Niềm vui của Tin Mừng


V. NGƯỜI MẸ VỚI TRÁI TIM RỘNG MỞ



tải về 0.79 Mb.
trang5/17
Chuyển đổi dữ liệu10.09.2016
Kích0.79 Mb.
#31956
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17

V. NGƯỜI MẸ VỚI TRÁI TIM RỘNG MỞ


46. Một Hội Thánh “đi ra” là một Hội Thánh mở cửa. Đến với người khác để tới được các biên giới của loài người không có nghĩa là vội vã lao vào thế giới mà không có mục tiêu. Thường thì tốt hơn là nên đi từ từ, hãm bớt sự phấn khích của mình để nhìn và nghe người khác, không nhảy vội từ chuyện này sang chuyện khác, và nên ở lại bên người đã ngã dọc đường. Thỉnh thoảng chúng ta phải giống như người cha của đứa con hoang đàng, luôn luôn để cửa mở hầu khi đứa con trở về, nó có thể vào ngay trong nhà.
47. Hội Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa. Một dấu hiệu của sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở cửa, để nếu có ai được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ không thấy cửa nhà thờ đang đóng. Cũng có những cửa khác không được đóng. Mọi người có thể tham dự một cách nào đó vào đời sống của Hội Thánh; mọi người có thể là thành phần của cộng đoàn, và các cửa của bí tích cũng không được đóng vì bất cứ lý do gì. Điều này đặc biệt đúng đối với bí tích được gọi là “cửa”: bí tích Rửa Tội. Bí tích Thánh Thể, tuy là sự sung mãn của đời sống bí tích, nhưng không phải là một phần thưởng cho người hoàn thiện, mà là một phương thuốc và lương thực cho người yếu đuối.[51] Các xác tín này có những hệ quả mục vụ mà chúng ta cần phải xem xét một cách thận trọng và mạnh dạn. Chúng ta nhiều khi hành động như là người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ.
48. Nếu toàn thể Hội Thánh chấp nhận động lực truyền giáo mới này, Hội Thánh phải đến với mọi người, không loại trừ một ai. Nhưng phải đến với ai trước? Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thấy một dấu hiệu rõ ràng: không phải những bạn bè và láng giềng giàu có của chúng ta, nhưng trên hết là những người nghèo khổ bệnh tật, những người thường bị khinh dể và ruồng rẫy, những người “không có gì để trả lại ngươi” (Lc 14:14). Không có chỗ cho sự hoài nghi hay những lời giải thích vốn chỉ làm yếu đi một sứ điệp rõ ràng như thế. Hôm nay và mãi mãi, “người nghèo là những người ưu tiên được đón nhận Tin Mừng”,[52] và việc Tin Mừng được tự do rao giảng cho họ là dấu chỉ về vương quốc mà Chúa Giêsu đến để thiết lập. Chúng ta phải nói thẳng ra rằng “có một dây liên kết không thể phân ly giữa đức tin của chúng ta và người nghèo”. Chúng ta đừng bao giờ bỏ họ.
49. Vì vậy chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô. Ở đây tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh điều tôi từng nói cho các linh mục và giáo dân ở Buenos Aires: Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm và bám víu vào sự an toàn của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ lo đặt mình vào trung tâm để rốt cuộc bị mắc kẹt trong một mạng lưới các nỗi ám ảnh và các thủ tục. Nếu có cái gì đáng phải khiến chúng ta trăn trở và áy náy lương tâm, thì đó chính là sự kiện nhiều anh chị em chúng ta đang sống mà không có sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình bạn với Đức Giêsu Kitô, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ họ, không tìm thấy ý nghĩa và mục tiêu trong đời. Tôi mong rằng, thay vì sợ đi lạc, chúng ta nên sợ bị giam hãm trong những cấu trúc làm cho chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo, những qui tắc biến chúng ta thành những quan toà tàn nhẫn, với những thói quen làm chúng ta cảm thấy an thân, trong khi ở ngoài cửa người ta đang chết đói và Đức Giêsu không ngừng nói với chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6:37).

CHƯƠNG HAI

GIỮA CƠN KHỦNG HOẢNG VỀ DẤN THÂN CỘNG ĐỒNG


50. Trước khi bàn về một số vấn đề liên quan tới công cuộc loan báo Tin Mừng, tôi nghĩ nên vắn tắt nhắc đến bối cảnh trong đó tất cả chúng ta đang phải sống và làm việc. Ngày nay chúng ta thường xuyên nghe nói đến một hiện tượng “quá tải chẩn đoán” mà không luôn luôn kèm theo những phương pháp điều trị tương ứng trong thực tế. Một phân tích thuần tuý xã hội học muốn gói trọn toàn thể thực tại bằng phương pháp gọi là “trung bình lâm sàng” cũng chẳng giúp gì được cho chúng ta. Cái mà tôi muốn đề nghị là một phương pháp phù hợp hơn với nhận thức Tin Mừng. Đó là phương pháp của người môn đệ truyền giáo, một phương pháp “được nuôi dưỡng bởi ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần”.[53]
51. Nhiệm vụ của Giáo Hoàng không phải là cung cấp một phân tích chi tiết và đầy đủ về thực tại ngày nay, nhưng tôi khuyến khích mọi cộng đoàn “luôn tỉnh táo dò xét các dấu chỉ của thời đại”.[54] Đây thực sự là một trách nhiệm nặng nề, vì một số thực tại ngày nay, nếu không được xử lý hiệu quả, sẽ có thể mở đường cho các tiến trình phi nhân hoá mà sau này sẽ khó có khả năng đảo ngược. Chúng ta cần phân biệt rõ cái gì có thể là kết quả của Nước Thiên Chúa với cái gì đi ngược lại kế hoạch của Thiên Chúa. Điều này không những bao gồm việc nhận ra và phân biệt các loại thần trí, nhưng cũng bao gồm việc chọn lấy các tác động của thần lành và từ chối các tác động của thần dữ. Tôi mặc nhiên nhìn nhận các phân tích khác nhau mà các văn kiện khác của huấn quyền Hội Thánh đã cống hiến, cũng như các văn kiện mà các hội đồng giám mục cấp vùng và cấp quốc gia đã đề nghị. Trong Tông Huấn này, tôi chỉ muốn trình bày một cách vắn tắt và từ quan điểm mục vụ, một số nhân tố có thể cản trở hay làm suy yếu động lực canh tân truyền giáo trong Hội Thánh, hoặc là vì chúng đe doạ sự sống và phẩm giá của Dân Thiên Chúa, hay vì chúng tác động tới những người trực tiếp tham gia vào các tổ chức của Hội Thánh và vào công cuộc truyền giáo của Hội Thánh.

I. CÁC THÁCH THỨC CỦA THẾ GIỚI HÔM NAY


52. Ở thời đại chúng ta, nhân loại đang trải qua một bước ngoặt trong lịch sử của mình, như chúng ta có thể thấy từ các tiến bộ đang được thực hiện trong rất nhiều lãnh vực. Chúng ta không thể không ca ngợi các bước đi đang được thực hiện để cải thiện phúc lợi của dân chúng trong các lãnh vực như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục và truyền thông. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhớ rằng đa số dân chúng bây giờ sống ngày nào biết ngày ấy, với những viễn tượng đáng sợ. Một số dịch bệnh đang lan rộng. Tâm hồn nhiều người bị xâm chiếm bởi nỗi sợ hãi và thất vọng, ngay cả ở những nước được cho là giàu có. Niềm vui sống thường xuyên phai nhạt, thiếu tôn trọng người khác, và nạn bạo lực ngày càng nhiều, tình trạng bất bình đẳng cũng gia tăng. Người ta đấu tranh để sống, và thường là sống với phẩm giá tối thiểu. Thay đổi của thời đại đã được khởi động bởi những tiến bộ khổng lồ, mau chóng và tích luỹ về phẩm và lượng trong các khoa học và kỹ thuật và được đem áp dụng ngay vào các lãnh vực khác nhau của tự nhiên và đời sống. Chúng ta đang ở một thời đại tri thức và thông tin, dẫn tới các hình thức quyền lực mới và thường là không được gọi tên.
Nói không với một nền kinh tế loại trừ

53. Cũng như giới răn “Chớ giết người” đặt ra một giới hạn rõ ràng để bảo vệ giá trị của sự sống con người, ngày nay chúng ta cũng phải nói “Không” với một nền kinh tế loại trừ và bất bình đẳng. Một nền kinh tế như thế cũng giết chết. Sao có thể khi một người vô gia cư chết vì không được che chở thì không được kể là một tin tức, trong khi thị trường chứng khoán mất hai điểm thì lại là tin tức? Đây là một trường hợp loại trừ. Chúng ta có thể điềm nhiên đứng nhìn khi lương thực bị đổ đi trong khi có những người đang đói? Đây là một trường hợp bất bình đẳng. Ngày nay mọi thứ đều theo luật cạnh tranh và luật sinh tồn của kẻ thích hợp nhất, ở đó những kẻ có quyền lực chèn ép những người yếu thế? Hậu quả là vô số người bị loại trừ và bị gạt ra bên lề: không việc làm, không phương tiện, không có bất kỳ lối thoát nào.

Chính con người bị coi là món hàng tiêu thụ sử dụng rồi vứt bỏ. Chúng ta đã tạo ra một văn hoá “dùng một lần” hiện đang lan rộng. Không còn đơn thuần là vấn đề bóc lột và áp bức, mà là một vấn đề mới. Rốt cuộc thái độ loại trừ làm thay đổi ý nghĩa của tư cách là thành phần của xã hội chúng ta đang sống; những người bị loại trừ không còn là phần phụ thuộc hay bên lề hay bị tước quyền trong xã hội—họ thậm chí không còn là thành phần của xã hội nữa! Những người bị loại trừ không phải là những người “bị bóc lột” mà là những người bị gạt ra ngoài, những “đồ thừa”.
54. Trong bối cảnh này, một số người vẫn còn tiếp tục bênh vực các lý thuyết kiểu “lọt sàng xuống nia”, [†] cho rằng sự tăng trưởng kinh tế, được khuyến khích bởi thị trường tự do, tự nó sẽ thành công trong việc tạo ra công bằng và sự bao gồm (inclusion) nhiều hơn trong xã hội. Ý kiến này chưa bao giờ được thực tế xác nhận, nó diễn tả một niềm tin thô thiển và ngây thơ vào lòng tốt của những người nắm giữ quyền lực kinh tế và các thao tác được thần thánh hoá của hệ thống kinh tế chủ đạo. Trong khi đó những người bị loại trừ vẫn đang chờ đợi. Để duy trì một lối sống loại trừ người khác, hay duy trì sự phấn khích với lý tưởng ích kỷ ấy, một hiện tượng toàn cầu hoá của sự dửng dưng đã phát triển. Hầu như vô tình, rốt cuộc chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng kêu của người nghèo, không còn có thể khóc trước nỗi đau của người khác hay cảm thấy cần cứu giúp họ, coi như tất cả đều là trách nhiệm của một ai khác chứ không phải của chính chúng ta. Văn hoá của sự thịnh vượng làm chúng ta mất đi sự mẫn cảm; chúng ta phấn khích nếu thị trường cung cấp cho chúng ta một món hàng mới; trong khi tất cả những mảnh đời cằn cỗi vì thiếu cơ hội có vẻ chỉ là một cảnh tượng bình thường, không hềlàm chúng ta mủi lòng.
Nói không với ngẫu thần mới là tiền bạc

55. Một nguyên nhân của tình huống này được thấy trong mối quan hệ của chúng ta với tiền bạc, vì chúng ta thản nhiên chấp nhận sự thống trị của nó trên chúng ta và các xã hội của chúng ta. Cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có thể làm chúng ta không để ý tới sự kiện nó phát sinh trong một khủng hoảng sâu xa về con người: sự chối bỏ địa vị tối thượng của con người! Chúng ta đã tạo ra các ngẫu thần mới. Việc thờ con bò vàng thời xưa (xem Xh 32:1-35) nay đã trở lại dýới một dạng mới và sống sýợng là việc sùng bái ngẫu thần tiền bạc và sự chuyên chế của một nền kinh tế phi nhân không có một mục ðích nhân bản ðích thực. Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh toàn cầu bộc lộ rõ sự mất thăng bằng và trên hết là sự thiếu quan tâm đối với con người; con người bị giản lược vào một nhu cầu duy nhất của họ mà thôi: tiêu thụ.


56. Trong khi thu nhập của một thiểu số tăng theo cấp số nhân, thì hố ngăn cách giữa đa số với một thiểu số được hưởng sự thịnh vượng cũng tăng theo cấp số nhân. Tình trạng chênh lệch này là kết quả của các hệ tư tưởng muốn bảo vệ độc lập tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chánh. Hậu quả là chúng phủ nhận mọi quyền kiểm soát của các nhà nước vốn có trách nhiệm lo cho công ích. Thế là sinh ra một thứ chuyên chế mới, vô hình và thường là hư hư ảo ảo, nó đơn phương và tàn nhẫn áp đặt những luật pháp và qui tắc riêng của nó. Các món nợ và lãi tích luỹ cũng làm cho các quốc gia khó thể hiện tiềm năng nền kinh tế riêng của họ để giúp các công dân nước họ được hưởng sức mua thực sự của họ. Cũng còn phải kể thêm tình trạng tham nhũng và trốn thuế tràn lan vì ích kỷ, nay đã ở cấp độ toàn cầu. Khát vọng quyền lực và của cải là vô giới hạn. Trong hệ thống này, với khuynh hướng xâu xé bất cứ cái gì cản đường cho sự gia tăng lợi nhuận, những thực tại mong manh, như môi trường chẳng hạn, hoàn toàn không có khả năng tự vệ trước những lợi ích của một thị trường được thần thánh hoá và trở thành qui luật duy nhất.
Nói không với một hệ thống tài chánh thống trị thay vì phục vụ

57. Đằng sau thái độ này ẩn chứa một sự chối bỏ đạo đức và chối bỏ Thiên Chúa. Đạo đức được nhìn với con mắt khinh bỉ chế nhạo. Người ta coi đạo đức là phi sản xuất, quá nhân đạo, vì nó coi tiền bạc và quyền lực là cái gì tương đối. Người ta cảm thấy nó là một mối đe doạ, vì nó kết án những hành vi thao túng và hạ thấp phẩm giá con người. Trên thực tế, đạo đức dẫn con người tới Thiên Chúa, Đấng kêu gọi một lời đáp dấn thân vượt ra ngoài các phạm trù của thị trường. Khi thị trường được coi là tuyệt đối, thì người ta chỉ có thể coi Thiên Chúa như là cái gì không kiểm soát được, không quản lý được, thậm chí nguy hiểm, vì Thiên Chúa kêu gọi con người thể hiện đầy đủ bản thân và tự do khỏi mọi hình thức nô lệ. Đạo đức—một thứ đạo đức phi ý thức hệ—có thể đem lại sự cân bằng và một trật tự xã hội nhân đạo hơn. Với những ý tưởng này, tôi khuyến khích các chuyên gia tài chánh và các chính khách suy gẫm những lời của các bậc hiền nhân thời xưa: “Không chia sớt của cải với người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải của riêng chúng ta, mà là của họ”.[55]


58. Một sự cải cách tài chánh theo các suy tư đạo đức như thế đòi hỏi các nhà lãnh đạo chính trị phải thay đổi mạnh mẽ cách tiếp cận. Tôi khuyến khích họ đối diện với thách thức này bằng sự quyết tâm và một cái nhìn về tương lai, đồng thời không bỏ qua những yếu tố cụ thể của từng trường hợp. Tiền phải phục vụ, không phải cai trị! Giáo hoàng yêu thương mọi người, người giàu cũng như người nghèo, nhưng ngài buộc phải nhân danh Đức Kitô nhắc nhở mọi người rằng những người giàu phải giúp đỡ, tôn trọng và thăng tiến người nghèo. Tôi khuyên anh chị em có tình liên đới quảng đại và đưa kinh tế và tài chánh trở về với một phương thức đạo đức phục vụ lợi ích con người.
Nói không với tình trạng bất bình đẳng, nguồn gốc của bạo lực

59. Ngày nay tại nhiều nơi chúng ta nghe thấy tiếng kêu gọi phải có an ninh hơn. Nhưng bao lâu tình trạng loại trừ và bất bình đẳng trong xã hội còn chưa được đảo ngược, thì không thể nào xoá bỏ bạo lực. Người nghèo và các dân tộc nghèo bị tố cáo sử dụng bạo lực, nhưng nếu không có các cơ hội bình đẳng thì các hình thức gây hấn và xung đột khác nhau sẽ tìm được mảnh đất mầu mỡ để phát triển và bùng nổ. Khi một xã hội—địa phương, quốc gia, hay thế giới—muốn gạt ra bên lề một thành phần của mình, thì không một chương trình hay nguồn lực chính trị nào dành cho việc thực thi pháp luật hay các hệ thống giám sát có thể bảo đảm vĩnh viễn sự an bình. Không chỉ đơn giản vì sự bất bình đẳng khơi dậy một phản ứng bạo lực từ những người bị loại trừ khỏi hệ thống, nhưng là vì hệ thống kinh tế-xã hội là bất công tận gốc. Cũng như sự tốt lành có xu hướng lan toả, việc dung túng sự ác, nghĩa là bất công, có khuynh hướng mở rộng ảnh hưởng độc hại của nó và âm thầm huỷ hoại mọi hệ thống chính trị và xã hội, bất kể hệ thống ấy có vẻ vững chắc đến đâu. Nếu mọi hành động đều có những hậu quả của chúng, thì một sự ác nằm trong các cơ cấu của một xã hội cũng có một tiềm năng phá hoại và huỷ diệt lâu dài. Nó chính là sự xấu được kết tinh trong những cơ cấu xã hội bất công, và không thể là cơ sở để hi vọng một tương lai tốt đẹp hơn. Chúng ta còn ở xa cái gọi là “tận cùng của lịch sử”, vì các điều kiện cho một sự phát triển bền vững và hoà bình vẫn chưa được thấy rõ và thể hiện đầy đủ.


60. Ngày nay các cơ chế vận hành kinh tế cổ xuý việc tiêu thụ quá mức, nhưng rõ ràng chủ nghĩa tiêu thụ xả láng kết hợp với tình trạng bất bình đẳng làm cho cơ cấu xã hội bị huỷ hoại gấp hai lần. Bất bình đẳng sẽ sinh ra bạo lực sử dụng vũ khí và sẽ không bao giờ có thể giải quyết được. Nó chỉ có thể tạo ra hi vọng giả tạo cho những người kêu gọi gia tăng an ninh, mặc dù ngày nay chúng ta biết rằng các vũ khí và bạo lực không hề giúp tìm ra giải pháp, mà chỉ tạo ra những xung đột mới và nghiêm trọng hơn. Một số người bằng lòng với việc chỉ trích những người nghèo và các quốc gia nghèo vì là nguồn gốc của các rắc rối; bằng những sự khái quát hoá vô căn cứ, họ cho rằng giải pháp phải là “giáo dục” để xoa dịu những người nghèo, thuần hoá họ và làm họ trở thành vô hại. Tất cả quan điểm này càng làm cho những người bị loại trừ cảm thấy tức giận khi chứng kiến tình trạng tham nhũng tràn lan và ăn rễ sâu tại nhiều quốc gia—trong các chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức—bất kể xu hướng chính trị của các nhà lãnh đạo của họ là gì.
Các thách thức văn hoá

61. Chúng ta cũng loan báo Tin Mừng khi cố gắng đối mặt với các thách thức có thể xuất hiện.[56] Có khi những thách thức này có thể đến dưới dạng những cuộc tấn công thực sự vào tự do tôn giáo hay những cuộc bách đạo mới nhắm vào người Kitô hữu; tại một số nước, tình trạng này đã tới mức báo động của sự căm thù và bạo lực. Tại nhiều nơi, thách thức nổi trội hơn là sự lan rộng của chủ nghĩa dửng dưng và chủ nghĩa tương đối, gắn liền với sự thất vọng và khủng hoảng ý thức hệ bắt nguồn từ một phản ứng chống lại bất cứ cái gì có vẻ là độc tài. Tình trạng này không chỉ làm hại Hội Thánh mà cũng làm hại toàn thể xã hội. Chúng ta phải nhận ra rằng, trong một nền văn hoá mà mỗi người chỉ muốn chấp nhận sự thật chủ quan của mình, thì sẽ khó biết bao để các công dân tìm ra được một kế hoạch chung vượt lên trên các lợi ích riêng tư và các tham vọng cá nhân.


62. Trong nền văn hoá đang thịnh hành, thế thượng phong được dành cho cái bề ngoài, cái trực tiếp, cái có thể thấy được, cái nhanh, cái phù phiếm và cái tạm bợ. Cái thật nhường chỗ cho cái ảo. Tại nhiều nước, toàn cầu hoá có nghĩa là một sự đẩy nhanh tiến trình suy yếu các gốc rễ văn hoá truyền thống và sự xâm nhập các lối suy nghĩ và hành động của các nền văn hoá khác tiến bộ hơn về mặt kinh tế nhưng yếu kém hơn về đạo đức. Sự kiện này đã được nêu lên bởi các giám mục từ nhiều châu lục tại các Thượng Hội Đồng khác nhau. Các giám mục Châu Phi, chẳng hạn, khi đọc Thông Điệp Sollicitudo Rei Socialis, đã vạch ra từ nhiều năm trước rằng người ta đã thường xuyên tìm cách biến các nước Châu Phi thành “những bộ phận của một cái máy, những vòng răng trên một cái bánh răng khổng lồ. Điều này cũng đúng trong lãnh vực truyền thông xã hội, chủ yếu được điều hành bởi các trung tâm tại bắc bán cầu, nó không quan tâm đầy đủ đến các ưu tiên và các vấn đề của các nước như thế, hay không tôn trọng bản chất của các nền văn hoá ấy”.[57] Tương tự, các giám mục Châu Á cũng “nêu lên những ảnh hưởng bên ngoài đang tác động đến các nền văn hoá Á Châu. Các mẫu hành vi mới đang xuất hiện như là kết quả của việc chịu ảnh hưởng quá nhiều vào các phương tiện truyền thông xã hội... Hậu quả là các khía cạnh tiêu cực của các công nghệ truyền thông và giải trí đang đe doạ các giá trị truyền thống, đặc biệt đe doạ sự thánh thiêng của hôn nhân và sự bền vững của gia đình”.[58]
63. Đức tin Công Giáo của nhiều người ngày nay đang bị thách thức bởi sự nở rộ các phong trào tôn giáo, một số có khuynh hướng cực đoan trong khi một số khác đề nghị một linh đạo không có Thiên Chúa. Một mặt, đây là một phản ứng của con người trước một xã hội duy vật, tiêu thụ và cá nhân chủ nghĩa, nhưng mặt khác, đây cũng là một sự khai thác sự yếu đuối của những người sống trong nghèo khổ và bên lề xã hội, những người đang tranh đấu để sinh tồn trong tình trạng đau khổ nặng nề của con người và đang tìm những giải pháp trước mắt cho các nhu cầu của họ. Không thiếu sự sắc sảo, các phong trào tôn giáo này xuất hiện, trong một bối cảnh văn hoá đậm nét cá nhân chủ nghĩa, để lấp đầy khoảng trống do chủ nghĩa duy lý thế tục để lại. Chúng ta phải nhìn nhận rằng, sở dĩ một phần các tín hữu đã rửa tội của chúng ta thiếu ý thức thuộc về Hội Thánh, đó cũng là do một số cơ cấu và một số bầu khí thiếu thân thiện cởi mở tại một số giáo xứ và cộng đồng của chúng ta, hoặc cũng do tính quan liêu trong cách xử lý các vấn đề đơn sơ hay phức tạp trong đời sống các tín hữu của chúng ta. Tại nhiều nơi, phương thức quản trị lấn lướt phương thức mục vụ, cũng như sự tập trung vào việc ban các bí tích tách rời với các hình thức truyền giáo khác.
64. Tiến trình tục hoá có khuynh hướng giản lược đức tin và Hội Thánh vào lãnh vực cá nhân và riêng tư. Hơn nữa, bằng việc phủ nhận cái siêu việt, nó làm cho đạo đức ngày càng xuống cấp, ý thức của cá nhân và tập thể về tội lỗi suy yếu dần, và chủ nghĩa tương đối ngày càng gia tăng. Tình trạng này dẫn đến một sự mất phương hướng chung, đặc biệt ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên vốn là tuổi rất dễ bị tổn thương do sự thay đổi. Như các giám mục Hoa Kỳ đã vạch ra một cách chí lý, trong khi Hội Thánh nhấn mạnh sự tồn tại của các qui tắc đạo đức khách quan có giá trị cho mọi người, thì lại “có những người trong nền văn hoá của chúng ta mô tả giáo huấn này là không đúng, nghĩa là chống lại các quyền cơ bản của con người. Những tuyên bố loại này thường đi theo một dạng chủ nghĩa tương đối về đạo đức, và một cách bất nhất, kèm theo một niềm tin vào các quyền tuyệt đối của các cá nhân. Quan niệm này coi Hội Thánh như là nơi cổ vũ một thành kiến riêng và can thiệp vào tự do của cá nhân”.[59] Chúng ta đang sống trong một xã hội lệ thuộc thông tin không ngừng dội xuống chúng ta đủ loại dữ liệu—tất cả đều được coi là quan trọng như nhau—và dẫn tới tình trạng hời hợt trong lãnh vực nhận thức đạo đức. Đáp lại, chúng ta cần cung cấp một nền giáo dục dạy lối suy nghĩ có phê bình và khuyến khích phát triển các giá trị đạo đức trưởng thành.
65. Bất chấp làn sóng tục hoá đã quét qua các xã hội chúng ta, tại nhiều nước—ngay cả những nước mà người Kitô hữu chỉ là thiểu số—Hội Thánh Công Giáo được công luận coi là một tổ chức khả tín, và được tin cậy vì sự liên đới và quan tâm tới những người cùng khổ. Hội Thánh không ngừng hành động như một người trung gian trong việc tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề liên quan tới hoà bình, hoà hợp xã hội, đất đai, bảo vệ sự sống, nhân quyền và dân quyền, v.v…. Và các trường học và đại học công giáo trên khắp thế giới đã đem lại biết bao lợi ích! Đây là điều rất tốt. Thế nhưng chúng ta còn gặp khó khăn trong việc làm cho dân chúng thấy rằng khi chúng ta nêu lên những vấn đề khác không hợp sở thích của công luận, chúng ta làm việc này chính là vì trung thành với cùng những xác tín về phẩm giá con người và lợi ích chung.
66. Gia đình đang trải nghiệm một khủng hoảng văn hoá sâu xa, và mọi cộng đồng và quan hệ xã hội cũng thế. Trong trường hợp gia đình, sự suy yếu các mối quan hệ này đặc biệt nghiêm trọng vì gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, ở đó chúng ta học cách sống với người khác bất chấp các khác biệt giữa chúng ta, và học cách thuộc về lẫn nhau; gia đình cũng là nơi cha mẹ truyền thụ đức tin cho con cái. Hôn nhân bây giờ có khuynh hướng được coi như một hình thức thoả mãn tình cảm đơn thuần và có thể được xây dựng bằng mọi hình thức hoặc thay đổi tuỳ ý. Nhưng sự đóng góp thiết yếu của hôn nhân cho xã hội vượt lên trên các tình cảm và các nhu cầu của đôi vợ chồng. Như các giám mục Pháp đã dạy, hôn nhân không phát sinh “từ cảm xúc yêu đương, theo định nghĩa có tính phù du, nhưng từ nghĩa vụ sâu xa được chấp nhận bởi đôi vợ chồng ưng thuận đi vào một sự hiệp thông đời sống trọn vẹn”.[60]
67. Chủ nghĩa cá nhân của thời hậu hiện đại và toàn cầu hoá của chúng ta tạo điều kiện cho một nếp sống làm suy yếu sự phát triển và vững bền của các mối tương quan nhân vị và làm biến dạng các mối dây ràng buộc gia đình. Hoạt động mục vụ cần làm sáng tỏ hơn sự thật rằng mối quan hệ của chúng ta với Cha đòi hỏi và khuyến khích một sự hiệp thông giúp chữa lành, cổ vũ và tăng cường các mối quan hệ giữa người với người. Trong thế giới chúng ta, đặc biệt trong một số nước, các hình thức chiến tranh và xung đột đang xuất hiện trở lại, nhưng người Kitô hữu chúng ta vẫn kiên trì trong ý muốn tôn trọng người khác, chữa lành các vết thương, bắc cầu, tăng cường các mối quan hệ và “chịu đựng gánh nặng của nhau” (Gl 6:2). Ngày nay cũng vậy, nhiều loại hiệp hội khác nhau nhẳm bảo vệ các quyền và theo đuổi các mục tiêu cao quí đang được lập ra. Đây là dấu hiệu cho thấy ước muốn của nhiều người muốn đóng góp cho sự tiến bộ văn hoá và xã hội.

Các thách thức cho việc hội nhập đức tin


68. Nền tảng Kitô giáo của một số dân tộc—đa phần ở Phương Tây—là một thực tại sống động. Ở đây chúng ta tìm thấy, đặc biệt giữa những người thiếu thốn nhất, một nguồn lực đạo đức giúp họ giữ gìn các giá trị của một nền nhân bản Kitô giáo đích thực. Nhìn thực tại bằng con mắt đức tin, chúng ta không thể không nhìn nhận những gì mà Chúa Thánh Thần đang gieo. Chúng ta sẽ tỏ ra thiếu tin tưởng vào hoạt động tự do và hào phóng của Chúa Thánh Thần nếu chúng ta nghĩ rằng các giá trị Kitô giáo đích thực đang vắng bóng tại những nơi mà rất nhiều người đã rửa tội đang biểu lộ đức tin và tình liên đới với người khác bằng nhiều cách khác nhau. Có nghĩa là ta không chỉ nhìn nhận những “hạt giống lời Chúa” rải rác đó đây, mà hơn thế nữa, đây là một đức tin Kitô giáo đích thực với các cách biểu hiện riêng và các phương tiện cho thấy mối quan hệ của nó với Hội Thánh. Không thể coi nhẹ tầm quan trọng của một nền văn hoá thấm nhuần đức tin; trước sức tấn công của chủ nghĩa thế tục, một nền văn hoá được phúc âm hoá, tuy có những giới hạn của nó, nhưng nó cũng có rất nhiều nguồn lực chứ không chỉ đơn thuần là tổng dân số tín hữu. Một nền văn hoá bình dân được phúc âm hoá bao hàm những giá trị của đức tin và tình liên đới có sức khuyến khích sự phát triển của một xã hội công bằng và có niềm tin hơn, và chứa đựng một sự khôn ngoan mà chúng ta phải nhìn nhận với lòng biết ơn.
69. Chúng ta có bổn phận phúc âm hoá các nền văn hoá để đưa Tin Mừng vào văn hoá. Tại các nước có truyền thống Công Giáo, chúng ta có bổn phận khuyến khích, nuôi dưỡng và tăng cường một sự phong phú vốn đã có rồi. Tại các nước có các truyền thống tôn giáo khác, hay các nước tục hoá sâu đậm, chúng ta có bổn phận mở ra những tiến trình mới để phúc âm hoá nền văn hoá, mặc dù công việc này đòi hỏi một kế hoạch dài hạn. Tuy nhiên chúng ta phải lưu ý rằng, chúng ta không ngừng được mời gọi tăng trưởng. Mỗi nhóm văn hoá và xã hội cần được thanh tẩy và lớn lên. Trong trường hợp các nền văn hoá bình dân của dân Công Giáo, chúng ta có thể thấy những khuyết tật cần phải được chữa lành bởi Tin Mừng: thói trọng nam khinh nữ, tật nghiện rượu, bạo lực gia đình, ít đi lễ, các khái niệm về số phận hay mê tín dị đoan làm người ta chạy theo ma thuật phù phép, v.v… Chính lòng đạo bình dân có thể là một điểm xuất phát để chữa lành và thoát khỏi những khuyết tật này.
70. Cũng đúng là đôi khi chúng ta nhấn mạnh quá nhiều vào các biểu hiện bên ngoài và các truyền thống của một số nhóm, hoặc quá đề cao các mặc khải riêng thay cho mọi thứ khác, hơn là tập trung vào năng động lực của lòng đạo Kitô giáo. Có một thứ Kitô giáo được cấu tạo bởi những việc sùng mộ phản ánh một đời sống đức tin mang tính cá nhân chủ nghĩa và tình cảm, mà trên thực tế không tương ứng với một “lòng đạo bình dân” chân chính. Một số người cổ xuý các cách biểu hiện này trong khi hoàn toàn không quan tâm tới việc thăng tiến xã hội hay việc đào luyện giáo dân, và trong một số trường hợp, họ chỉ nhắm tới những lợi lộc kinh tế hay quyền lực trên những người khác. Chúng ta cũng không thể bỏ qua sự kiện trong những thập niên gần đây đã có một sự suy thoái trong cách mà người Công Giáo truyền thụ đức tin cho giới trẻ. Không thể phủ nhận rằng nhiều người cảm thấy thất vọng và không còn nhận mình thuộc về truyền thống công giáo nữa. Ngày càng nhiều bậc cha mẹ không cho con chịu phép rửa hoặc dạy con cầu nguyện. Cũng có hiện tượng nhiều người bỏ sang các đạo khác. Các nguyên nhân của sự suy sụp này bao gồm: thiếu cơ hội đối thoại trong gia đình, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, chủ nghĩa tương đối chủ quan, chủ nghĩa tiêu thụ vô độ chỉ làm giàu cho thị trường, thiếu chăm sóc mục vụ cho người nghèo, các tổ chức của chúng ta không thu hút, và chúng ta gặp khó khăn trong việc khôi phục một sự gắn bó nhiệm mầu với đức tin trong một bối cảnh đa nguyên tôn giáo.
Các thách thức từ nền văn hoá đô thị

71. Giêrusalem mới, Thành Thánh (xem Kh 21:2-4), là điểm đến mà toàn thể nhân loại đang đi tới. Chúng ta ngạc nhiên khi mặc khải của Thiên Chúa dạy rằng sự viên mãn của nhân loại và của lịch sử ðýợc thể hiện trong một thành trì. Chúng ta cần phải nhìn vào các thành phố của chúng ta với một cái nhìn chiêm niệm, một cái nhìn đức tin thấy Thiên Chúa cư ngụ trong các ngôi nhà, các đường phố, các công viên. Sự hiện diện của Thiên Chúa nâng đỡ các cố gắng của các cá nhân và tập thể để tìm được sự khích lệ và ý nghĩa trong đời họ. Ngài cư ngụ giữa họ, nuôi dưỡng tình liên đới, tình huynh đệ, và ước muốn sự thiện, sự thật và công lý. Sự hiện diện của Ngài không phải được tạo ra, mà phải được tìm kiếm, được phát hiện. Thiên Chúa không giấu mình với những ai thành tâm kiếm tìm Người, dù họ tìm kiếm một cách mò mẫm, mơ hồ và cầu may.


72. Tại các đô thị, khác với tại nông thôn, chiều kích tôn giáo của đời sống được biểu lộ bằng những cách sống khác nhau, những nhịp độ sống thường nhật khác nhau tuỳ nơi và tuỳ người. Trong đời sống hằng ngày, người dân thường phải đấu tranh để sinh tồn và cuộc đấu tranh này chứa đựng một sự hiểu biết sâu xa về cuộc đời mang đậm một ý thức tôn giáo. Chúng ta phải xem xét vấn đề này kỹ hơn để có khả năng đi vào một cuộc đối thoại giống như cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng, nơi chị tìm nước để giải cơn khát (xem Ga 4:1-15).
73. Các nền văn hoá mới đang không ngừng xuất hiện trong những không gian mới rộng lớn này, ở đó người Kitô hữu không còn là những người giải thích hay tạo ra ý nghĩa giống như trước kia. Ngược lại, chính họ lấy từ các nền văn hoá này những ngôn ngữ, những biểu tượng, những thông điệp và những hệ hình mới đề xuất những cách tiếp cận mới với cuộc đời, những cách tiếp cận thường tương phản với Tin Mừng của Chúa Giêsu. Một nền văn hoá hoàn toàn mới đã sinh ra và tiếp tục lớn lên trong các đô thị. Thượng Hội Đồng lưu ý rằng hôm nay các thay đổi đang diễn ra trong các không gian rộng lớn này và các nền văn hoá mà chúng tạo ra là một nơi ưu tiên để loan báo Tin Mừng.[61] Điều này thách thức chúng ta phải sáng tạo ra những không gian và điều kiện mới thuận lợi cho việc cầu nguyện và hiệp thông, sao cho chúng hấp dẫn và có ý nghĩa hơn đối với các cư dân đô thị. Qua ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông, các vùng nông thôn đang chịu sự tác động của cùng những thay đổi văn hoá này, khiến cho họ cũng thay đổi một cách đáng kể cách sống của họ.
74. Việc phải làm là một cuộc loan báo Tin Mừng có khả năng dọi ánh sáng vào những cách thức mới trong mối liên hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và với thế giới xung quanh chúng ta, và khơi dậy những giá trị cơ bản. Nó phải đến được những nơi mà các lối kể truyện và các hệ hình đang hình thành, đem lời Chúa Giêsu đến tận tầng thâm sâu nhất của tâm hồn các thành phố chúng ta. Các thành phố đều mang tính đa văn hoá; tại các thành phố lớn, có một mạng nối kết để các nhóm người chia sẻ với nhau sức tưởng tượng và các ước mơ về cuộc đời, và các mối tương tác mới giữa người với người cũng phát sinh, các văn hoá mới, các thành phố vô hình. Các nền văn hoá phụ cũng xuất hiện bên nhau, chúng thường mang tính chất kỳ thị và bạo lực. Hội Thánh được kêu gọi phục vụ một cuộc đối thoại khó khăn. Một mặt, có những người có các điều kiện cần thiết để phát triển cuộc sống cá nhân và gia đình của họ, nhưng mặt khác cũng có nhiều người không được gọi là công dân, những “công dân hạng hai”, và những “cặn bã đô thị”. Các đô thị tạo ra một loại mâu thuẫn trường kỳ, vì trong khi chúng cống hiến cho cư dân của chúng vô vàn khả thể, chúng đồng thời cũng tạo ra rất nhiều cản trở cho sự phát triển đầy đủ cuộc sống của họ. Tình trạng mâu thuẫn này gây nên sự đau đớn. Tại nhiều vùng trên thế giới, các thành phố là sân khấu của các cuộc phản kháng quần chúng, ở đó hàng ngàn người đứng lên kêu gọi tự do, có tiếng nói trong đời sống công cộng, công lý và đủ loại các đòi hỏi khác mà nếu không được hiểu đúng, thì vũ lực cũng không thể giải quyết.
75. Chúng ta không thể làm ngơ trước sự kiện tại các thành phố đang diễn ra nạn buôn người, buôn bán chất ma tuý, lạm dụng và bóc lột trẻ em, quên lãng người già và người tàn tật, và nhiều hình thức tham nhũng và hoạt động tội phạm. Đồng thời, những nơi mà lẽ ra phải là chỗ gặp gỡ và liên kết thì thường lại trở thành những nơi cách ly và nghi kỵ lẫn nhau. Các nhà cửa và các khu láng giềng thường được xây dựng để có thể cách ly và bảo vệ hơn là để liên kết và hoà hợp. Rao giảng Tin Mừng sẽ là một cơ sở để khôi phục phẩm giá con người trong những bối cảnh này, vì Chúa Giêsu muốn tuôn đổ dồi dào sự sống xuống các thành phố của chúng ta (xem Ga 10:10). Ý nghĩa thống nhất và đầy đủ của đời sống con người mà Tin Mừng đề nghị là phương thuốc cho những căn bệnh của các đô thị chúng ta, mặc dù chúng ta phải nhìn nhận rằng một chương trình đồng nhất và cứng nhắc về phúc âm hoá thì không phù hợp với thực tại phức tạp này. Nhưng chúng ta sẽ trở thành những Kitô hữu tốt hơn và mang lại lợi ích cho các đô thị nếu chúng ta sống trọn vẹn đời sống con người và đối diện với mọi thách thức như là men để làm chứng cho Tin Mừng trong mọi nền văn hoá và mọi đô thị.


Каталог: mfiles -> data

tải về 0.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương