc suy niệm Tin Mừng với tình yêu, dừng lại ở mỗi trang và đọc bằng trái tim. Nếu chúng ta đến với Tin Mừng bằng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm chúng ta kinh ngạc và không ngừng kích thích chúng ta. Nhưng muốn được như thế, chúng ta cần lấy lại một tinh thần chiêm niệm để có thể giúp chúng ta không ngừng nhận ra rằng mình được thừa hưởng một kho tàng làm chúng ta người hơn và giúp chúng ta sống một đời sống mới. Không có gì quí hơn mà chúng ta có thể trao ban cho người khác.


265. Cả cuộc đời Đức Giêsu, cách ngài đối xử với người nghèo, các hành động, tính chính trực, các hành vi quảng đại đơn sơ hằng ngày, và sau cùng sự hiến thân hoàn toàn của Ngài, tất cả là điều quí giá và mặc khải mầu nhiệm sự sống thần linh của Ngài. Mỗi khi chúng ta khám phá lại điều này một cách mới mẻ, chúng ta trở nên xác tín rằng đó chính là điều mà những người khác đang cần, cho dù có thể họ không nhận ra: “Ðấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị” (Cv 17:23). Đôi khi chúng ta mất nhiệt tình truyền giáo là vì chúng ta quên rằng Tin Mừng thoả mãn các nhu cầu thâm sâu nhất của chúng ta, bởi vì chúng ta được dựng nên để hưởng nhận điều mà Tin Mừng cống hiến cho chúng ta: tình bạn với Đức Giêsu và tình yêu của các anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta diễn tả được đầy đủ và đẹp đẽ nội dung cơ bản của Tin Mừng, chắc chắn sứ điệp này sẽ nói với những khát vọng thâm sâu nhất của trái tim con người: “Người truyền giáo xác tín rằng, qua hoạt động của Chúa Thánh Thần, đã hiện hữu trong các cá nhân và các dân tộc, dù chỉ trong tiềm thức, một sự mong đợi được biết chân lý về Thiên Chúa, về con người, và về cách làm thế nào để được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết. Sự phấn khởi của người truyền giáo trong việc loan báo Đức Kitô xuất phát từ niềm xác tín rằng Ngài đang đáp ứng niềm mong đợi ấy.[208] Niềm phấn khởi loan báo Tin Mừng dựa trên sự xác tín này. Chúng ta có một kho tàng sự sống và tình yêu không thể lừa dối, và một sứ điệp không thể làm chúng ta lạc đường hay thất vọng. Nó thấm nhập tận thâm cung lòng chúng ta, nâng đỡ và làm chúng ta thêm cao quí. Nó là một chân lý không bao giờ lỗi thời vì nó chạm đến phần trong con người chúng ta mà không gì khác chạm đến được. Cảm giác buồn sầu vô hạn của chúng ta chỉ có thể được chữa lành bởi một tình yêu vô biên.
266. Nhưng niềm xác tín này phải được nâng đỡ bởi trải nghiệm không ngừng được đổi mới của chúng ta về sự nếm cảm tình bạn và sứ điệp của Đức Kitô. Không thể kiên trì trong việc nhiệt tình loan báo Tin Mừng nếu chúng ta không xác tín từ kinh nghiệm bản thân rằng biết Đức Kitô và không biết Đức Kitô thì hoàn toàn khác nhau, đi cùng với Ngài thì khác với đi mù quáng, nghe thấy lời Ngài khác với không biết Ngài, chiêm ngắm Ngài, tôn thờ Ngài, tìm bình an nơi Ngài thì khác với không làm các điều ấy. Cố gắng xây dựng thế giới với Tin Mừng của Ngài thì khác với xây dựng nó với ánh sáng riêng của chúng ta. Chúng ta biết rõ rằng với Đức Kitô, cuộc đời trở nên phong phú hơn và với Ngài ta sẽ dễ tìm thấy ý nghĩa trong mọi sự hơn. Đó là lý do chúng ta loan báo Tin Mừng. Một người truyền giáo đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê. Một người không có xác tín, không phấn khởi, không chắc chắn và không yêu, người ấy chẳng thuyết phục được ai.
267. Hiệp nhất với Đức Kitô, chúng ta tìm điều Ngài tìm và yêu điều Ngài yêu. Chung cuộc, cái chúng ta tìm là vinh quang của Cha, chúng ta sống và hành động “để ngợi khen ân sủng rạng ngời của Người” (Ep 1:6). Nếu chúng ta muốn dấn thân hoàn toàn và cho đến cùng, chúng ta cần bỏ lại đàng sau mọi động cơ khác. Đây là động cơ dứt khoát, sâu nhất và mạnh nhất của chúng ta, lý do và ý nghĩa tối hậu đàng sau tất cà những gì chúng ta làm: vinh quang của Cha mà Đức Giêsu tìm kiếm từng giây từng phút trong cuộc đời Ngài. Là Người Con, Ngài vui mừng vì “hằng ở nơi cung lòng Cha” (Ga 1:18). Sở dĩ chúng ta là những người truyền giáo, chủ yếu là vì Đức Giêsu đã nói với chúng ta rằng, “điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: anh em sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:8). Vượt lên trên mọi sở thích và lợi ích riêng, mọi hiểu biết và động cơ của mình, chúng ta loan báo Tin Mừng là vì vinh quang cao cả của Cha, Đấng yêu thương chúng ta.
Sự nếm cảm thiêng liêng được là một dân tộc

268. Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta nhận ra rằng chúng ta là một dân tộc: “Xưa anh em chưa phải là một dân, nay anh em đã là dân của Thiên Chúa” (1 P 2:10). Là những người loan báo Tin Mừng cho các linh hồn, chúng ta cần phát triển hương vị thiêng liêng của việc sống chan hoà với dân và khám phá ra rằng điều này tự nó là một nguồn vui tuyệt vời. Truyền giáo vừa là một niềm say mê Đức Giêsu, vừa đồng thời là niềm say mê dân của Người. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, chúng ta thấy được chiều sâu tình yêu của Ngài, tình yêu nâng chúng ta lên và kiện cường chúng ta, nhưng đồng thời, trừ khi chúng ta mù, chúng ta cũng bắt đầu nhận ra rằng cái nhìn cháy bỏng yêu thương của Đức Giêsu mở ra ôm ấp toàn thể dân của Ngài. Chúng ta một lần nữa nhận ra rằng Ngài muốn dùng chúng ta để đến gần với dân yêu dấu của Ngài hơn. Ngài chọn chúng ta từ giữa dân của Ngài và sai chúng ta đến với dân của Ngài; nếu không có ý thức thuộc về dân này, chúng ta không thể hiểu được căn tính thâm sâu của mình.


269. Chính Đức Kitô là mẫu mực của phương pháp loan báo Tin Mừng này, nó đưa chúng ta vào tận lòng của dân Ngài. Tốt biết bao cho chúng ta khi được chiêm ngắm sự thân mật gần gũi của Ngài với mọi người! Nếu Ngài nói chuyện với ai, Ngài nhìn thẳng vào mắt họ với một tình yêu và sự quan tâm sâu thẳm: “Ðức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến” (Mk 10:21). Chúng ta thấy Ngài dễ đến gần như thế nào, khi ngài lại gần người mù (xem Mc 10:46-52) và ăn uống với những kẻ tội lỗi (xem Mc 2:16) mà không sợ bị người khác nghĩ mình là kẻ mê ăn uống và say sưa (xem Mt 11:19). Chúng ta thấy được sự tế nhị của Ngài khi cho phép người phụ nữ tội lỗi lấy dầu thơm xức chân Ngài (xem Lc 7:36-50), và khi tiếp ông Nicôđêmô ban đêm (xem Ga 3:1-15). Hi sinh của Đức Giêsu trên thập giá không là gì khác hơn tột đỉnh của cách mà Ngài đã sống suốt cả đời Ngài. Được gương sáng Ngài đánh động, chúng ta muốn hoàn toàn đi vào các thành phần cấu tạo của xã hội này, chia sẻ cuộc sống với mọi người, lắng nghe các mối quan tâm của họ, giúp đỡ họ vật chất và tinh thần trong các nhu cầu của họ, vui với người vui, khóc với người khóc; tay trong tay với những người khác, chúng ta dấn thân xây dựng một thế giới mới. Nhưng chúng ta làm điều này không phải vì ý thức về sự bó buộc, không phải như một bổn phận nặng nề, nhưng là kết quả của một quyết định bản thân, nó cho chúng ta niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống.
270. Đôi khi chúng ta bị cám dỗ trở thành kiểu Kitô hữu đứng xa để nhìn các vết thương của Chúa. Nhưng Đức Giêsu muốn chúng ta chạm vào sự khốn cùng của con người, chạm vào da thịt đau khổ của người khác. Ngài hi vọng chúng ta ngưng tìm kiếm những cái tháp ngà của cá nhân hay cộng đồng để che chở chúng ta khỏi vòng xoáy những nỗi bất hạnh của con người; trái lại, ngài muốn chúng ta đi vào thực tế đời sống của những người khác và biết được sức mạnh của sự dịu dàng. Mỗi khi làm như thế, đời sống chúng ta sẽ trở nên hoà nhập một cách kỳ diệu và chúng ta cảm nghiệm sâu xa thế nào là một dân tộc, thế nào là thành phần của một dân tộc.
271. Đúng là trong các hành vi ứng xử của chúng ta với thế giới, chúng ta phải trình bày các lý do cho niềm hi vọng của mình, nhưng không phải theo cách của một kẻ thù chỉ trích và lên án. Chúng ta được dạy khá rõ: “phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng” (1 P 3:15 [3:16]) và “hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hòa thuận với mọi người” (Rm 12:18). Chúng ta cũng được dạy phải “lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:21) và “làm điều thiện cho mọi người” (Gl 6:10). Thay vì tìm cách tỏ ra hơn người khác, chúng ta phải “lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2:3). Chính các tông đồ của Chúa đã “được toàn dân thương mến” (Cv 2:47; 4:21, 33; 5:13). Rõ ràng Chúa Giêsu không muốn chúng ta là những nhân vật quan trọng coi khinh kẻ khác, nhưng là những người nam người nữ của dân chúng. Đây không phải ý tưởng của giáo hoàng, hay một chọn lựa giữa các chọn lựa khác, mà là lệnh truyền trong lời Chúa quá rõ ràng, thẳng thắn và thuyết phục không cần giải thích, nếu không nó sẽ mất đi sức mạnh thách thức chúng ta. Chúng ta chỉ việc sống các lời ấy mà không cần giải thích, không cần bình luận. Sống như thế chúng ta sẽ biết được niềm vui của việc chia sẻ cuộc sống với dân trung thành của Thiên Chúa khi chúng ta cố gắng đốt lên một ngọn lửa trong lòng thế giới.
272. Yêu thương người khác là một sức mạnh thiêng liêng kéo chúng ta vào sự hiệp nhất với Thiên Chúa; thực vậy, ai không yêu thương “thì đi trong bóng tối” (1 Ga 2:11), “ở trong sự chết” (1 Ga 3:14) và “không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4:8). Đức Bênêđictô XVI nói rằng “nhắm mắt trước người thân cận cũng là bịt mắt chúng ta trước Thiên Chúa”,[209] và rằng tình yêu, xét cho cùng, là ánh sáng duy nhất “có thể luôn luôn chiếu sáng một thế giới đang tối đi và cho chúng ta can đảm cần thiết để tiếp tục sống và làm việc”.[210] Khi chúng ta sống một thứ linh đạo gần gũi với người khác và tìm kiếm hạnh phúc của họ, lòng chúng ta được mở rộng trước các quà tặng tuyệt vời và đẹp nhất của Chúa. Khi chúng ta gặp gỡ người khác với lòng yêu thương, chúng ta học được một điều gì mới về Thiên Chúa. Mỗi khi mắt chúng ta mở ra để nhìn nhận người khác, chúng ta lớn lên trong ánh sáng của đức tin và của sự hiểu biết Thiên Chúa. Nếu chúng ta muốn tiến bộ trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải không ngừng là người truyền giáo. Hoạt động loan báo Tin Mừng làm giàu cho trí óc và tâm hồn; nó mở ra những chân trời thiêng liêng; nó làm chúng ta ngày càng thêm mẫn cảm đối với các tác động của Chúa Thánh Thần, và nó đưa chúng ta vượt qua những cấu trúc thiêng liêng giới hạn. Một người truyền giáo nhiệt tình cảm nhận được niềm vui mình là một suối nước vọt ra để tưới mát người khác. Chỉ người nào cảm thấy hạnh phúc khi tìm lợi ích cho người khác, mong muốn hạnh phúc cho họ, người ấy mới có thể là người truyền giáo. Sự mở lòng này là một nguồn vui, vì “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20:35). Chúng ta không sống tốt hơn được khi trốn tránh, náu ẩn, từ chối chia sẻ, ngừng trao ban và đóng kín mình trong những tiện nghi của mình. Một nếp sống như thế không khác gì một cuộc tự sát từ từ.
273. Sứ mệnh của tôi giữa lòng dân không chỉ là một phần của đời tôi hay một cái phù hiệu mà tôi có thể gỡ bỏ; nó không phải một cái gì “phụ thêm” hay chỉ là một khoảnh khắc khác trong cuộc đời. Trái lại, nó là một cái gì tôi không thể dứt bỏ khỏi mình nếu không muốn tiêu diệt chính mình. Tôi là một sứ mệnh trên trái đất này; đó là lý do tại sao tôi có mặt trên trái đất này. Chúng ta phải coi ḿnh như được đóng ấn, thậm chí được in nhãn bởi sứ mệnh mang ánh sáng, phúc lành, tạo sức sống, nuôi dưỡng, chữa lành và giải thoát. Nhìn khắp quanh mình, chúng ta bắt đầu nhận thấy những người điều dưỡng cho linh hồn, những thầy dạy cho linh hồn, những chính trị gia cho linh hồn, những người đã chọn hoà mình vào với người khác và cho người khác. Nhưng một khi chúng ta tách rời hoạt động khỏi đời sống riêng tư của mình, mọi thứ đổi thành màu xám và chúng ta sẽ luôn luôn cố đi tìm sự nhìn nhận hay khẳng định các nhu cầu của mình. Chúng ta hết còn là một dân tộc.
274. Nếu chúng ta muốn chia sẻ đời mình với người khác và quảng đại trao ban, chúng ta cũng phải nhận ra rằng mọi người xứng đáng với sự trao ban của chúng ta. Không phải vì dáng dấp nơi thân hình của họ, những khả năng của họ, ngôn ngữ của họ, cách suy nghĩ của họ, hay bất cứ sự thoả mãn nào mà chúng ta có thể nhận được, nhưng vì họ là công trình của Thiên Chúa, là tạo vật của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dựng nên con người ấy theo hình ảnh Ngài, và người ấy phản chiếu phần nào vinh quang của Thiên Chúa. Mọi con người đều là đối tượng của lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời họ. Đức Giêsu đã hiến máu thánh châu báu của Ngài trên thập giá vì người ấy. Bất kể hình hài họ thế nào, mỗi người đều vô cùng thánh thiện và xứng đáng với tình yêu của chúng ta. Do đó, nếu tôi có thể giúp ít là một người có một cuộc sống tốt hơn, thì sự hiến mình của tôi đã được biện minh rồi. Là dân trung thành của Thiên Chúa quả là tuyệt vời. Chúng ta đạt được sự thành toàn khi phá đổ các bức tường ngăn cách và trong tim chúng ta chứa đầy những khuôn mặt và những cái tên!
Hoạt động nhiệm mầu của Đức Kitô phục sinh và của Thần Khí Ngài

275. Trong chương 2, chúng ta đã suy tư về sự thiếu vắng một linh đạo thâm sâu dẫn đến thái độ bi quan, tất định và hoài nghi. Một số người không dấn thân cho truyền giáo bởi vì họ nghĩ sẽ chẳng thay đổi được gì và có cố gắng bao nhiêu cũng vô ích. Họ nghĩ: “Sao tôi phải từ bỏ các tiện nghi và thú vui nếu tôi chẳng thấy có kết quả gì?” Thái độ này khiến người ta không thể làm người truyền giáo. Đây chỉ là một cái cớ dối trá để tiếp tục bị vướng mắc trong tiện nghi, lười biếng, bất mãn một cách vu vơ và ích kỷ, trống rỗng. Nó là một thái độ tự huỷ diệt, vì “người ta không thể sống mà không có hi vọng: cuộc đời sẽ trở nên vô nghĩa và không thể chịu đựng nổi”.[211] Nếu chúng ta nghĩ rằng không cái gì thay đổi được, chúng ta phải nhớ rằng Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết và bây giờ là Đấng toàn năng. Đức Giêsu Kitô đang sống thực sự. Nói cách khác, “nếu Ðức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng” (1 Cr 15:14). Tin Mừng kể cho chúng ta rằng khi các tông đồ bắt đầu đi rao giảng, “Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16:20). Đó cũng là điều xảy ra hôm nay. Chúng ta được mời gọi khám phá và trải nghiệm điều đó. Đức Kitô sống lại và được tôn vinh là nguồn suối hi vọng của chúng ta, và Ngài sẽ không từ chối giúp đỡ chúng ta trong việc thực thi sứ mạng Ngài đã uỷ thác cho chúng ta.


276. Sự sống lại của Đức Kitô không phải là một biến cố của quá khứ; nó chứa đựng một sức mạnh cốt thiết đã thấm nhuần thế giới này. Ở đâu mà tất cả có vẻ như đã chết, ở đó các dấu hiệu phục sinh đột nhiên xuất hiện. Đó là một sức mạnh không thể cưỡng lại được. Thường chúng ta thấy Thiên Chúa có vẻ như không hiện hữu: chúng ta thấy khắp quanh mình những cảnh bất công, tội ác, thờ ơ, tàn bạo không ngớt. Nhưng cũng đúng là giữa cảnh tối tăm luôn luôn có một cái gì mới phát sinh và sớm hay muộn sẽ sinh hoa kết quả. Trên mặt đất bị san bằng, sự sống vẫn bùng dậy một cách ngoan cường. Bất kể hoàn cảnh đen tối đến đâu, sự thiện luôn luôn xuất hiện trở lại và lan toả. Mỗi ngày trong thế giới của chúng ta, cái đẹp luôn luôn tái sinh, nó lớn lên xuyên qua những bão tố của lịch sử. Các giá trị luôn luôn có khuynh hướng xuất hiện trở lại dưới những dạng mới, và loài người cũng đã tái sinh hết lần này qua lần khác từ những tình huống xem như là đã tận số. Sức mạnh của sự sống lại là như thế, và tất cả những người loan báo Tin Mừng là những công cụ của sức mạnh ấy.
277. Trong khi ấy, các khó khăn mới cũng không ngừng xuất hiện: các trải nghiệm về thất bại và yếu đuối làm chúng ta rất đau buồn. Qua kinh nghiệm, tất cả chúng ta biết rằng đôi khi một công việc không đem lại cho chúng ta sự thoả mãn mà chúng ta tìm kiếm, các kết quả thì ít và các sự thay đổi thì chậm chạp, và chúng ta bị cám dỗ trở nên mệt mỏi. Nhưng hạ khí giới tạm thời vì mệt mỏi không đồng nghĩa với vĩnh viễn đầu hàng do sự bất mãn và sự bất lực làm nứt nẻ linh hồn. Cũng có khi chúng ta có thể chán nản trong cuộc đấu tranh vì cuối cùng chúng ta bị mắc kẹt trong chính mình, trong một thái độ vụ nghề nghiệp muốn tìm sự nhìn nhận, vỗ tay, tưởng thưởng và địa vị. Trong trường hợp này chúng ta không buông vũ khí, nhưng không còn nắm bắt được điều chúng ta tìm kiếm, sự sống lại không có ở đó. Trong các trường hợp như thế, Tin Mừng không còn được đón nhận như là sứ điệp tuyệt vời nhất mà thế giới này có thể công hiến, nhưng bị chôn vùi dưới một đống những lời bao biện.
278. Đức tin cũng có nghĩa là tin vào Thiên Chúa, tin rằng Người thực sự yêu chúng ta, Người có khả năng can thiệp một cách mầu nhiệm, Người không bỏ rơi chúng ta và Người rút ra điều thiện từ điều ác bằng quyền năng và tính sáng tạo vô biên của Ngưới. Đức tin có nghĩa là tin rằng Thiên Chúa tiến bước khải hoàn trong lịch sử cùng với những người “được gọi, được chọn và trung thành” (Kh 17:14). Chúng ta hãy tin vào Tin Mừng khi Tin Mừng nói với chúng ta rằng Nước Thiên Chúa đã hiện diện trong thế giới này và đang lớn lên, ở đây và ở kia, cách này hay cách khác: giống như hạt cải nhỏ xíu lớn lên thành một cây to (xem Mt 13:31-32), giống như nắm men làm cho dậy cả đấu bột (xem Mt 13:33), và giống như hạt giống tốt mọc lên giữa cỏ dại (xem Mt 13:24-30) và luôn luôn có thể làm chúng ta ngạc nhiên thích thú. Nước Chúa đang ở đây, nó trở lại, nó đấu tranh để không ngừng phát triển. Sự phục sinh của Đức Kitô khắp nơi làm phát sinh những hạt giống cho thế giới mới ấy; nếu chúng bị yếu đi, chúng lại mọc trở lại, vì sự phục sinh đã âm thầm được đan vào trong cơ cấu của lịch sử này, vì Đức Giêsu đã không sống lại một cách vô ích. Chúng ta chớ bao giờ đứng bên lề cuộc diễn hành của niềm hi vọng sống động này!
279. Vì không luôn luôn nhìn thấy các hạt giống này lớn lên, chúng ta cần có một sự chắc chắn nội tâm, một niềm xác tín rằng Thiên Chúa có khả năng hành động trong mọi tình huống, ngay cả giữa những cái bề ngoài có vẻ là thất bại: “chúng tôi chứa đựng kho tàng này trong những bình sành” (2 Cr 4:7). Niềm tin chắc này thường được gọi là “một cảm thức về mầu nhiệm”. Đó là biết một cách chắc chắn rằng tất cả những ai tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa trong tình yêu sẽ sinh nhiều hoa trái (xem Ga 15:5). Sự sinh hoa kết quả này thường không nhìn thấy, khó nắm bắt và không thể định lượng. Chúng ta có thể biết khá chắc là cuộc đời chúng ta sẽ có kết quả, mặc dù không biết được như thế nào, ở đâu hay khi nào. Chúng ta có thể biết chắc rằng không một hành vi yêu thương nào của mình bị mất đi, hay bất cứ hành vi quan tâm nào của chúng ta đối với người khác. Không một hành vi yêu mến nào của chúng ta đối với Thiên Chúa sẽ bị mất đi, không một cố gắng quảng đại nào là vô nghĩa, không một sự chịu đựng đau đớn nào bị phí phạm. Tất cả các hành vi này bao bọc thế giới chúng ta giống như một lực sống. Đôi khi công việc chúng ta làm có vẻ như vô hiệu, nhưng truyền giáo không giống như một vụ giao dịch kinh doanh hay đầu tư, hay thậm chí như một hoạt động nhân đạo. Nó không phải là một buổi trình diễn ở đó chúng ta đếm xem có bao nhiêu khán giả đến xem do quảng cáo của chúng ta; nó là một cái gì sâu hơn nhiều, không lấy thước nào mà đo được. Có thể Chúa dùng các hi sinh của chúng ta để ban phúc lành cho các miền khác của thế giới mà chúng ta sẽ không bao giờ đến thăm. Chúa Thánh Thần hoạt động theo Người muốn, khi Người muốn và ở nơi nào Người muốn; chúng ta phó thác cho Người mà không đòi nhìn thấy các kết quả ấn tượng. Chúng ta chỉ biết rằng dấn thân của chúng ta là cần thiết. Chúng ta hãy học để biết nghỉ ngơi trong vòng tay âu yếm của Cha giữa các hoạt động quảng đại và sáng tạo của mình. Chúng ta hãy tiếp tục tiến tới; chúng ta hãy dâng cho Người mọi sự, để Người làm cho các cố gắng của chúng ta sinh hoa kết quả đúng thời đúng lúc.
280. Duy trì nhiệt tình truyền giáo sống động đòi chúng ta vững vàng tin cậy vào Chúa Thánh Thần, vì chính Người là Đấng “cứu giúp những nỗi yếu hèn của chúng ta” (Rm 8:6). Nhưng sự tin cậy quảng đại này cần được nuôi dưỡng, vì thế chúng ta cần liên lỷ kêu xin Chúa Thánh Thần. Người có thể chữa lành những gì làm chúng ta suy giảm nhiệt tình truyền giáo. Đúng là sự tin cậy này vào Đấng vô hình có thể làm chúng ta cảm thấy mất phương hướng: nó giống như chìm xuống biển sâu và không biết mình sẽ gặp những gì. Bản thân tôi từng thường xuyên trải nghiệm tình cảnh này. Nhưng không có sự tự do nào lớn hơn là để mình được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, không tìm cách vạch kế hoạch và kiểm soát mọi sự từng chi tiết, trái lại để cho Người soi sáng, hướng dẫn và điều khiển chúng ta, dẫn đưa chúng ta đi đâu tuỳ theo ý Người. Chúa Thánh Thần biết rõ cái gì cần ở đâu và lúc nào. Hiệu quả một cách mầu nhiệm có nghĩa là như thế.

Sức mạnh truyền giáo của kinh nguyện chuyển cầu

281. Có một hình thức cầu nguyện thúc đẩy chúng ta đặc biệt dấn thân cho công cuộc truyền giáo và tìm kiếm lợi ích của người khác, đó là: kinh nguyện chuyển cầu. Chúng ta hãy dừng lại ít phút và nhìn vào cõi lòng của Thánh Phaolô để xem kinh nguyện của ngài như thế nào. Kinh nguyện của ngài đầy ắp những con người: “...Tôi luôn vui sướng mỗi khi cầu nguyện cho anh em hết thảy, ... bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi” (Pl 1:4, 7). Ở đây chúng ta thấy kinh nguyện chuyển cầu không kéo tâm trí chúng ta ra khỏi việc chiêm niệm thực sự, vì chiêm niệm đích thực luôn luôn có chỗ cho người khác.


282. Thái độ này trở thành một kinh nguyện tạ ơn Thiên Chúa cho người khác: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Ðức Kitô Giêsu” (1 Cr 1:4); “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi, mỗi lần nhớ đến anh em” (Pl 1:3). Hoàn toàn không ngờ vực, tiêu cực hoặc gây thất vọng, thái độ này là một cái nhìn thiêng liêng xuất phát từ đức tin sâu xa biết nhìn nhận những gì Thiên Chúa đang làm nơi cuộc đời của những người khác. Đồng thời, đây là lòng biết ơn tuôn ra từ một trái tim quan tâm tới người khác. Khi người truyền giáo đứng dậy sau khi cầu nguyện, lòng của họ được mở rộng hơn; không còn chỉ quan tâm đến bản thân mình, họ háo hức làm việc thiện và chia sẻ cuộc sống với những người khác.
283. Những người nam người nữ tuyệt vời của Thiên Chúa đều là những người chuyển cầu tuyệt vời. Lời kinh chuyển cầu giống như “men trong trái tim của Thiên Chúa Ba Ngôi”. Đó là cách để đi sâu vào trái tim của Chúa Cha và khám phá ra những khía cạnh có thể dọi ánh sáng trên những tình huống cụ thể và thay đổi chúng. Có thể nói tim của Thiên Chúa bị lời chuyển cầu của chúng ta đánh động, nhưng trên thực tế Người luôn luôn có ở đó trước. Cái mà lời chuyển cầu của chúng ta đạt được là sức mạnh, tình yêu và sự trung tín của Người được tỏ lộ rõ ràng hơn giữa dân chúng.


Каталог: mfiles -> data

tải về 0.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương