Nguyễn Phong Nam - Giáo trình Văn học Việt Nam giai đọan nửa cuối thế kỷ XIX
88
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
Từ nỗi nuối tiếc cho số phận ngắn ngủi của một con sông xứ sở, nhà
thơ đã nâng lên, nới rộng ra thành một nỗi niềm ân ưu đối với tổ quốc rộng
lớn. Tiếng gọi đò tâm tưởng, văng vẳng trong ký ức tác giả ở bài thơ này sẽ
nhân thành muôn mối khắc khoải, sâu lắng trong lòng rất nhiều thế hệ độc
giả. Nỗi niềm đó còn phảng phất trong thơ ông qua những bài, những câu về
phong vị quê cảnh Nam Định; những phố Hàng Song, sông Vị Hòang,
những núi Nùng, núi Gôi... Thơ Trần Tế Xương gắn rất chặt với cảnh trí và
con người nơi đây.
Yêu
nước, nhưng cũng như rất nhiều những nhà nho tâm huyết đương
thời, Trần Tế Xương cũng bế tắc trong việc chọn đường. Ông "lạc đường"
và bơ vơ cô độc ngay giữa quê hương của mình:
Một mình đứng giữa quãng chơ vơ
Có gặp ai không để đợi chờ
Nước biếc non xanh coi vắng vẻ
Kẻ đi người lại dáng bơ phờ
Hỏi người chỉ thấy mây xanh ngắt
Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ
Đường đất xa xôi ai mách bảo
Biết đâu mà ngóng đến bao giờ
Một nỗi hoang mang, băn khoăn day dứt đã xen vào giọng thơ Trần
Tế Xương. Cũng có khi vì quẩn quanh tắc lối mà đâm hờn dỗi:
Ngủ quách sự đời thây kẻ thức
Hoặc:
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả
Tội gì mà thức một mình ta
Nhưng chung quy, đó chỉ là cách nói, chứ kỳ tình chưa bao giờ ông
làm thế. Cái tâm của Trần Tế Xương vẫn thường trực ngóng chờ một âm
thanh thức tỉnh. Giữa cái "đêm dài" lạnh lẽo, tâm hồn thi sĩ vẫn chực đồng
vọng một tiếng gà báo sáng:
Chợt giấc trông ra ngỡ sáng loà
Đêm sao đêm mãi thế ru mà
Lạnh lùng bốn bể ba phần tuyết
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |