NHỮng hiểu biết mới về nhóm máu hệ HỒng cầu và Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử trong nghiên cứu kháng nguyêN nhóm máu hệ HỒng cầU


NHÓM MÁU HỆ HỒNG CẦU: 2.1. Nhóm máu hệ ABO



tải về 432.39 Kb.
trang2/6
Chuyển đổi dữ liệu07.09.2016
Kích432.39 Kb.
#31775
1   2   3   4   5   6

2. NHÓM MÁU HỆ HỒNG CẦU:

2.1. Nhóm máu hệ ABO:

2.1.1. Lịch sử phát hiện:


Năm 1900, nhà bác học Karl Landstainer và cộng sự đã làm thực nghiệm trộn các mẫu máu của các cá thể với nhau và quan sát hiện tượng ngưng kết, Ông nhận thấy có những mẫu ngưng kết, có những mẫu không ngưng kết. Qua phân tích hiện tượng ngưng kết giữa hồng cầu của này với huyết thanh của người kia và ngược lại Ông đã phát hiện ra hệ thống nhóm máu đầu tiên ở người, đó là hệ nhóm máu ABO với 3 nhóm máu là: Nhóm A, nhóm B, nhóm O [11], [12]. Năm 1902, Decastello và Sturli đã lặp lại thí nghiệm của Landstainer và phát hiện thêm nhóm máu AB [10].

2.1.2. Đặc điểm của nhóm máu hệ ABO


Hệ nhóm máu ABO có bốn nhóm chính là nhóm A, nhóm B, nhóm AB và nhóm O. Bốn nhóm máu này được nhận biết dựa vào sự có mặt hoặc không có mặt của kháng nguyên A, B trên bề mặt hồng cầu và sự có mặt hoặc không có mặt của kháng thể chống A, kháng thể chống B trong huyết thanh (bảng 2). Kháng nguyên của hệ nhóm máu ABO thường xuất hiện sớm vào khoảng tuần thứ năm sau khi thụ thai. Kháng thể chống A và kháng thể chống B thường là kháng thể tự nhiên có bản chất là IgM, thích hợp hoạt động ở 4°C, xuất hiện sau khi sinh, tăng dần hiệu giá và đạt cực đại vào 5-10 tuổi, không qua được hàng rào nhau thai, không bao giờ có trong huyết thanh của cá thể có kháng nguyên tương ứng trên bề mặt hồng cầu. Kháng thể chống A và chống B cũng có thể là kháng thể miễn dịch, có bản chất là IgG, thích hợp hoạt động ở 37°C, được hình thành qua một quá trình đáp ứng miễn dịch do tiếp xúc với kháng nguyên của hệ ABO gặp trong trường hợp bất đồng nhóm máu giữa mẹ và con, truyền máu không hoà hợp hệ ABO, các kháng thể này có thể lọt qua hàng rào nhau thai, có khả năng kết hợp với bổ thể và gây tan máu trong lòng mạch [5], [7], [10], [11].

Bảng 2. Đặc điểm của các nhóm máu chính hệ ABO


Nhóm máu

Kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu

Kháng thể có trong huyết thanh

A

A

kháng thể B

B

B

kháng thể A

AB

A,B

Không có kháng thể A, kháng thể B

O

Không có kháng nguyên A, B

Có cả kháng thể A và kháng thể B

Ngoài bốn nhóm máu chính đã được trình bầy ở trên, năm 1911 Von Dungerm và Hirszfeld đã phát hiện nhóm máu A gồm có hai loại khác nhau là nhóm A1 và A2. Nhóm máu A2 thường gặp hơn ở người Châu Âu (20%), trong số những người có nhóm máu A2 thì có khoảng 1-8 % là có kháng thể tự nhiên chống lại hồng cầu A1 và khoảng 35% người có nhóm A2B có kháng thể tự nhiên chống lại hồng cầu A1 [8], [112].. Cho đến nay người ta đã phát hiện được khá nhiều trường hợp dưới nhóm của nhóm A và nhóm B (Bảng 3 và 4) [11], [13] với những đặc điểm như sau:


Bảng 3. Đặc điểm huyết thanh học của các dưới nhóm B


Dưới nhóm

Phản ứng của Hồng cầu với

KT trong có huyết thanh

Chất tiết trong nước bọt

Anti B

Anti(A+B)

Anti H

Anti A

Anti A1

Anti B

B

++++

++++

+

+

+

-

(B)+H

B3

+++[M]

+++[M]

+++

+

+

-

(B)+H

Bx

(+)

(+)

+++

+

+

(+)

H

Bm

-

-

+++

+

+

-

B+(H)

Bel

-

-

+++

+

+

+/-

H


Bảng 4. Đặc điểm huyết thanh học của các dưới nhóm A


Dưới nhóm

Phản ứng của Hồng cầu với

KT trong có huyết thanh

Chất tiết trong nước bọt

Anti A

Anti(A+B)

Anti A1

Anti H

Anti A

Anti A1

A1

++++

++++

+++

-

-

-

A+H (3,1 ±1,2)

A2

+++

+++

-

+++

+/-

-

A+H (2,1 ±0,5)

Aint

++++

+++

++

+++







A+H

A3

++/[M]

++[M]

-

++++

+/-

-

A+H (1,2±0,5)

Ax

-/+

+/++

-

++++

+

-/(+)

Ax+H (0,5)

Am

+/-

(+)

-

++++

-

-

A+H

Aend

+/[M]

+[M]

-

++++

-

-

H

Abantu

+/++[M]

+[M]

-

++++







H

Ael

-

-

-

++++

++

+/-

H

Ay

-

-

-

++++

-

-

H

A lae



















(A) +H (0,5-1)

Afinn



















H

Mức độ ngưng kết: ++++: Rất mạnh, +: Yếu, (+): Rất yếu, [M]: hai quần thể hồng cầu

Tại Viện Huyết học Truyền máu trung ương trong những năm qua chúng tôi cũng gặp hai bệnh nhân có nhóm máu Ax, cả hai trường hợp này trong huyết thanh của bệnh nhân đều có kháng thể tự nhiên chống lại hồng cầu A1.

Nhóm máu hệ ABO có tỷ lệ rất khác nhau tuỳ thuộc vào chủng tộc và các khu vực khác nhau trên thế giới. Bảng 6 dưới đây cho thấy tỷ lệ của các nhóm máu hệ ABO của một số nước, chủng tộc qua nghiên cứu của số tác giả trong và ngoài nước [4], [6], [10], [11].
Bảng 6. Tỷ lệ nhóm máu hệ ABO theo nghiên cứu một số tác giả trong và ngoài nước


Tên nước, chủng tộc

Tỷ lệ các nhóm máu hệ ABO (%)

A

O

B

AB

Triều tiên

34

28

27

11

Nhật Bản

38

29

22

11

Mỹ (Da trắng)

Mỹ (Da đen)

Mỹ (Ấn Độ)


42

29

16



45

49

79



10

18

4



3

4

<1



Da đen

27

49

20

4

Da trắng

40

45

11

4

Da vàng (Phương Đông)

28

40

27

5

- Bạch Quốc Tuyên (1991)

- Đỗ Trung Phấn (2004)

- Bùi Thị Mai An (2006)


21,1

21,4


20,2

42,1

45,0


44,5

30,1

28,3


29,9

5,7

5,44


5,4



2.1.3. Mối liên quan của nhóm máu hệ ABO với sức khoẻ và bệnh tật


Tác giả Van Loghem, Gold và Tovey qua nghiên cứu đã cho thấy tính kháng nguyên A ở những bệnh nhân lơxêmi thường bị yếu đi và tính kháng nguyên sẽ mạnh trở lại tuỳ thuộc vào tình trạng lui bệnh của bệnh nhân. Tác giả Starling và Fernbach đã nhiên cứu 30 bệnh nhi lơ xê mi nhóm máu A trong vòng 12 tháng, hồng cầu của 11/30 cháu có biểu hiện yếu đi của kháng nguyên A và có một sự khác nhau đáng kể về sự thiếu hụt kháng của nguyên A với các phương pháp điều trị hoá chất khác nhau, tuy nhiên không thấy có sự tương quan giữa tình trạng bệnh và mức độ yếu đi của kháng nguyên A. Tác giả Scott và Rasbride cũng thông báo một bệnh nhân Hodgkin có biểu hiện của thiếu hụt cả kháng nguyên A và I [10], [11], [12].

Qua nghiên cứu người ta cũng thấy có một mối liên quan giữa nhóm máu hệ ABO với sức khoẻ như: Người có nhóm máu O có răng chắc khoẻ nhất. Theo Aird và cộng sự cho thấy có một mối liên quan giữa ung thư dạ dầy, loét và ung thư biểu mô ruột kết, trực tràng, ung thư vú và phế quản với nhóm máu hệ ABO. Người có nhóm máu A có mối liên quan chặt chẽ với ung thư dạ dầy, người có nhóm máu B và kháng nguyên Tn liên quan đến ung thư đại tràng, kháng nguyên Lex với các di căn ung thư, nhóm máu hệ Duffy với sốt rét. Những người có nhóm máu A cũng có nguy cơ cao mắc một số loại ung thư hơn so với người có nhóm O (Bảng 5) [10], [11], [12].



Bảng 5. Mối liên quan giữa bệnh tật và nhóm máu hệ ABO


Ung thư

Tăng mối liên quan ((Nhóm A/ O)

Dạ dầy

1.2

Tử cung

1.2

Buồng trứng

1.2

Nước bọt

1.6

2.1.4. Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử nghiên cứu nhóm máu hệ ABO


Các gen mà tạo nên kháng nguyên A và B của hệ nhóm máu ABO được mã hoá bởi enzyme glycosyltransferases của a.a 354. Các enzyme này khi thêm một đường đặc biệt vào vị trí của một carbohydrat cột trụ mà kết thúc bằng đường fucose (Kháng nguyên H) sẽ dẫn tới làm thay đổi lượng kháng nguyên A (N acetyl D galactosamine) hoặc lượng kháng nguyên B (D-galactose) trên bề mặt hồng cầu và chính vì lượng kháng nguyên A và B trên bề hồng cầu sẽ quyết định một cá thể nào đó có nhóm máu A hoặc B, hoặc AB, hoặc O. Người có nhóm máu Bombay là do đường fuctose (Kháng nguyên H) được thêm ỏ (1,2) glycosyltransferases, enzyme này được mã hoá bởi một gen có tên là FUT và chính điểm biến đổi này trong gen này sẽ làm tăng số lượng các hồng cầu thiếu hụt chất H và kết quả là làm cho các kháng nguyên A, kháng nguyên B không biểu lộ. Sự khác nhau chính giữa các gen mã hoá transferases đặc hiệu của nhóm máu A và B bao gồm 7 nucleotid, chỉ 4 trong số 7 nucleotid này có sự thay thế các a.a (Arg 179 gly, Gly 235 Ser, Leu 266 Met, Gly 268 Ala) là có thể dẫn tới sự xuất hiện một nhóm máu mới của hệ nhóm máu ABO. Do vậy hiện nay với kỹ thuật sinh học phân tử người ta đã phát hiện có rất nhiều dưới nhóm của hệ thống nhóm máu ABO (Ví dụ: A2, Ax, cis AB, Ael, Bm...), tất cả các dưới nhóm này đều có liên quan đến những đột biến điểm và mất đoạn trong gen transferase (Trên exons 6 và 7), kết quả của việc giảm hoạt động của các enzyme là làm các kháng nguyên A và B yếu đi. Hiểu biết cơ bản về cấu trúc phân tử của Alleles giúp chúng ta có thể định nhóm chính xác các trường hợp A yếu, B yếu và để phân biệt chúng với nhóm O và các trường hợp thiếu hụt H [1], [9], [11].

+ Nhóm máu A2: Nghiên cứu đầu tiên về cấu trúc phân tử gen của nhóm máu hệ ABO trên cDNA (Mã hoá exons 6 và 7) đã được tiến hành trên các mẫu máu của những người có nhóm máu A2 và đã phát hiện allele A2 đã mất đi một base của một trong ba cytosine liền kề còn lại ở nucleotide 1059-1061 (ABO*A 105), vị trí đó mã hoá chuỗi gần điểm cuối – C của A-transferase. Sự thay đổi về cấu trúc này là do sự mất đi của các nucleotid và kết quả sẽ gây nên sự biến đổi của gen A là gen mã hoá một a.a với sự thêm vào 26 a.a ở vị trí C-terminus. Qua nghiên cứu người ta đã tìm thấy trong các mẫu A2 được nghiên cứu có sự thay thế Proline bằng Leucine ở vị trí 156 mà được gây ra do sự biến đổi C thành T ở nucleotide 467. Sự biến đổi gen này cũng được tìm thấy trong một alllele A1 từ những dòng tế bào ung thư biểu mô tuyến ở người và ở trong một số trường hợp dưới nhóm A. Gần đây, thêm ba alleles đã được xác định ở những người gốc Nhật Bản có nhóm máu A2 (ABO*A106, ABO*A107 và ABO*R101. Sự có mặt gen ABO*A106, ABO*A107 ở những người A2 đã được mô tả là do sự thay thế duy nhất một a.a của nucleotide 1054 đó là sự biến đổi C thành T và C thành G, kết quả dẫn đến một sự thay thế ở vị trí 352 (Arg thành Trp và Arg thành Gly). Người ta cũng đã ghi nhận rằng cũng có một sự thay đổi Arg thành Trp ở vị trí 352 cũng được tìm thấy trong allele B3 ở những cá thể có nhóm máu B3 [1], [11].

+ Nhóm máu Aint: Nhóm máu Aint khá phổ biến ở người da đen thuộc Châu Phi, chiếm gần 30% trong số những người nhóm A, trong khi đó chỉ gặp khoảng 3% ở những chủng tộc khác, hồng cầu Aint ngưng kết cả với anti A và anti H, trong hầu hết mọi trường hợp hồng cầu Aint ngưng kết với anti H tương tự như hồng cầu A2, nhưng lại ngưng kết yếu hơn với anti A1 so với hồng cầu A1. Đặc tính của A- transferase trong huyết thanh của những cá thể Aint được khám phá rằng nhóm Aint được di truyền bởi một sự thay đổi của gen A. The ỏ – N- acetylgalactosaminnyltransferase được mã hoá bởi allele này và nó rất khác biệt với A1 và A2 – transferase ở pH thích hợp nhất và về đặc tính động học thì Aint – transferase có ái lực rất mạnh với UDP-N- acetylgalactosamin và có ái lực rất thấp với 2’ fucosyllactose; trong khi đó A1- transferase có ái lực rất mạnh và A2- transferase có ái lực thấp với cả 2 chất nền trên [1], [11].

+ Nhóm máu A3: là do có sự biến đổi của A- transferase bởi sự thay thế duy nhất ở nucleotide 871 và kết quả sẽ dẫn đến một sự thay thế A thành G ở vị trí 291 (Asp thành Asn), trong một số trường hợp còn lại qua nghiên cứu người ta thấy rằng 2 exons chính trình tự chuỗi a.a của A3- transferase giống hệt A1- transferase [1], [11].

Các nhóm A yếu khác cũng do sự mất hoặc thay thế các acid amine gây nên sự thay đổi gen tạo nên các nhóm A yếu như sự thay thế T thành A ở nucleotide 646 dẫn đến một sự biến đổi Phe thành Ile ở vị trí 216 (ABO*A 108). Tương tự như trên một sự biến đổi C thành A ở nucleotide 467 sẽ dẫn đến sự thay thế Phe bằng Leu và sự biến đổi T thành A ở nucleotide 216 dẫn đến sự thay thế Phe => Ile tạo ra sự biến đổi gen A1 thành gen Ax và gen Ael là các gen mã hoá nhóm máu Ax và Ael [1], [11].



Cũng tương tự như vậy với nhóm B, nhóm máu B3 là do sự biến đổi C thành A ở vị trí nucleotide 1054 dẫn tới thay thế Arg thành Trp ở vị trí 352 của B-transferase. Sự biến đổi G thành A ở nucleotide 871 dẫn tới sự thay thế aspatic acid thành aspararine ở vị trí 291 của gen B tạo nên nhóm máu Bx (Allele ABO*B104) [1], [11].


tải về 432.39 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương