2.3. Nhóm máu hệ Kell: 2.3.1. Lịch sử phát hiện:
Hệ Kell là một hệ thống nhóm máu khá phức tạp. Năm 1946, Coombs và cộng sự đã phát hiện một kháng thể lạ ở một sản phụ sinh con bị vàng da, kháng nguyên tương ứng với kháng thể này được ông đặt tên là K (Kell), đây cũng là kháng nguyên đầu tiên của hệ Kell được phát hiện. Năm 1949, Levine và cộng sự phát hiện ra kháng nguyên k (Cellano) và kháng thể của nó. Năm 1957, Allen, Chown và cộng sự phát hiện thêm ba kháng nguyên mới của hệ Kell là Kpa, Kpb và Kpo. Năm 1958, kháng nguyên Jsa được phát hiện bởi Giblett và kháng nguyên Jsb được Walker phát hiện năm 1963 [10], [11], [12].
Cho đến nay người ta đã phát hiện được 23 kháng nguyên khác nhau của hệ Kell, bảng 8 trên đây cho biết các kháng nguyên của hệ Kell, tên gọi và tần số xuất hiện gặp tại một số vùng, nước [11].
Bảng 8. Các kháng nguyên của hệ Kell và các tên gọi theo ISBT
ISBT
|
Kháng nguyên
|
Ca bệnh đầu tiên
|
Tỷ lệ gặp ở người Châu Âu
|
Tỷ lệ gặp ở người Việt Nam (2006)
|
Năm phát hiện
|
KEL 1
|
K
|
Kellher
|
9,0
|
|
1946
|
KEL 2
|
k
|
Cellano
|
99,8
|
|
1949
|
KEL 3
|
Kpa
|
Penney
|
2,0
|
|
1957
|
KEL 4
|
Kpb
|
Rautenberg
|
99,9
|
|
1958
|
KEL 5
|
Ku
|
Peltz
|
>99,9
|
|
1961
|
KEL 6
|
Jsa
|
Sutter
|
<1,0
|
19,5 (Da đen)
|
1958
|
KEL 7
|
Jsb
|
Matthews
|
>99,9
|
|
1963
|
KEL 10
|
UIa
|
Karhula
|
>0,1
|
2,6 (Phần Lan)
|
1968
|
KEL 11
|
|
Côte
|
>99,9
|
|
1976
|
KEL 12
|
|
Bockman
|
>99,9
|
|
1973
|
KEL 13
|
|
Sgro
|
>99,9
|
|
1974
|
KEL 14
|
|
Santini
|
>99,9
|
|
1973
|
KEL 16
|
k-like
|
|
99,8
|
|
1976
|
KEL 17
|
Wka
|
Weeks
|
0,3
|
|
1974
|
KEL 18
|
|
Marshall
|
>99,9
|
|
1975
|
KEL19
|
Kx
|
Sublett
|
>99,9
|
|
1979
|
KEL 20
|
Km
|
|
>99,9
|
|
1979
|
KEL 21
|
Kpc
|
Levay
|
<0,1
|
|
1945/1979
|
KEL 22
|
|
Ikar
|
>99,9
|
|
1982
|
KEL 23
|
Cent
|
|
<0,1
|
|
1987
|
KEL 24
|
Callois
|
|
>2,0
|
|
1985
|
KEL 25
|
VLAN
|
|
<0,1
|
|
1986
|
KEL 26
|
TOU
|
|
>99,9
|
|
|
|
RAZ
|
|
>99,9
|
|
|
2.3.2. Đặc tính của hệ nhóm máu Kell:
Kháng nguyên K có mặt khoảng 10% ở người da trắng, hiếm gặp ở người da đen, da vàng, người Mỹ và Mông Cổ. Kháng nguyên Jsa gặp 19,5% ở người da đen, UI a gặp 2,6% ở người Phần Lan, trong khi đó hai kháng nguyên này chỉ gặp dưới 1% ở người Châu Âu [11], [12]. Một số kiểu hình thông thường của hệ Kell được chỉ ra ở bảng 10 dưới đây.
Bảng 10. Tần số xuất hiện một số kiểu hình thông thường của hệ Kell
Kiểu hình
|
Da trắng
|
Da đen
|
Việt Nam (2006)
|
K-k+
|
91,0
|
96,5
|
100
|
K+k-
|
8,8
|
3,5
|
0
|
K+k-
|
0,2
|
<0,1
|
0
|
Kp(a-b+)
|
97,7
|
100
|
100
|
Kp(a-b+)
|
0,1
|
0
|
0
|
Kp(a+b+)
|
2,3
|
Hiếm
|
0
|
Hệ thống Kell cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong thực hành truyền máu, chỉ sau hệ ABO và Rh do các kháng thể miễn dịch chống K phản ứng rất mạnh với hồng cầu mang kháng nguyên K và gây tan máu trong lòng mạch khi truyền máu không hoà hợp [2], [3], [11], [12].
Kháng thể miễn dịch chống K cũng là nguyên nhân gây vàng da tan máu ở trẻ sơ sinh do bất đồng nhóm máu mẹ con. Kháng thể của hệ Kell có bản chất là IgG có thể lọt qua hàng rào nhau thai. Trong một số trường hợp kháng thể chống K được sinh ra do kháng nguyên của vi khuẩn giống như kháng nguyên K [2], [3], [11], [12].
2.3.3. Ứng dụng kỹ thuật sinh học phân tử nghiên cứu nhóm máu hệ Kell
Kháng nguyên của hệ thống nhóm máu Kell được cấu tạo bởi một protein bao gồm 732 a.a, protein này được mã hoá bởi một gen với 17 exons nằm ở vị trí 33 trên cách dài của NST 7, Kell là một protein màng loại II mà được kết nối với disulfide tạo ra các nếp gấp, trong màng hồng cầu nó được nối với một protein có nhiều chân mà được gọi là XK, kết quả một sự vắng mặt của XK trong hội chứng McLeod sẽ dẫn tới một sự biểu lộ yếu của kháng nguyên hệ Kell. Khi chưa biết tính đa hình thái của hệ Kell liên quan với protein XK thì tất cả các kiểu hình của nhóm máu Kell đều được cho rằng là do đột biến điểm. Sự thay thế một a.a ở vị trí 597 Pro thành Leu mà nằm ở vị trí giữa hai cystein (trong khoảng 596 và 599) có liên quan với kháng nguyên Jsa và Jsb. Điều này giải thích tại sao các kháng nguyên này nhậy cảm hơn với các thuốc thử mà đã được phá vỡ các cầu nối disulfit hơn các kháng nguyên Kell khác [1], [11].
Kháng thể hệ Kell khi kết hợp với những kháng nguyên tương ứng có thể gây nên phản ứng truyền máu nghiêm trọng. Những nghiên cứu gần đây đã đề cập tới sự không hoà hợp của hệ Kell có thể gây ra tình trạng thiếu máu tan máu ở trẻ sơ sinh, không giống như kháng thể D, độ mạnh của kháng thể Kell không liên quan đến mức độ thiếu máu của trẻ. Bởi vậy, định nhóm máu hệ Kell cho thai nhi là một xét nghiệm có ý nghĩa lâm sàng để xử trí kịp thời nếu trẻ có nguy cơ thiếu máu tan máu nặng. Với sự đa hình thái của hệ thống nhóm máu Kell có liên quan đến những đột biến điểm do làm mới, hạn chế hoặc cắt bỏ các vị trí enzyme. Bằng kỹ thuật PCR và PCR- RFLP sử dụng các cặp mồi đặc hiệu với các alelles người ta đã có thể xác định được các kiểu gen khác nhau của hệ Kell từ các mẫu DNA mà được chiết tách bởi các acid amin.
Hồng cầu Kpa(+) thường có sự bộc lộ yếu của kháng nguyên Kell với tần số cao bởi protein Kell mang kháng nguyên Kpa có tryptopan (ở vị trí 281) mà được thay thế arginine. Điều này thì rất dễ hiểu vì khi một protein đã bị biến đổi nó sẽ không tồn tại được lâu. Bằng các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy hầu hết các hình thức Kpa của protein Kell được giữ lại tại các vách ngăn của nội bào. Điều này rất phù hợp với hình thái mà không tạo ra những nếp gấp đúng do vậy kiểu hình Kpa của nhóm Kell thường vắng mặt trên màng hồng cầu [1], [9], [11], [12].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |