Nội dung số này



tải về 12.44 Mb.
trang7/11
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích12.44 Mb.
#33723
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

VI TRẦN
có một chấm như vi trần
lấm lem ta từ tiến kiếp
có một người đem mùa xuân
ươm vào mộng ta rất đẹp

nắng xa chiều, hạt bụi rơi


trên thời gian theo con nước
sông chia bờ chảy giữa đời
tình xa người, ta lội ngược

khi mái tóc không rẽ ngôi


bàn tay nào biết cầm lược
chải cho xanh nhánh mộng đời
chuyện tình yêu mất và được

cũng là bụi, là mộng thôi


có lẽ vì ta nhút nhát
khi hạt bụi vỡ làm đôi,
vỡ làm ba vẫn khao khát...

có ba chấm như vi trần


lăn theo ta mãi về sau
có một ngưòi còn băn khoăn
e ngại ta trái tim đau...

có câu hỏi về hạt bụi


đã bao lần... ướt mắt ta?
(có hạt bụi còn chưa thổi
đã bao lần xốn đời ta...)


NGUYỆT VỠ
rằng xưa ai thả con diều
diều bay theo gió giữa chiều tím rơi

rằng nay tình đã xa xôi


tình không có cánh nhưng loài biết bay

đêm ơi đêm nếu có hay


xin đừng gợi nhớ lời ngày yêu đương

đêm ơi đêm nếu có sương


xin cho tôi gửi trong vườn ánh trăng

ai ơi tình mãi băn khoăn


nên vầng nguyệt nhả sương lăn xuống rồi

hạt sương nghiền nát tuổi tôi


điểm lên mái tóc đếm hoài chưa xong

đêm nay tình rớt xuống sông


tắm cùng tuế nguyệt một giòng bạc trôi

ô hay tình với trăng ngời


tuổi đời so sánh đầy vơi rất vừa...

xưa đem tình với trăng mùa


kết thành chuỗi ước ngàn xưa vẫn bền

nhưng đêm nay gió bên thềm


hát lời nguyệt vỡ tình chìm đáy sông ...

(hát lời nguyệt vỡ... trăng chìm lỉm tôi ...)


.....


ÂN ĐỀN OÁN TRẢ


tiểu luận Võ Doãn Nhẫn



1.- Thiết nghĩ người viết cần có một minh định danh từ bổn phận và trách nhiệm. Hình như có một ngộ nhận về bổn phận và về trách nhiệm. Theo công ý (sens commun), bổn phận và trách nhiệm đồng nghĩa. Trách nhiệm công dân. Trách nhiệm chu toàn nghĩa vụ quân dịch. Một người vô trách nhiệm. "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" Ở đây, trách nhiệm công dân là bổn phận của người dân, trách nhiệm chu toàn nghĩa vụ quân dịch là bổn phận của người dân, của một thanh niên phải chu toàn: bảo vệ giang sơn tổ quốc, giữ gìn bờ cõi. Một người vô trách nhiệm là một người không quan tâm, không biết mình có bổn phận phải hoàn thành.Nước nhà có hưng có phế, có thành có mất, kẻ thường dân dù có học dù vô học đều có bổn phận.

Một khi cá nhân có bổn phận phải hoàn thành, cá nhân ấy ắt có trách nhiệm đối với bổn phận ấy. Trách nhiệm (la responsabilité) là tính cách của một người phải trả lời về hành vi của mình, tức người ấy chính là tác giả của hành vi mình, và phải chịu hậu quả hành vi ấy. Tôi chịu trách nhiệm về việc lái xe vi phạm luật lệ giao thông, về việc lái xe gia tăng tốc độ, về việc đã gây nên tại nạn cho người đi đường vì lái xe ẩu. Theo quan điểm nhà Phật, mỗi chúng sinh một khi đã tạo "nghiệp", lẽ đương nhiên chúng sinh ấy phải trả "nghiệp ". Một khi trả hết nghiệp chồng chất từ muôn triệu kiếp, chúng sinh sẽ trả sạch "nghiệp." Nói theo chế tài, từ ngữ chuyên môn của sự thưởng phạt, hậu quả tất nhiên của việc vi phạm trong lúc lái xe hoặc đã vô tình hay cố ý gây ra tai nạn. Quan niệm người Hy Lap cổ cho rằng sự thưởng phạt có tính cách hình thức, quít làm cam phải chịu, mắt đổi mắt (oeil pour oeil), răng đổi răng (dent pour dent). Luật pháp sẽ đưa tội nhân móc một mắt, sẽ bẻ một cái răng nếu tội nhân mắc tội tương đương. As you sow, you will reap. Anh đã gieo nhân thì anh sẽ gặt quả. Luật pháp ngày xưa sẽ bị kết tội tru di tam tộc nếu tội nhân bị kết án phạm tội thí quân, tức giết vua. Con cừu non bị con chó sói kết án vì cừu non "làm đục giòng suối sói đang uống nước, vì anh em hoặc bà con của cừu." Ấn Độ giáo tin rằng con người sẽ rửa sạch tội một khi con người đã tắm rửa sông Hằng (Nếu quả vậy thì những con cá sấu ăn vô số thịt người cũng được rửa sạch tội lỗi nếu chúng tiếp tục bơi lội trên sông Hằng!). Một tội nhân bị kết án tử hình vắng mặt vào thời cổ Hi Lạp, một bức hình hay một pho tượng của tội nhân ấy bị quăng xuống sông như thể đao phủ thủ thi hành bản án tử hình đã được thực hiện. Một người hình nộm bị đem bêu diếu trên xe hoặc trên một đám đông đã bị kết án theo kiểu tượng trưng. Thần tượng bấy nay được suy tôn trọng vọng tôn thờ đã bị sụp đổ. Mồ mả lăng tẩm các vì vua chúa trong triều đại trước bị khai quật, được đưa vô ngục thất để các tù nhân dễ bề tiểu tiện ỉa đái. Dự Nhượng vào thời Chiến Quốc, xin kẻ thù không đội trời chung là Triệu Tương Tử cho mượn chiếc long bào để gọi là báo thù cho Trí Bá, vốn cũng là kẻ thù không đội trời chung của Triệu Tương Tử. Khi long bào được Triệu Tương Tử ném cho, Dự Nhượng múa gươm đâm nát long bào, Dự Nhượng reo to hả dạ: "Ta đã báo thù được Trí Bá" (Dự Nhượng đả long bào).



2.- Quãng đời Thúy Kiều là một chuỗi đoạn trường tiếp nối dài dài, từ việc báo hiếu bán mình chuộc cha đến cơ duyên được Giác Duyên cứu sống trên sông Tiền Đường trả hết nghiệp, khoảng cách không gian thăm thẳm ngàn trùng, khoảng cách thời gian mười lăm năm lưu lạc, một cuốn phim được quay nhanh chỉ trong khoảnh khắc. Việc nhớ ân oán giang hồ nhiều không kể xiết, chỉ nêu họ tên một vài nhân vật điển hình, đó là Thúc Kỳ Tâm tức Thúc Sinh và sư Giác Duyên. Tiếp theo là Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Ưng Khuyển, sau cùng là "con quan Lại Bộ tên là Hoạn Thư." Sau đây là một đoạn thơ của Nguyễn Du kể lại và đền đáp ân tình ân nghĩa của Thúc Kỳ Tâm và của Giác Duyên:

Cho gươm mời đến Thúc lang,

Mặt như chàm đổ, mình dường giẻ run.

Nàng rằng: "Nghĩa trọng tình non,

Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không?

Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,

Tại ai há dám phụ lòng cố nhân.

Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,

Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,

Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.

Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

Thúc sinh trông mặt bấy giờ,

Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.

Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,

Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.

Mụ già sư trưởng thứ hai,

Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên.

Dắt tay mở mặt cho nhìn:

"Hoa nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.

Nhớ khi lỡ bước sẩy vời,

Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.

Nghìn vàng chút gọi lễ thường,

Mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân

Hai người trông mặt tần ngần,

Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.

Nàng rằng: Xin hãy rốn ngồi,

Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù.
Từ trước, Thúc Kỳ Tâm vốn là một thương gia, cuộc sống thong thả có phần phóng khoáng tiền bạc rộng rãi tài chính dễ dàng, bỏ tiền ra chuộc gái lầu xanh về nhà tiếp tục cuộc sống lửa hương nhưng vụng trộm, Kiều nhận biết điều ấy và tỏ ra biết ơn chuộc mạng thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng buôn người bán thịt. "Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là." Sư Giác Duyên cũng là một ân nhân quý hoá của Kiều ra tay cứu vớt khách má hồng trong hoàn cảnh rất mực ngặt nghèo nguy khổn tại Chiêu Ẩn Am, nhưng sức người tu hành là "sư chị" tức Giác Duyên có hạn vội vội vàng vàng đem ký gửi một nhà người quen không ngờ lại sa vào một tổ chức vẫn quen buôn thịt bán người. Nhưng dù thế nào mặc lòng, từ tâm sư Giác Duyên là người đáng được Kiều mang ơn xứng được đền đáp: "Nghìn vàng chút gọi lễ thường, mà lòng Phiếu mẫu mấy vàng cho cân." "Dĩ đức báo đức," lấy ân nghĩa đền đáp lại công đức, đó là quan niệm của triết gia hình nhi thượng học Lão Đam vậy.

Cổ học Tinh hoa kể lại rằng có một nhà nông cùng mấy người con sinh sống bằng nghề trồng dưa. Một nhà nông khác cũng sinh nhai bằng nghề trồng dưa. Đám ruộng trồng dưa của nhà nông thứ nhất xem ra có vẻ tươi tốt hơn đám ruộng dưa của nhà nông thứ hai khiến nhà nông thứ hai cùng mấy người con đem lòng ghen ghét ganh tị. Thấy đám ruộng dưa của người nông dân thứ nhất ngày nào cũng dược tưới cây chăm sóc cẩn thận trong lúc đám ruộng dưa của người nông dân thứ hai không được chăm bón, đất khô cằn không người tưới nước, bầy con lựa lúc ban đêm tối trời rủ nhau ra ruộng dưa lẻn nhổ tung lên những bụi dưa ngổn ngang trên đất. Sáng hôm sau, gia đình nhà nông nhìn thấy cảnh tàn phá ngổn ngang trên ruộng dưa, giận lắm, biết ngay đám con nông dân thứ hai là thủ phạm, rắp tâm trả thù, nhưng người cha không cho phép. Đêm đến, người nông dân sai các con ra ruộng dưa của người nông dân thứ hai quét dọn làm cỏ sạch sẽ, đoạn sai các con xách thùng cạnh bờ giếng đổ đầy nước ra ruộng tưới dưa, đêm nào cũng thế. Ban đầu, gia đình nông dân thứ hai lấy làm ngạc nhiên không hiểu duyên cớ làm sao, về sau mới vỡ lẽ: thay vì ăn miếng trả miếng phá hoại ruộng dưa, gia đình nông dân thứ nhất đã đáp lễ bằng cách tưới dưa cho người.

Cảm thấy xấu hổ, tự then với lương tâm, người nông dân thứ hai quyết định phục hồi thành quả ruộng dưa bằng cách làm cỏ và tưới ruộng dưa gọi là chuộc tội mối xích mích oán thù dạo nọ, dĩ đức báo đức.

Kíp truyền chư tướng hiến phù,



Lại đem các tích phạm tù hậu tra.

Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,

Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.

Thoắt trông nàng đã chào thưa:

"Tiểu thư cũng có bây giờ ở đây!

Đàn bà dễ có mấy tay,

Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan?

Dễ dàng là thói hồng nhan,

Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

Hoạn Thư phách lạc hồn xiêu,

Khấu đầu dưới trướng dở điều kêu ca.

Rằng: tôi chút phận đàn bà,

Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Nghĩ cho khi các viết kinh,

Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo

Lòng riêng, riêng những kính yêu,

Chồng chung, ai dễ ai chiều cho ai.

Trót lòng gây việc chông gai,

Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?

Khen cho: "Thật đã nên rằng

Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời.

Tha ra thì cũng may đời,

Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.

Đã lòng tri quá thì nên,

Truyền quân lệnh xuống trướng liền tha ngay."

"Đã lòng tri quá thì nên." Tri quá thì nên, tri quá là ý thức đạo đức, tức biết ăn năn hối quá hối hận. Nếu đã biết hối hận ăn năn thì tốt, Kiều nên tha cho. Tha cứu được mạng sống đã là may rồi, nếu trả thù thì hóa ra là kẻ nhỏ nhen ti tiện, mang thù chuốc oán. Hoạn Thư đã tỏ ra là người sáng suốt khôn ngoan đa mưu túc trí, biết ngộ biến tòng quyền, biết nhận lỗi về phần mình và xin được tha cho khỏi chết.

Giờ đến lượt đến phiên tội đồ được phán xét phân xử buộc tội:

"Nàng rằng lồng lộng trời cao,

Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta.

Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,

Bên là Ưng Khuyển, bên là Sở Khanh.

Tú Bà với Mã Giám Sinh,

Các tên tội ấy đáng tình còn sao!

Lệnh quân truyền xuống nội đao,

Thề sao thì lại cứ sao gia hình.

Máu rơi thịt nát tan tành,

Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.

Cho hay muôn sự tại trời,

Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta.

Mấy người bạc ác tinh ma,

Mình làm mình chịu kêu mà ai thương!”

Ân nghĩa phân minh. Oan trái rạch ròi. Theo thông tục, có công thì thưởng, có tội thì trừng. Nói theo Lão Tử thì "dĩ đức báo đức", nói theo Khổng Tử thì "dĩ trực báo oán." Lão Tử nói về lòng bác ái, đức từ bi; Khổng Tử nói về lòng công minh chính trực. Khi đánh giá về thái độ tha chết cho Hoạn Thư, văn học "cách mạng" phê bình Thúy Kiều đã hành động bất thường, xem nhẹ giá trị đạo đức quần chúng dân gian. Kiều đã hành động bốc đồng, không phân biệt chính xác bạn thù. Phải biết căm thù giai cấp phong kiến tầng lớp thống trị bóc lột mà tiêu biểu điển hình là tầng lớp địa chủ trong phong trào Cải Cách Ruộng Đất từ năm 1952 đến năm 1954. Tha chết cho "ái nữ quan Lại Bộ," Kiều đã bộc lộ gốc gác nhân cách tiểu tư sản nửa mùa lạc hậu lỗi thời.

Các nhà luân lý học tin rằng "nhân chi sơ, tính bản thiện," bản tính đầu tiên con người vốn lành. Bản tính tự nhiên của Kiều vốn yêu thích làm điều thiện. Ngay từ buổi Thanh Minh, buổi hội Đạp Thanh, Kìều đã biểu lộ một tình cảm xót thương cho số phận hẩm hiu của sổ Đoạn Trường là nàng ca kỷ Đạm Tiên. Chỉ nghe Vương Quan thuật lại đoạn đời ngắn ngủi mỏng manh là nàng ca kỹ, Kiều chưa chi đã "đầm đầm châu sa" rồi, đó có phải là "nhân chi sơ tính bản thiện" của Mạnh Tử, hay là "nhân chi sơ tính bản ác" của Tăng Tử? Chỉ một đức báo hiếu, chịu hi sinh bán mình chuộc cha đủ là một gương sáng để đời sau ca ngợi.

Sau mười lăm năm lưu lạc rửa sạch sóng gió đoạn trường, những tưởng Kiều được tái hợp đoàn viên cùng người yêu cũ, Kiều đã thật sự mỏi mệt chán chường không thiết gì đến chuyện ái ân chăn gối. Nàng đã quyết định lấy tình cầm sắt đổi ra cầm kỳ, duyên chồng vợ đổi ra tình bè bạn, câu chuyện kết thúc nhuốm vẻ buồn thương nhưng xét cho cùng cuộc tình vẫn đẹp. Không có một lựa chọn nào khác./.






KIM SƠN ẨN TỰ
Đường vào theo áng mây đưa

Hàng cây cao vút lối chưa hiện về

Qua đồi qua suối lê thê

Qua đường rợp bóng sương che chập chùng

Qua vùng hư ảo tâm rung

Vén mây tỏ lộ nắng lưng chừng đèo

Không gian chìm lắng uốn theo

Rừng cây ủ gió hương vèo trầm bay

Sắc không có sẵn chốn này

Kim Sơn ẩn tự từng mây thoảng ngàn

Lối về soi ánh từ quang

Cam lồ tưới mát thênh thang cõi trần

Vô ưu lạc lối thinh không

Tâm an cõi tịnh quyện lòng phiêu nhiên.
HỒ HƯƠNG LỘC

Hai bên đường, lối dẫn vào Kim Sơn là rừng cây Redwood cao vút, rợp bóng che cả ánh nắng mặt trời.



Đi giữa trưa vẫn cảm thấy mát rười rượi.

Ân Mẹ - Ân Thầy


Chân Hiền Tâm


1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương