Nguoitinhuu. Com



tải về 2.2 Mb.
trang4/8
Chuyển đổi dữ liệu10.01.2018
Kích2.2 Mb.
#35967
1   2   3   4   5   6   7   8

Chương 9
THẬN TRỌNG

(Đoạn trích Kinh Thánh: Proverbs 9:1-18)

Kinh Thánh không nói cho chúng ta biết thế nào là thận trọng nhưng lại diễn tả một cách mỹ miều về người thận trọng, họ đối xử thế nào, họ làm gì, họ tránh những gì. Ngay cả chữ thận trọng cũng có thể được thay thế bằng nhiều chữ khác, tỉ như chữ khôn ngoan và bàn hỏi, hay các đặc tính liên hệ như suy xét kỹ lưỡng, cẩn thận, sáng suốt, thấu hiểu, chín chắn và phân xử hợp lý. Các bạn có thấy chữ thận trọng thật khó định nghĩa và khó phân loại không.

Tuy nhiên không ai trong chúng ta nghi ngờ vai trò chủ yếu của nó trong tinh thần môn đệ. Trong Cựu Ước, ngoại trừ đức tin và đức công chính, tôi tự hỏi không biết có đức tính nào được ca tụng nhiều hơn là sự khôn ngoan và thận trọng đến độ một người có suy xét, dè dặt, sáng suốt được coi là anh hùng, là gương mẫu của con người tuyệt hảo của Thiên Chúa. Trong hệ thống Kitô Giáo, sự thận trọng thật quan trọng đến độ được xếp hàng đầu trong các nhân đức chính yếu. Nó thật quan trọng đến độ Thánh Basil Cả đã nhận xét, "Sự thận trọng phải đi trước mọi hành động của chúng ta; vì nếu thiếu thận trọng, mọi sự có thể trở nên xấu xa dù nó có vẻ tốt lành. "


Có lẽ Thánh Tôma Aquinas có thể giúp chúng ta định nghĩa sự thận trọng. Vị Tiến Sĩ Thiên Thần này diễn tả sự thận trọng bao gồm sự phán đoán đúng đắn, có được bởi ơn Chúa ban, và bởi những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của một người trong cuộc sống. Đó là một đức tính thuộc về trí óc nhằm giúp chúng ta đoán ra được sự lành và sự dữ trong bất cứ hoàn cảnh nào và giúp chúng ta hành động xứng hợp với ý Chúa, dựa trên nền tảng của kiến thức này.
Thực sự chúng ta không còn dùng nhiều đến chữ "thận trọng" nữa có phải không? Đôi khi tôi tự hỏi có phải chữ "lương tri" đã thay thế một số ý nghĩa của nó. Ở Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Ông John Tracy Ellis thường bắt đầu niên học bằng lời khuyên sau, "Nếu bạn thiếu khôn ngoan, Thiên Chúa có thể ban cho bạn; nếu bạn thiếu kiến thức, tôi có thể giúp bạn; nhưng nếu bạn thiếu lương tri--không ai có thể giúp bạn!"
Giờ đây, sự thận trọng, hay khôn ngoan, chắc chắn là đức tính cần kíp cho bất cứ tín hữu nào, nhưng đối với linh mục nó là căn bản. Dân chúng mong đợi các linh mục là những người khôn ngoan, thánh thiện, thận trọng. Nhiều khi chúng ta sửng sốt khi họ tìm kiếm sự giúp đỡ của chúng ta để chấm dứt những tranh chấp hay để có những quyết định khó khăn trong đời sống. Tôi nhớ lần đi coi xứ đầu tiên tôi đã giật mình khi một thanh niên nhờ tôi giúp anh chọn lựa giữa hai người yêu của anh, trong khi tôi đây là người độc thân; hoặc khi một bác sĩ già gấp đôi tuổi tôi nhờ tôi hướng dẫn trong một quyết định khó khăn về luân lý. Tôi hai mươi sáu tuổi, vừa mới chịu chức, chẳng có kinh nghiệm là bao trong cả hai lãnh vực này, tuy nhiên, vì tôi là một linh mục, giáo dân cho rằng tôi có sự phán đoán đúng đắn, có đầu óc sáng suốt, khôn ngoan. Tương tự như vậy, họ trông đợi chúng ta hành động với sự thận trọng, đừng trở nên những người dại dột, hớ hênh, vô trách nhiệm. Họ trông đợi chúng ta hành động với sự đáng tin cậy, điềm tĩnh và cẩn thận. Thận trọng trong những lựa chọn của chúng ta, thận trọng trong cách xử thế của chúng ta.
Nhưng bạn cũng biết rằng không ai là không thể vạch ra điều khuyên bảo khôn ngoan mà họ nhận được từ một linh mục là người mà bạn tôn trọng sự thận trọng của họ khi giúp đỡ bạn nhận thức. Như Thánh Augustin viết, "Sự tốt lành lớn lao nhất là sự khôn ngoan. " Như vậy chúng ta phải mang ơn Giáo Hội để chăm sóc đức tính tối cần thiết này.
Khi tôi thăm dò những nhận xét của các cha sở về các chủng sinh đi thực tập, hoặc các thẩm định hằng năm của ban giám đốc nhà trường, hoặc ích lợi nhất là khi tôi nghe phê bình của các cha sở và đức giám mục về các linh mục mới chịu chức, ít khi tôi thấy họ chỉ trích về tính cách chính thống của học thuyết, sự tận tụy cầu nguyện, khả năng thuyết giảng, sự vâng lời hay sự khiết tịnh--tạ ơn Chúa vì tất cả những điều đó-nhưng tôi thấy có những nhận xét về sự thiếu thận trọng, và, điều này không làm tôi ngạc nhiên, vì như Thánh Tôma đã nhắc nhở chúng ta, sự thận trọng đi liền với kinh nghiệm và tuổi tác.
Dĩ nhiên điều khó khăn là sự thận trọng thường không liên hệ đến những gì chúng ta làm, hoặc ngay cả lý do tại sao, nhưng liên hệ đến phương cách, thời gian và nơi chốn! Sau đây là một vài thí dụ về sự thiếu thận trọng:


  • Để hướng dẫn giáo đoàn về việc rước lễ do đó khiển trách thừa tác viên đọc sách cứ dùng chữ "bánh" thay vì Mình Thánh và "rượu" thay vì Máu Thánh, thì đó là điều tốt; nhưng ở bàn thờ, với giọng nói giận dữ, xỉ vả việc thiếu đức tin vào sự Hiện Diện Thực Sự ngay trước khi nâng Mình Thánh lên và đọc "Đây Chiên Thiên Chúa…" là thiếu thận trọng. Ý định thì tốt, và việc hướng dẫn thì đúng, nhưng sự trừng phạt thật tệ! Cũng thế, bất đồng ý với bà giám đốc chương trình giáo lý khi bà nói với các dự tòng rằng việc dành riêng chức linh mục cho nam giới là điều bất công, lỗi thời, và sẽ thay đổi một ngày gần đây, và sau đó đưa ra giáo huấn rõ ràng của Giáo Hội, thì đúng; gọi bà giám đốc đó là lạc giáo và cảnh cáo các dự tòng rằng bất cứ gì bà ấy nói thì đáng nghi ngờ, thì đó là điều không thận trọng.

  • Cố gắng tìm nơi trú ngụ cho một thiếu niên bị đuổi ra khỏi nhà vì cha mẹ say sưa, đánh đập, thì đúng; để cho cậu ta ngủ đêm trong nhà xứ là điều thiếu thận trọng.

  • Chơi thể thao là điều rất tốt; tham dự môn thể thao có nhiều sự va chạm mà đầu gối bạn mới bị giải phẫu cần thời gian lành lặn thì đó là điều thiếu thận trọng.

  • Cũng thế, đón tiếp những người đến thăm chủng viện là điều tốt lành; để phụ nữ đến khu nhà ngủ thì thiếu thận trọng.

  • Giúp những người ly dị và lấy nhau ngoài Giáo Hội cảm thấy được chào đón đến giáo xứ là điều đáng ca ngợi; mời họ làm thừa tác viên Thánh Thể là điều thiếu thận trọng.

Bạn hiểu tôi muốn nói gì: động lực có thể thật tốt đẹp, điều cần phải thi hành rõ ràng-đó là phương cách, thời gian và nơi chốn là những gì có thể làm tan nát chúng ta-trừ phi chúng ta có sự thận trọng. Và sự thận trọng đó, như Đức Ông John Tracy Ellis nhận xét về lương tri, là điều hiếm có nhất!


Bây giờ tôi sẽ đi qua một số nhận xét thực tiễn về sự thận trọng, nhất là vì chúng áp dụng cho linh mục.
Trước hết, sự thận trọng thường liên hệ đến các quyết định, nhưng một loại quyết định đặc biệt. Đức tính cần có để chọn sự thiện khi phải lựa chọn giữa điều đạo đức và thiếu luân lý thì không phải là sự thận trọng--đó là sự vâng phục! Sự thận trọng là khả năng chọn lựa giữa hai điều tốt lành, hay, tối thiểu hai điều trung lập về luân lý.
Khi một người đến nói với tôi là anh ta muốn bỏ chủng viện, tôi hỏi anh là sự lựa chọn của anh đã hội đủ ba điều kiện sau đây chưa: (1) Đã cầu nguyện liên lỉ để tìm biết ý Chúa chưa? (2) Đó có phải là một quyết định kiên nhẫn, có nghĩa từ từ, cẩn thận, chín chắn, không bốc đồng? (3) Đó có phải một quyết định thận trọng, là điềm tĩnh, thanh thản, có suy nghĩ, và để ý đến những lời khuyên của người khôn ngoan hơn mình--cha linh hướng, các giám mục, cha giám đốc, bạn thân, gia đình, phải, ngay cả cha sở? Nếu quyết định đó quả thật đã được cầu nguyện, nhẫn nại và thận trọng thì tôi chỉ có thể ca tụng Thiên Chúa vì chủng viện này đã giúp được một người có một quyết định chín chắn. Quyết định rời bỏ chủng viện là một quyết định giữa hai điều tốt lành-chức linh mục và một ơn gọi khác tỉ như hôn nhân-và do đó đòi hỏi sự thận trọng.
Và sau đây tôi sẽ nói về sự cần thiết của sự thận trọng trong các quyết định phổ thông mà chúng ta phải đối diện.
Điều kiện thiết yếu của thận trọng là không bao giờ, đừng bao giờ quyết định khi nóng giận, khi thèm khát, khi chán nản, hay khi vội vàng.
Chúng ta không bao giờ, đừng bao giờ hành động khi nóng giận. Marcus Aurelius nhận xét, "Hậu quả của sự nóng giận thì thật đau buồn hơn cả nguyên nhân gây ra nó." Đúng vậy, cần có sự kiểm soát phi thường, nhưng người thận trọng sẽ không bao giờ quyết định khi nóng giận; họ sẽ "để yên nó," hay để sang một bên, hay trì hoãn nó cho đến khi có thể cân nhắc lúc điềm tĩnh. Một người khôn ngoan thì không sợ thú nhận, "Hiện giờ tôi quá nóng giận không thể quyết định được. Như Dag Hammarskjold nhận xét, "Thế giới này sẽ bớt đi biết bao cô nhi và quả phụ nếu các nhà lãnh đạo đừng quyết định chiến tranh khi họ còn nóng giận."
Chúng ta không bao giờ, đừng bao giờ quyết định khi thèm khát! Không hồ nghi là bộ óc nằm trên cái bụng, nhưng ngạn ngữ có câu, lý lẽ giảm dần khi các cơ phận ở bên dưới bụng tăng dần. Biết bao linh mục đã hấp tấp cởi áo vì họ hành động khi thèm khát! Người thận trọng cũng sẽ lùi bước, và tự cho mình một khoảng cách, trước khi tự để mình bị lấn lướt bởi sự thèm khát. Một linh mục nói với tôi là ngài đã nghĩ đến việc cởi áo vì yêu một phụ nữ. Tôi khuyên ngài hãy thận trọng, hãy thi hành mọi thứ có thể để bảo vệ ơn gọi. Ngài nói tôi đừng lo, vì ngài và người yêu sẽ cùng nhau đi xa hai tuần lễ để quyết định xem phải làm gì. Ơn gọi của ngài thật đen đủi là chừng nào! Như Shakespeare đã viết, "Các lời thề mạnh mẽ nhất chỉ là rơm rác trước ngọn lửa sôi sục trong máu."
Chúng ta không bao giờ, đừng bao giờ hành động khi chán nản. Đau khổ vì thất bại, bị sa ngã phạm tội, hay hành động ngu xuẩn-tất cả những điều này làm chúng ta chán nản. Đó không phải là lúc quyết định. Chúng ta không xin thuyên chuyển chỉ vì cha sở la mắng và làm chúng ta buồn chán; chúng ta không từ bỏ chức linh mục vì cô đơn và trầm cảm. Người thận trọng không bao giờ pha trộn một sai lầm này với sai lầm khác.
Chúng ta không bao giờ, đừng bao giờ hành động hấp tấp. Một linh mục phải có thể quyết định một cách chín chắn, ngài sẽ không bao giờ quyết định bừa bãi. Ngài sẽ cân nhắc, hỏi ý kiến, cầu nguyện, suy tư, dành một thời gian và rồi mới hành động.
Một trợ giúp thứ hai cho sự thận trọng là một đời sống quân bình. Mỗi ngày đời sống chúng ta bám chặt vào Thiên Chúa qua sự cầu nguyện và tin tưởng vào căn tính cũng như sứ vụ của chức linh mục. Bất cứ gì xảy ra, một người thận trọng chắc chắn sẽ không bao giờ thiếu sót. Điều này được bảo vệ bởi một đời sống nhịp nhàng, sự điều dưỡng hàng ngày. Phải, chính linh mục, nhất là linh mục ở giáo xứ, phải thật linh động vì ngài không biết điều gì sẽ xảy ra trong ngày, nhưng một linh mục khôn ngoan luôn luôn có nguyên tắc chung làm căn bản cho đời sống hàng ngày. Ngài không phải là một người "thích lang thang" nhưng một người có mục đích và đường hướng, điềm tĩnh và thận trọng trong đời sống.

Trong Nhật Ký Một Linh Hồn của Đức Gioan XXIII có ghi lại vào ngày 14 tháng Tám 1961:


Về mục đích của đời sống tôi phải:

- Chỉ khao khát trở nên thánh thiện và nhân đức, và như thế làm hài lòng Thiên Chúa.

- Đưa mọi sự đến việc phục vụ và vinh danh cho Giáo Hội.

- Nhận thức rằng tôi được Chúa sai đến đây, và vì thế phải bình thản trước bất cứ gì xảy đến.

- Lúc nào cũng phó mình cho sự Quan Phòng của Chúa.

- Luôn luôn sắp xếp công việc trong ngày theo một phương cách thông minh và có thứ tự.
Đó là một người khôn ngoan!
Tôi thường trích lời của Đức Hồng Y Newman là người khi được hỏi về con đường đến sự tuyệt hảo, đã trả lời rằng: "Người tuyệt hảo là người thi hành công việc hàng ngày một cách hoàn hảo-trước tiên, đừng nằm nướng trên giường khi đã đến giờ thức dậy; hãy nghĩ đến Chúa trước hết; thành khẩn viếng Thánh Thể; đọc kinh Truyền Tin một cách sùng kính; ăn uống để vinh danh Chúa; lần chuỗi; bình thản; đừng nghĩ điều xấu; chiêm niệm buổi tối; xét mình hằng ngày; đi ngủ đúng giờ-và bạn đã hoàn hảo. "
Chương trình hàng ngày rất đơn giản, thận trọng đó là từ một người được coi là thông minh nhất chỉ sau Thánh Tôma Aquinas!
Mỗi người chúng ta phải biết mình cần những gì cho một đời sống có mục đích và có kết quả, tôi biết, trong chính đời tôi, dù biết bao sôi nổi, tôi phải đoan chắc có cầu nguyện-Thánh Lễ, kinh nhật tụng, suy niệm-tối thiểu ngủ được sáu tiếng, tập thể dục đôi chút và ba bữa ăn, nếu không tôi sẽ mau mệt, cáu kỉnh và vô tích sự.
Đức Ông Cornelius Flavin, là cha sở đầu tiên tôi phụ tá, rất thân với chị của ngài. Một chiều kia, tôi nhận được điện thoại cho biết bà đã qua đời. Lúc đó khoảng 3g30 chiều, và tôi biết ngài sẽ về nhà bất cứ lúc nào từ nhà thương, vì ngài đến đó mỗi buổi chiều. Và đúng vậy, khi nghe tiếng mở cửa nhà xe tôi đi ra để ngỏ lời chia buồn đồng thời ngỏ ý xem tôi có giúp được gì không; ngài đi vào phòng riêng mà tôi nghĩ ngài sẽ khóc thảm thiết và điện thoại cho các anh chị em cũng như gọi nhà quàn. Kế tiếp, điều tôi chứng kiến là ngài đi ra khỏi phòng và đến nhà thờ để đọc kinh nhật tụng, như thường lệ từ 4 đến 5 giờ chiều. Vào lúc khủng hoảng và mất mát, sự điều độ cầu nguyện, bổn phận hằng ngày ngài vẫn không quên.
Một người thận trọng phải có sự nhịp nhàng như vậy, sự điều độ được hoạch định để tất cả những điều căn bản chắc chắn được thi hành. Điều này không phải là trốn trách nhiệm nhưng đảm bảo một cách khôn ngoan là chúng ta sẽ chu toàn một cách có kết quả.
Phương cách tiếp cận đời sống quân bình này phải tránh những thái quá. Tập thể dục thì quan trọng, nhưng có thể quá sức; giấc ngủ là điều căn bản, nhưng có thể thiếu cân đối; đồ ăn thức uống thì cần thiết, nhưng có thể bị lạm dụng; giải trí và nghỉ ngơi thì cần có, nhưng có thể quá mức. Ngay cả sự cầu nguyện có thể bị lạm dụng, tin hay không là tùy.
Một vị giám mục kể cho tôi nghe về một sinh viên ở trường này khoe với ngài, "Đức giám mục biết không, con là một người chiêm niệm. "
Đức giám mục trả lời, "Tôi nghĩ anh muốn nói là anh cần thời gian chiêm niệm để tăng sức và thêm ý nghĩa cho tác vụ của anh?"
"Không" vị linh mục trẻ trả lời. "Con muốn nói con là một người chiêm niệm!"
Đức giám mục trả lời, "Tôi phong chức cho anh để trở nên một linh mục tích cực hoạt động ở giáo xứ, chứ không phải là một người chiêm niệm!" Đức giám mục nói đúng. Vị linh mục trẻ đã thiếu thận trọng trong phương cách tiếp cận việc cầu nguyện.
Đặc biệt là thái độ tiếp cận quân bình, cân đối, đều đặn đối với đời sống nhất là khi khủng hoảng, và chúng ta sẽ có rất nhiều. Khi thảm kịch xảy đến, hoặc cho chính chúng ta hoặc cho người dân; khi những cám dỗ và sự chán nản xảy đến; khi những đòi hỏi chồng chất và dường như choáng ngợp chúng ta-hơn lúc nào hết cần phải có sự thận trọng để có một phương cách tiếp cận bình thản, đầy suy tư, đáng tin cậy đối với đời sống, được bám rễ trong những điều cốt yếu, tránh những thái quá.
Phương cách thứ ba là sự thận trọng giúp chúng ta tập trung vào chính mình, giữ trung thực những gì là tiên quyết. "Tại sao Thiên Chúa lại dựng nên bạn? Để biết Người, để yêu mến Người, và phục vụ Người trong thế giới này, và để hạnh phúc với Người ở đời sau," đúng như nhiều người chúng ta đã cảm nghiệm được trong giáo lý. Hoặc, trong những lời đơn giản của Thánh Y Nhã "Quy Tắc và Nền Tảng Đầu Tiên":
Con người được dựng nên để ca tụng, tôn kính và phục vụ Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và nhờ đó họ cứu rỗi được linh hồn mình.
Những điều khác trên mặt đất được tạo nên vì con người để giúp họ đạt được cùng đích mà họ đã được dựng nên.
Vì thế, con người sử dụng tạo vật là để giúp họ đạt được cùng đích ấy, và họ phải tách biệt với tạo vật một khi chúng cản trở họ.
Do đó, chúng ta phải giữ mình trung lập với mọi tạo vật, một khi chúng ta có sự tự do lựa chọn và không bị cấm cản. Do đó, đối với chính chúng ta, chúng ta không thể muốn sức khỏe hơn là đau yếu, muốn giầu sang hơn là nghèo khổ, muốn vinh dự hơn là hổ thẹn, muốn sống lâu hơn là chết yểu. Mọi thứ khác cũng giống như vậy.
Sự lựa chọn và khao khát độc nhất của chúng ta phải là những gì dẫn đến cùng đích mà vì đó chúng ta được tạo nên.
Louis Puhl, S. J. , Linh Thao
Sự thận trọng giúp chúng ta giữ được mục tiêu của mình một cách sáng sủa và rõ ràng, nhờ đó duy trì được một đời sống có trật tự và có mục đích. Người khôn ngoan sẽ thường nói, "Điều đó thực sự không can gì đến tôi, " khi họ nhận ra bổn phận của chính họ và không cần phải quá hăng say đối với bổn phận của người khác.
Vì thế các linh mục ở giáo xứ cũng phải tập trung về công việc của mình. Khi ở trong giáo xứ, đó là ưu tiên của bạn. Bạn sẽ bị chôn vùi với những lời mời cử hành Thánh Lễ đây đó, hay tổ chức suy niệm và tĩnh tâm ngoài giáo xứ, trở nên tuyên uý cho đoàn thể này nọ--nhưng sự thận trọng giúp chúng ta biết tập trung! Phải, tôi có thể chấp nhận các nhiệm vụ khác, nhưng chỉ khi nào chúng không gián đoạn những trách nhiệm chính của tôi ở giáo xứ.
Và, dĩ nhiên, sự thận trọng bảo vệ mục tiêu căn bản của chúng ta, là đời sống vĩnh cửu qua sự trung thành với ơn gọi linh mục, và điều này chắc chắn là quan trọng. Vì đời sống chúng ta với Đức Kitô trong ơn sủng thì dễ vỡ, ơn gọi linh mục của chúng ta thì mong manh, và người khôn ngoan thì phải bảo vệ những hạt ngọc vô giá ấy bằng bất cứ giá nào!
Một cha giám đốc ơn gọi rất được ngưỡng mộ đến thăm trường North America và bày tỏ sự lưu tâm của ngài trong chính lãnh vực này. Than thở về việc hai linh mục trẻ ra đi, ngài nhận xét, "Làm thế nào mà họ dám nghĩ rằng chức linh mục có thể tồn tại khi hằng tuần họ đi chơi cả sáu buổi tối và không trở về nhà mãi cho đến nửa đêm? Làm thế nào họ dám nghĩ rằng họ vẫn còn độc thân khi cứ gần gũi với các phụ nữ hấp dẫn? Tôi thật lo sợ," và ngài kết luận, "một số các linh mục trẻ quá tự tin, hầu như tự phụ, và không nhận ra sự mong manh của ơn gọi. Sao họ không cảnh giác hơn?" Sự cảnh giác-một đồng nghĩa khác với thận trọng.
Vì thế người khôn ngoan phải biết những giới hạn của mình. Chúng ta thường gọi đó là "cơ hội phạm tội," được định nghĩa như bất cứ người nào, nơi vào hay vật gì có thể khiến việc phạm tội dễ dàng hơn. Một số người đưa chúng ta đến những chuyện tầm phào, hay kêu ca, chỉ trích cay độc--tốt hơn chúng ta nên tránh xa họ; khi chúng ta đến những nơi khiến chúng ta uống rượu nhiều-chúng ta nên tránh; khi chúng ta cảm thấy mình bị quyến rũ về xác thịt với người nào đó-chúng ta phải tránh người ấy. Vì người linh mục khôn ngoan biết rằng sự ưu tiên không thể nhượng bộ là đời sống vĩnh cửu qua sự trung thành với ơn gọi của mình, và hạt ngọc quý giá đó phải được bảo vệ bằng mọi giá!
Tôi có đọc một bài thật hay của Cha Dominic Maruca, S. J. , về điểm này. Cha Dominic nói, "Được coi là một dấu chỉ của sự khôn ngoan khi không đánh giá quá cao sức mạnh của mình hay đánh giá quá thấp sự mãnh liệt của đam mê." Sau đó ngài tiếp tục kể ra bốn dấu hiệu nguy hiểm mà, theo kinh nghiệm của ngài, thường dẫn đến việc rời bỏ sứ vụ linh mục. Đó là: miệt mài trong các sinh hoạt trần thế thay vì sinh hoạt cổ điển của linh mục là rao giảng, huấn luyện, và cử hành các bí tích, với hậu quả là chỉ muốn sống một mình và né tránh những dấu hiệu bên ngoài của giáo sĩ tỉ như y phục và danh xưng; quá nhiều tiền của; ngày càng không thích kinh nguyện và bí tích, nhất là Thánh Lễ và bí tích hòa giải; hay một tương giao nhiều cảm xúc. Điều mà vị giám đốc khôn ngoan này cổ võ là chúng ta phải thận trọng bảo vệ ơn gọi linh mục mong manh của chúng ta, vì chúng ta không thể thi hành điều đó một mình.
Thánh Francis de Sales đã diễn tả điều đó thật hay: "Bạn phải khôn ngoan như con rắn, khi gặp nguy hiểm, nó đưa thân mình ra để che chở cái đầu. Giống như vậy, chúng ta phải liều mạng, nếu cần thiết, để duy trì tình yêu và sự hiện diện của Chúa trong chúng ta một cách đầy đủ và trọn vẹn, vì Người là đầu và chúng ta là thân thể của Người. "
Hằng năm khi nghe Đức Ông Charles Elmer nói với các tân linh mục ở Casa thì tôi lại cảm động. Ngài bảo họ, "Tôi không lo lắng về sức học của các anh em, vì ít có ai rời bỏ nơi đây vì không có sức học. Điều tôi lo lắng là ơn gọi linh mục, đời sống tâm linh của anh em." Đức ông nói tiếp, "Do kinh nghiệm, tôi biết khi sách kinh không được mở, khi Thánh Lễ hằng ngày không được cử hành, khi một linh mục thường xuyên ở quán ăn và phố xá nhiều hơn là ở nhà nguyện, khi linh mục bỏ quên Đức Giêsu và Mẹ Maria, khi nhiều tháng trôi qua mà không xưng tội thì chức linh mục của người ấy đang trong tình trạng nguy kịch."
Sự thận trọng giúp chúng ta tập trung vào những gì thực sự cần thiết.
Khía cạnh quý báu thứ tư của sự thận trọng: chúng ta thực tế về những gì chúng ta bỏ lại sau lưng. Chúng ta biết khi là một linh mục, chúng ta có được những gì. Cũng như các tông đồ bỏ lại lưới, tầu bè, cha mẹ, sinh kế để đi theo lời mời gọi, thì chúng ta cũng nhận ra được những gì bỏ lại sau lưng.
Một cha sở kể cho tôi nghe về một tân linh mục làm phó xứ cho ngài, vài tuần lễ trước Giáng Sinh vị linh mục ấy đến với cha và hỏi, "Này cha. Con sẽ được nghỉ đêm Giáng Sinh hay sáng Giáng Sinh?"
Cha sở không hiểu, hỏi lại, "Cha muốn nói gì?"
Vị tân linh mục tiếp, "Chắc chắn là con có quyền ở với gia đình trong dịp Giáng Sinh, do đó con mong đợi là con sẽ được tự do vào đêm Giáng Sinh hay ngày Giáng Sinh. "
Bạn có thể tưởng được--là một linh mục giáo xứ mà không nhận thức rằng, quả thật, giáo xứ là gia đình của ngài, và bỏ lại sau lưng một niềm vui chính đáng với gia đình đó là một mong đợi thực tế nơi linh mục địa phận, và vì thế ngài phải thưởng thức Giáng Sinh đầu tiên với sự chìm đắm trong sinh hoạt giáo xứ?
Đôi khi dường như chúng ta nghĩ rằng Đức Giêsu chỉ nói đùa khi Người cho chúng ta biết cái giá của tinh thần môn đệ, những điều như cô đơn, vỡ mộng, bị chống đối, chán nản, hy sinh, và đau khổ. Người khôn ngoan phải biết họ sẽ được gì, và cũng quan trọng không kém, họ phải bỏ lại những gì, có thể nói là khoái lạc xác thịt, một sự nghiệp, có danh vọng, được nổi tiếng, được sự hỗ trợ đầm ấm của một người vợ và gia đình, và tiền bạc.
Sự thận trọng giúp chúng ta nhận ra được những gì bỏ lại sau lưng.
Một lãnh vực sau cùng của sự thận trọng tôi muốn nhắc đến thì được diễn tả bằng chữ "dè dặt", là một đồng nghĩa khác cho đức tính này.
Sự dè dặt rất có ích trong lời ăn tiếng nói. Trước đây khi nói về sự chính trực tôi có đề cập đến sự cần thiết phải giữ bí mật của một linh mục. Ít khi nào chúng ta gặp khó khăn khi ít nói. Như Ben Franklin nhận xét, "Kín miệng và chấp nhận để người ta nghĩ mình là ngu dốt thì tốt hơn là mở miệng và chứng minh điều đó." Đừng nghĩ rằng chúng ta phải có nhận xét về mọi thứ, rồi nói luôn mồm những chuyện vớ vẩn--dân chúng tôn trọng một linh mục biết lắng nghe, biết đưa ra nhận xét đúng lúc và lời lẽ thì khéo léo, thích hợp và vừa đủ. Tương tự như vậy, chúng ta phải dè dặt đừng khiếm nhã, thề nguyền trong lời nói.
Dè dặt thì có giá trị trong việc chọn lựa chiến thuật. Qua những kinh nghiệm làm việc ở giáo xứ, bạn đã biết khi được bài sai đến một giáo xứ mới sẽ có nhiều điều làm bạn bực mình muốn thay đổi. Sự thận trọng, dè dặt giúp bạn kiên nhẫn và tôn trọng, chờ cơ hội tốt và giành được sự tin tưởng, trước khi khởi chiến. "Còn người phó tế tự rước lễ thì cha nghĩ sao!" Tôi biết là họ không nên làm như vậy; sẽ đến lúc khi bạn giúp họ hiểu điều đó. Nhưng khởi chiến ngay có lợi gì không? Cha sở không thích chầu Mình Thánh. Tôi có nên lớn tiếng đòi hỏi, đe dọa hay hô hào dân chúng không? Hay tôi nên giành được sự tin tưởng của ngài, kiên nhẫn và từ từ dẫn dụ ngài rồi mới trình bầy? Thái độ hùng hổ, ngạo mạn, kiêu căng, tỏ ra biết nhiều thường làm thiệt hại mục đích. Có những điều bạn phải tranh đấu đến cùng; có những điều bạn phải chịu đựng mà không mất sự chính trực. Người linh mục khôn ngoan phải biết sự khác biệt.
Sự dè dặt rất có ích khi khôi hài. Biết nói đùa là một điều may mắn của linh mục, nhưng nó phải được hướng dẫn bởi sự dè dặt khôn ngoan. Hãy cẩn thận khi nói đùa về tình dục hay mầu da, vì dân chúng thấy chướng tai và dễ căm phẫn.
Đặc biệt tránh kiểu nói đùa có tính cách đồng tính luyến ái, tỉ như gán cho người đàn ông một cái tên đàn bà, hay giả tiếng con gái để nói chuyện với nhau. Điều đó sỉ nhục phụ nữ và sự khiết tịnh. Có nhiều nơi chúng ta mang tiếng xấu đến độ cha mẹ phải nhốt con cái trong phòng khi các linh mục đến thăm, và người ta nghe linh mục và các chủng sinh gọi nhau bằng tên phụ nữ. Thật nực cười!
Dè dặt rất có giá trị trong nghệ thuật phê bình. Thật là một nhân đức, ngay cả là một dấu chỉ trung thành để vạch ra những khuyến điểm của bề trên và đưa ra các phương pháp cải tiến. Thật đáng ngợi khen để bày tỏ những lo âu, sợ hãi, và chỉ trích Giáo Hội mà chúng ta yêu quý đến độ chúng ta khao khát muốn Giáo Hội trở nên tuyệt hảo. Tuy nhiên, khi nào, ở đâu và thi hành điều đó thế nào thì đòi hỏi sự khôn ngoan và dè dặt.
Như vậy, nói cho cùng, một nữ tu chỉ trích một hồng y và kêu gọi bất tuân phục ngài ngay trong chương trình truyền hình trên toàn quốc, hay một linh mục khiển trách Đức Thánh Cha trong mục báo hằng tuần, hoặc một linh mục gọi một thần học gia, ngay cả người ấy bất đồng quan điểm với huấn quyền, là "vết ung nhọt trên thân thể Mầu Nhiệm" ngay trên truyền hình, là thiếu thận trọng.
Khi một linh mục đặt vấn đề với sự giảng dậy của Giáo Hội trên toà giảng hay trong lớp học, trong cuộc thảo luận, hay lớp giáo lý tân tòng thì điều đó thiếu sự dè dặt.
Để tôi vạch ra bốn đặc tính của sự chỉ trích khôn ngoan: đó là không bao giờ ad hominem, khi tên tuổi, tính tình, và các động lực của một người không bao giờ được bài bác; phải luôn luôn tuân theo các quy tắc thích hợp; giọng điệu phải luôn luôn bác ái và tôn trọng; và, một khi đã được giải quyết thì không trở nên thô lỗ vì bất cứ lý do gì.
Và sau cùng, sự thận trọng thúc giục chúng ta phải tránh, không những chính sự dữ, nhưng ngay cả bề ngoài của sự dữ. Chúng ta mang ơn chức linh mục, Giáo Hội và người dân--chúng ta đã đau khổ quá nhiều vì điều tiếng xấu của giáo sĩ--nên đừng liều lĩnh tạo thêm những dấu hiệu nhập nhằng. Tôi thành thật xin lỗi, nhưng có những điều chúng ta không thể thi hành, ngay cả chúng ta biết đó là điều không có hại. Có thể chúng ta không nghĩ gì khi cùng đi với một thanh niên đẹp trai, nhưng tôi e rằng chúng ta không thể làm như thế. Có thể bạn không có ý ủng hộ phe phái khi xuất hiện trong cuộc gây quỹ có tính cách chính trị, nhưng dân chúng sẽ giải thích điều đó một cách sai lạc. Có thể bạn ngây thơ khi đóng bộ đồ vét đi ăn và xem văn nghệ với một phụ nữ xinh đẹp ở giáo xứ, nhưng đó đã là điều tiếng xấu. Sự dè dặt giúp chúng ta tránh, không chỉ sự dữ, nhưng ngay cả bề ngoài của sự dữ.
Sự thận trọng, chính nó có thể bị lạm dụng. Chúng ta đã từng thấy nhiều linh mục lạnh lùng một cách cứng ngắc đối với các sinh hoạt có tính cách sáng tạo, hăng say, liều lĩnh, hay bái ái chỉ vì họ sợ bị coi là "thiếu thận trọng." "Nhưng chúng tôi chưa bao giờ làm điều đó," dường như là câu tụng niệm của biết bao linh mục sợ hãi không dám làm điều gì mới mẻ. Hãy lắng nghe John McKenzie: "Đã từ lâu, sự thận trọng, không phải là đức tính mà qua đó người ta phân biệt những gì nên làm của Kitô Hữu, nhưng là đức tính mà qua đó người ta nêu ra lý do để tránh thi hành những điều của một Kitô Hữu!"


  • Từ quan điểm thuần tuý tự nhiên, có thể nói rằng chính Chúa Giêsu đã hành động thiếu thận trọng trong những người quen biết và một số giáo lý Người giảng dậy.

  • Từ quan điểm chỉ có tính cách trần tục, Mẹ Têrêsa thật hớ hênh khủng khiếp khi nói về sự phá thai trước mặt tổng thống và đệ nhất phu nhân.

  • Từ một quan điểm hữu lý thật riêng biệt, Đức Hồng Y O'Connor thật không khôn ngoan khi đặt vấn đề giá trị của án tử hình trong tang lễ của một nhân viên công lực bị giết.

Nhưng, quan điểm của chúng ta không phải là một quan điểm thuần tuý tự nhiên, có tính cách trần tục, hay thật hữu lý, có phải không? Thánh Vincent de Paul viết: "Sự khôn ngoan có tính cách con người, thuộc nhục dục, hay thuộc trần thế chỉ phát đạt trong giới hạn trần tục. Sự khôn ngoan Kitô Giáo nhờ vào Sự Khôn Ngoan Nhập Thể Đời Đời để dẫn dắt… Nó được điều hòa bởi các chân lý tổng quát của đức tin."


Sự thận trọng không bao giờ cản trở chúng ta khỏi lòng bác ái có tính cách mục vụ--nó chỉ bảo vệ và tinh luyện. Hãy lắng nghe Thánh Pio Pietrelcina nói:
Bạn phải luôn luôn có sự thận trọng và tình yêu. Sự thận trọng có đôi mắt, tình yêu có đôi chân! Tình yêu có đôi chân để chạy đến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng sự thôi thúc của nó thì mù quáng và có khi làm vấp ngã! Bởi thế nó phải được hướng dẫn bởi sự thận trọng, vì thận trọng có đôi mắt. Khi sự thận trọng thấy tình yêu có thể trở nên buông thả, nó cho mượn đôi mắt. Theo phương cách này, tình yêu tự hạn chế, theo sự hướng dẫn của thận trọng, để hành động những gì cần và không hành động như nó muốn.
Như vậy, trở nên thận trọng không có nghĩa thiếu sự sáng tạo, thiếu mạo hiểm và thiếu sự liều lĩnh. Trở nên thận trọng có nghĩa biết lúc nào, khi nào, thế nào để hành động! Vì, như Thánh Phaolô viết, "Sự khôn ngoan của thế gian này là sự ngu dại đối với Thiên Chúa. "
Có khi nào bạn nghĩ rằng bạn đã có sự khôn ngoan mà bạn thán phục nơi người khác, sự thận trọng mà Giáo Hội mong đợi nơi bạn không? Rất tốt! Vậy thì bạn đang đi đúng đường. Dĩ nhiên, người ngu nghĩ mình khôn ngoan, trong khi, như cuốn Noi Gương Đức Kitô dạy, "Đánh giá thấp về công trạng của chính mình và coi trọng công trạng của người khác là chứng cớ của sự khôn ngoan. "
Trong khi tuổi tác, sự học hỏi, kinh nghiệm và thực hành có thể giúp chúng ta trở nên khôn ngoan, thực sự đó là một quà tặng của Thiên Chúa. Ngay cả Walt Whitman phải thú nhận như vậy trong cuốn "Song of the Open Road":
Sự khôn ngoan, dứt khoát không được khảo sát trong trường học

Sự khôn ngoan không thể trao truyền cho người không có,



Sự khôn ngoan thì thuộc về linh hồn, không thể chứng minh được.
Như thế, hằng ngày chúng ta xin nhưng không bao giờ có được đầy đủ; và ai nhận biết rằng sự khôn ngoan không bởi chúng ta nhưng do bởi Thiên Chúa là người khôn ngoan nhất trong tất cả. Như Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã kết luận, "Tôi biết Đức Kitô ngự trong tôi, dẫn dắt tôi bất cứ những gì tôi nói hay hành động. Một tia sáng, mà trước đây tôi không thấy, đến với tôi vào lúc cần thiết nhất. "

Chương 10
SÁM HỐI

(Đoạn trích Kinh Thánh: Joel 2:12-13)

Tên Gene Hamilton có thể xa lạ với bạn nếu bạn không ở trong tổng giáo phận Nữu Ước hoặc chưa đọc cuốn A Priest Forever (Linh Mục Đời Đời) của Cha Benedict Groeschel. Gene là một chủng sinh tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse ở Dunwoodie của tổng giáo phận. Qua các dữ kiện người ta được biết anh là một chủng sinh tốt lành, một thanh niên dễ mến và thành thật, anh rất mong muốn trở thành một linh mục. Anh bị mắc bệnh ung thư, và những năm cuối cùng của cuộc đời anh quả thật là thập giá cho anh--đau đớn, gầy mòn, hy vọng tiêu tan sau những lần giải phẫu và chữa trị. Qua cuộc chiến đấu can đảm ấy sự thánh thiện của anh ngày càng tỏ lộ, và tôi cốt ý nói như vậy.
Trong sự đau đớn, thống khổ và hao mòn sức lực, một con người có đức tin sâu đậm, một đức cậy không thể bị khuất phục và một đức mến xác thực đã xuất hiện; một chủng sinh siêng cầu nguyện, không bao giờ than phiền, thường nghĩ đến nhu cầu và khó khăn của người khác hơn là của chính mình. Một người được thúc giục bởi khát vọng duy nhất là được kết hợp với Chúa Giêsu trong sự thống khổ và sự chết của Người, với hy vọng rằng khát vọng đó sẽ được thể hiện khi là một linh mục. Gia đình, bạn hữu của anh ai nấy đều mong mỏi một phép lạ; nhiều người, kể cả các bác sĩ và y công thường nói với anh, "Chắc chắn là anh sẽ chống trả được." Hàng chục người thấy anh là một con người quá tốt lành, quá trong trắng và quá thánh thiện để phải chết quá trẻ và quá đau đớn, họ đều cầu xin cho anh được bình phục.
Vài tháng Giêng 1977, Gene Hamilton quá yếu nên không thể hành hương đến Rôma cùng với các bạn từ Dunwoodie. Đức Giám Mục Edwin O'Brien, một con người thực tế và chín chắn, cùng với Cố Hồng Y John O' Connor, đã đến Thánh Bộ Giáo Dục, một cơ quan của Tòa Thánh, để xin phong chức linh mục cho Gene Hamilton nếu bệnh anh nặng hơn, và đã được miễn chuẩn. Khi trở về Nữu Ước, Đức Giám Mục O'Brien đến thăm anh trong bệnh viện, và sau khi biết về tình trạng của anh, với sự chấp thuận của Đức Hồng Y O' Connor, ngài đã tấn phong chức sáu và chức linh mục ngay trên giường bệnh cho anh. Hai giờ sau, Cha Gene Hamilton đã trút hơi thở cuối cùng, mới hai mươi bốn tuổi.
Cuộc chiến đấu lâu dài và cái chết của anh đã làm nhiều người xúc động. Hàng chục người kể lại sự kiên nhẫn chịu đựng của anh, sự gần gũi với thập giá Đức Kitô của anh, sự tin tưởng vững bền của anh rằng điều quan trọng nhất là "Đức Kitô, và thập giá của Người." Hiển nhiên, trong thời gian nằm bệnh viện anh đã cầu nguyện nhiều. Một trong những việc đạo đức anh ưa thích là ngắm đàng Thánh Giá. Sau cùng, vì quá yếu không thể đến được nhà nguyện, anh mệt nhọc lê bước trên hành lang bệnh viện kéo lết theo bình nước biển và bình dưỡng khí, và dừng chân tại mười bốn phòng bệnh, coi đó là một chặng đau khổ, với nhận thức rằng trong sự đau khổ của mỗi bệnh nhân ung thư là Đấng Cứu Thế đang đổ máu trên via crucis. Đối với Gene Hamilton, cuộc đời của anh có ý nghĩa, có mục đích--sự đau khổ của anh có sức cứu độ--nếu kết hợp với sự thống khổ và cái chết của Đức Giêsu. Và toàn thể giáo phận Nữu Ước đều nghĩ rằng vị linh mục hai giờ đồng hồ này, quá đồng hình dạng với Đức Kitô trên thập giá khi còn sống thì giờ đây quả thật anh là một người được chia sẻ sự phục sinh với Người.
Được kết hợp với Đức Giêsu trong cái chết của Người nên chúng ta cũng có thể được kết hợp với Người trong sự sống lại… Đức Giêsu và Giáo Hội mong muốn mọi linh mục đều giống như Cha Gene Hamilton, đồng hình dạng với Đức Giêsu trong sự thống khổ và cái chết của Người. Nhân đức hối lỗi thật căn bản trong cuộc đời của mỗi một môn đệ đích thực, một nhân đức đặc biệt cần thiết trong cuộc đời một linh mục.
Nhân đức hối lỗi--gọi đó là từ bỏ mình, hãm mình, xả thân-nó có nghĩa kềm chế, thuần phục, kiểm soát, chết đi những khao khát, những an nhàn, những tham muốn, những đói khát nhục dục của thế gian để sống một cách tự do hơn và thân mật hơn với Đức Giêsu. Nó không phải là một đức tính phổ thông ngày nay. Nhưng trước đây, nó cũng vậy. Như cách đây nhiều thế kỷ Thomas à Kempis đã viết trong cuốn Imitation of Christ (Noi Gương Đức Kitô):
Chúa Giêsu luôn luôn có nhiều người yêu mến nước trời, nhưng ít người muốn vác thập giá. Chúa có nhiều người mong muốn sự khuây khoả, nhưng ít người muốn thử thách. Chúa tìm thấy nhiều người muốn ngồi dự tiệc với Người nhưng ít người muốn ăn chay. Tất cả đều muốn hạnh phúc với Người, những ít người muốn chịu đau khổ vì Người. Nhiều người theo Chúa đến bẻ bánh, nhưng ít người muốn uống chén thống khổ của Người. Nhiều người tôn sùng phép lạ nhưng ít người tôn sùng thập giá.
Sự hối lỗi chưa bao giờ được nhiều người ưa chuộng, nhất là ngày nay. Tôi tự hỏi tại sao thời đại ngày nay tự cho mình thoát khỏi lời mời gọi hãm mình, từ bỏ mình. Đó có phải vì mất cảm thức tội lỗi, mà đương nhiên nó làm cho sự xả thân trở nên vô dụng, vì một trong những lý do chúng ta hối lỗi là để đền bù cho tội lỗi của mình? Đó có phải là tư duy của phong trào New Age (Thời Mới) mà nó xem mọi khát khao và ham muốn của con người đều tốt và đáng được thỏa mãn? Đó có phải là vì sự ma quái của chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa duy vật? Hay chỉ là thuần tuý chủ nghĩa khoái lạc? Có thể là một sự mất mát cảm thức siêu nhiên, bởi vì con người ngày nay điên cuồng tập từ bỏ mình qua việc ăn uống kham khổ và tập thể dục vì ích lợi cho sức khỏe thể xác. Tôi không biết lý do tại sao thời đại này coi thường giá trị tinh thần của việc hối lỗi, vì điều luôn ám ảnh chúng ta là những lời của một người duy nhất có thể thay đổi tất cả:
"Nếu các con không sám hối các con sẽ hủy diệt!"

"Nếu các con không vác thập giá mình mà theo Thầy, các con không thể là môn đệ của Thầy. "


Như Đức Thánh Cha đã giảng một vài năm trước đây vào Thứ Tư Lễ Tro tại Santa Sabina: "Khi chúng ta quên nhu cầu sám hối, sự từ bỏ mình, và sự hy sinh, chúng ta quên đi sự kiện về tình trạng tội lỗi của chúng ta. Khi chúng ta không nhớ mình là kẻ có tội, chúng ta quên rằng chúng ta cần đến Đức Kitô. Và khi chúng ta quên rằng chúng ta cần đến Đức Kitô, chúng ta mất tất cả!"
Hoặc, như ngài nói với những ai đang chuẩn bị chịu chức linh mục trong tông huấn Pastores Dabo Vobis: "Đức Giêsu Kitô, người đã đưa lòng khoan dung mục vụ đến mức tuyệt hảo trên thập giá với sự hy sinh tận tuyệt là gương mẫu và nguồn mạch của mọi nhân đức--mà linh mục được mời gọi để sống--trong lòng khoan dung mục vụ. Phù hợp với lời của Thánh Phaolô--linh mục phải có cùng 'tâm trạng với Đức Kitô, ' hy sinh tận tuyệt chính mình để khám phá, trong khoan dung đó là sự vâng phục, sự khiết tịnh và khó nghèo, là con đường hợp nhất cao sang với Thiên Chúa và liên kết với dân Người" (Số 30).
Đối với tôi, dường như sự hối lỗi có thể xảy đến qua ba phương cách:


  1. Thứ nhất, khi chúng ta tự ý luyện tập việc hành xác.

  2. Thứ hai, khi chúng ta chấp nhận bị thế gian khước từ vì trung thành với Phúc Âm.

  3. Thứ ba, khi chúng ta can đảm chấp nhận mọi nghịch cảnh và buồn phiền đương nhiên xảy đến trong đời sống.

Tôi muốn nói thêm về mỗi một phương cách trên về sự hối lỗi nhất là trong đời sống của một linh mục.


Chúng ta đồng hình dạng với sự thống khổ và cái chết của Chúa Giêsu bởi tự do chấp nhận hành động từ bỏ mình. Đây là kiểu sám hối thường liên hệ với Mùa Chay, khi chúng ta tự ý từ bỏ loại thức ăn, thuốc lá, thú tiêu khiển, hoặc thú vui chính đáng, hoặc cố tập lấy một điều mà chúng ta thấy khó khăn, tỉ như thức dậy sớm hoặc đi bộ thay vì đi xe.

Đặc biệt loại sám hối đầu tiên này mà ngày nay ít người ưa chuộng. Những ai lớn tuổi có thể nhớ khi loại sám hối này được Giáo Hội ban bố, buộc phải kiêng thịt các ngày thứ Sáu quanh năm và ăn chay mọi ngày trong mùa Chay. Những bó buộc này không còn nữa, đó là một biện pháp nhằm gột rửa các động lực của chúng ta nhưng không giảm bớt việc tình nguyện sám hối. Không may, chúng ta đã đánh mất thói quen này.


Nhưng dù như vậy, có thể nói chắc chắn rằng các hành vi tự ý từ bỏ mình là con đường độc nhất để lớn lên trong sự thánh thiện. Thật khó để tìm thấy một vị thánh mà không có những thói quen hành xác đặc biệt trong sinh hoạt tinh thần. Tôi rất cảm động khi đọc tiểu sử của Đức Phaolô VI và biết ngài mặc áo nhặm như một hành động sám hối. Dầu sao đi nữa, vì linh mục được định nghĩa là một người thật sự muốn nên thánh, chúng ta có thể kết luận rằng các hành vi tự ý từ bỏ mình phải là một phần trong đời sống của mọi linh mục.
Tại sao các hành vi từ bỏ mình lại hữu hiệu trong sự thăng tiến tâm linh? Các thần học gia khổ hạnh cho chúng ta vài câu trả lời. Thứ nhất, việc hành xác giúp chúng ta cảm thấy gần với sự thống khổ của Đức Kitô hơn. Sự khó chịu tạm thời và mau qua gây nên bởi sự từ bỏ chính mình nhắc nhở chúng ta về tình yêu của Chúa Giêsu được thể hiện thật bi thương trong việc tự ý hy sinh cao độ trên thập giá của Người. Thứ hai, từ bỏ điều gì thường để lại một khoảng trống trong đời sống và rồi như người xưa thường nói, khoảng trống ấy sẽ được Thiên Chúa lấp đầy. Thứ ba, tự ý khước từ niềm vui chính đáng giúp chúng ta có thể khước từ những niềm vui bất chính. Thí dụ, nếu tôi có thể nhịn ăn cà-rem thì tôi cũng có thể kềm hãm được miệng lưỡi đừng nói điều xấu xa. Nói cách khác, chúng ta tự rèn luyện mình để khước từ một sự an nhàn chính đáng và rồi chúng ta có thể khước từ được những cám dỗ sau này, nhờ ơn của Chúa.
Ở đây là một sự khôn ngoan thực tiễn, hữu hiệu và đơn giản, được Kinh Thánh hỗ trợ. Theo truyền thống và gương của Chúa Giêsu, chính Người ăn chay. Cho phép tôi nhắc đến ba lãnh vực đặc biệt mà hành động từ bỏ mình thật thích hợp cho các linh mục.
1. Sự hy sinh thời giờ. Thật khó tìm thấy một sự tiện nghi nào quý giá hơn thời giờ, và sự sám hối mà một linh mục tốt lành phải luôn luôn yêu chuộng là hy sinh thời giờ.
Thời giờ để cầu nguyện với Chúa! Henri Nouwen có lần định nghĩa cầu nguyện là "lãng phí thời giờ với Chúa." Thật hy sinh là dường nào khi những người thực tế như chúng ta đã tự ý hành xác bằng cách trao cho Chúa thời giờ trong sự cầu nguyện. Tôi nhớ lần đầu tiên tham dự tám ngày tĩnh tâm theo phương pháp của Thánh Y Nhã. Ngày đầu tiên tôi thật khó khăn để suy niệm trong bốn giờ đồng hồ. Ngày hôm sau tôi báo cáo lại điều đó cho vị giám đốc, lý luận rằng tôi cần phải thực tế và vì vậy phải cắt bớt thời giờ đi, thay vì một tiếng chỉ còn bốn mươi lăm phút. Và rồi ngài quy định bốn lần một tiếng mười lăm phút (4 x 1.15=5giờ) cầu nguyện cho ngày hôm ấy, vì ngài cho tôi biết rằng Thánh Y Nhã nhấn mạnh rằng chúng ta phải thêm vào quãng thời gian mà chúng ta muốn cắt bớt. Không cần phải nói, tôi không dám than phiền nữa!
Trung thành với khoảng thời gian cầu nguyện hằng ngày, kinh nhật tụng và chiêm niệm, ngay cả khi dường như chẳng có gì thay đổi, có thể là một sự hy sinh thời giờ thực sự, nhưng là điều thích hợp nhất cho linh mục. Thỉnh thoảng mọi người chúng ta đều thắc mắc không biết đồng hồ có sai không khi chúng ta gắng gượng vượt qua thời gian cầu nguyện được ấn định. Đó là một hành động sám hối thật thích hợp cho chúng ta, hy sinh thời giờ, "lãng phí thời giờ với Chúa" trong sự cầu nguyện.
Chúng ta cũng hy sinh thời giờ cho dân Chúa. Những đòi hỏi đối với thời giờ của chúng ta! Một linh mục thật mong ước được một buổi tối đơn độc, một buổi chiều không có ai điện thoại hay có người đến quấy rầy, một ngày không có hẹn với ai. Một lần nữa, chúng ta được yêu cầu hy sinh thời giờ, tự ý từ bỏ điều gì đó thật quý giá để phục vụ dân Chúa. Điều này thật đúng với một linh mục giáo xứ là người mà dân chúng trông đợi sự hiện diện của ngài. Woody Allen đã nói "một nửa đời người là chỉ để có mặt," và điều đó rất đúng với linh mục giáo xứ. Có mặt ở đó, sau Thánh Lễ, trong cuộc họp, trong lớp học, trong nhà giáo dân, ở bệnh viện, ở nhà quàn, nhà dưỡng lão, ở sân chơi, trận đấu banh, giải trí, buổi liên hoan, v. v. "Cha có thể đến đó được không? Cha sẽ đến đó chứ? Chúng con sẽ đợi cha!" Sự hiện diện của linh mục! Nó mời gọi một hy sinh thời giờ thực sự, mà có thể là hành động hối lỗi.
2. Kiểu cách hối lỗi thứ hai rất cần thiết cho sứ vụ linh mục là sự đơn giản của đời sống. Đức Ông John Tracy Ellis có lần nói trong cuộc họp các linh mục, "Lối sống xa hoa và phong lưu nơi các linh mục có lẽ là nguồn tiếng xấu đối với tín hữu nhiều hơn là sự sa ngã xác thịt hay say sưa rượu chè." Tôi e rằng đó là sự thật. Tất cả chúng ta đều nản lòng khi thấy các linh mục lái những chiếc xe cáu cạnh, ăn tại những nhà hàng sang trọng nhất, gia nhập những câu lạc bộ có thanh thế, đi nghỉ hè ở những nơi xa lạ, mặc những quần áo đắt tiền nhất. Dân chúng không mong muốn chúng ta phải trở nên nghèo nàn, nhưng họ mong chúng ta sống đơn giản. Tôi đề nghị với các bạn rằng một đời sống thanh bạch thực sự sẽ đưa đến sự tự ý từ bỏ mình, vì theo lẽ tự nhiên một linh mục thích no nê, ấm áp, và ươn lười. Như vậy, học cách từ bỏ một số tiện nghi, của cải và đỏm dáng để bảo vệ sự đơn giản của chúng ta là một bài học căn bản của linh mục.
3. Lãnh vực thứ ba của sự tự ý hối lỗi thích hợp nhất cho linh mục là liên tục chiến đấu với phần tối tăm, chưa được giải thoát của chúng ta. Như Fulton Sheen đã nói, "Thánh nhân chỉ là một tội nhân đã phục hồi." Một linh mục khôn ngoan thì phải biết rõ về những yếu đuối, những xu hướng tội lỗi, phần tăm tối của mình. Tất cả chúng ta, tuy đã được cứu chuộc, vẫn có những ác thần len lỏi vào, và bước đầu tiên để chiến thắng là phải nhận diện được chúng. Vì vậy đời sống chúng ta trở nên một cuộc chiến liên tục để kiểm soát chúng, để biết chắc rằng chỉ có Đức Giêsu, và không có ai cũng như không có gì khác, làm chủ được chúng ta. Sự hy sinh phải đến vì đó là việc khó khăn! Chúng ta không thể thiếu cảnh giác và ngừng kiểm soát chính mình! Ngay khi nghĩ rằng chúng ta vững mạnh và làm chủ được bản chất tội lỗi chúng ta là khi đó chúng ta sắp sửa sa ngã.
Điều gì ẩn nấp kín đáo trong suốt cuộc đời bạn? Sự lười biếng, nóng nẩy, dâm ô, muốn được danh tiếng và thanh thế, lời nói cay độc, thích uống rượu, ham mê ăn uống? Tất cả chúng ta đều có một hoặc hai, hay ba những thứ này, những tâm trạng nguy hiểm. Để kiểm soát chúng, tiết chế chúng, đó là một cuộc chiến lâu dài đòi hỏi sự hy sinh.
Tôi nhớ có lần trong đại chủng viện khi Đức Hồng Y John Carberry, đức tổng giám mục của St. Louis, đến nói chuyện với chúng tôi về đời sống linh mục. Giờ đây, Đức Hồng Y Carberry là một trong những người đạo đức, thánh thiện bạn cần phải gặp. Sau cuộc nói chuyện, ngài yêu cầu nêu câu hỏi, và một trong những chủng sinh hỏi. "Thưa Đức Hồng Y, khi nào thì một linh mục chấm dứt những tư tưởng xấu và không bị cám dỗ đối với đức trong sạch?" Tất cả mọi người đều há hốc miệng kinh ngạc! Không ai lại hỏi một đức hồng y như vậy. Nhưng, không chút ngập ngừng đức hồng y trả lời, "Ô, khoảng năm phút sau khi chúng ta được coi là đã chết." Người đạo đức nào biết rõ cuộc chiến đấu với tội lỗi thì không bao giờ được ngừng nghỉ. Và không thể nào chiến thắng nếu không có sự từ bỏ mình.
Bây giờ, trước khi kết luận phần đề cập đến sự tự ý hối lỗi, hãy cho phép tôi nhắc lại một vài cảnh giác:


  1. Trong khi hiển nhiên là mọi người chúng ta đều phải yêu quý sự hành xác, nhưng nên khôn ngoan bàn thảo với cha linh hướng. Có khi chúng ta quá đáng về việc hối lỗi. Nếu các hành vi tự nguyện hành xác ảnh hưởng đến sức khỏe, làm mất sinh lực hay khiến chúng ta càu nhàu gắt gỏng, các hành vi ấy phản tác dụng.

  2. Hãy thận trọng đối với sự kiêu ngạo! Đôi khi sự tự ý hối lỗi có thể trở nên phản tác dụng khi chúng ta bắt đầu tự tán dương mình vì trở nên anh hùng vì Chúa. Nếu sự yêu quý việc hành xác khiến chúng ta chú ý đến chính mình, các hành vi ấy phản tác dụng. Như Thánh Piô Pietrelcina đã nói: "Sự hãm mình không phải là món quà chúng ta dâng cho Chúa, nhưng là để Chúa thi hành nhiều điều hơn nữa cho chúng ta!"

  3. Trong truyền thống Công Giáo, tự ý hối lỗi thì thật có ích khi nó dẫn đến sự bác ái đối với người nghèo, các hành vi thương xót đối với những người có nhu cầu. Như Thánh Phêrô Chrysologus đã nói: "Khi bạn ăn chay, nếu lòng thương xót của bạn mỏng manh thì kết quả thu hoạch được cũng mỏng manh; khi ăn chay, những gì bạn cho đi vì lòng thương xót sẽ tuôn tràn vào kho lẫm của bạn… Hãy cho người nghèo, đó là bạn cho chính bạn. Bạn sẽ không được phép giữ những gì mà bạn từ chối không cho người khác."

Chúng ta được mời gọi hối lỗi bởi sẵn sàng chấp nhận những khó khăn và chống đối xảy đến khi chúng ta trung thành với Phúc Âm.


Thành Thánh thì đầy những gương mẫu của những người trổi vượt trong loại hy sinh này. Chúng ta gọi họ là các vị tử đạo. Họ hy sinh mạng sống vì niềm tin của họ va chạm với những giá trị đương thời.
Vào năm 1997 khi ở Hoa Kỳ, tôi sống với Đức Hồng Y O'Connor. Một trong những linh mục thân cận với ngài cho biết, bất kể sự phản đối của đức hồng y, sở Cảnh Sát Nữu Ước thường có hai nhân viên an ninh chìm đi cạnh ngài khi xuất hiện trước công chúng vì có nhiều đe dọa đến tính mạng của ngài. Hãy nghĩ đến gánh nặng mà cố hồng y phải chịu vì thái độ thù nghịch đó. Tại sao? Vì ngài hăng hái bảo vệ các thai nhi và thường đặt các câu hỏi sâu sắc về vấn đề đồng tính luyến ái.
Hoặc hãy nghĩ đến Cố Hồng Y Joseph Bernardin, là người phải gánh chịu những lời cáo buộc nặng nề đầy độc ác và thô bỉ được đưa ra bởi một linh mục, là người ghét cay ghét đắng ngài chỉ vì điều mà linh mục này gọi là "các chính sách phóng khoáng". Đó là điều tôi muốn nói: hai linh mục can đảm phải đối diện với sự phiền nhiễu và khủng bố vì các ngài trung thành với Phúc Âm của Chúa Kitô. Giờ đây, nó không phải là sự tự ý hối lỗi, vì không ai trong các ngài yêu cầu điều đó. Loại hành xác này đến với các ngài chỉ là một hậu quả của các nguyên tắc đạo đức.
Và như vậy loại hành xác hối lỗi này sẽ xảy đến cho bất cứ linh mục nào xứng là muối men. Không lâu sau khi được chịu chức bạn sẽ bị ai đó dồn vào góc tường vì họ thấy khó chịu với lập trường cứng rắn của Giáo Hội đối với việc phá thai, hay ai đó thấy nóng mặt vì Đức Thánh Cha xin khoan hồng cho một tử tội sắp bị hành quyết. Bạn có thể bị phiền nhiễu bởi ngay cả trong đàn chiên, từ những người mắng nhiếc bạn vì từ chối không hỗ trợ sự tấn phong cho phụ nữ, với những người mà họ nghĩ bạn là tân thời vì bạn chấp nhận và cỗ vũ sự canh tân phụng vụ chính đáng của Công Đồng. Hãy sẵn sàng đối phó với điều đó! Thời gian mà các linh mục được coi là quá cao quý hay quá thánh thiện để khỏi bị châm chọc, bị chỉ trích hay bị nhạo cười đã qua rồi. Một linh mục nói với tôi rằng họ bắt đầu phải đeo tấm bia trên áo vì các linh mục bị tấn công đủ mọi phía.
Nếu chúng ta không kết hợp điều đó với sự bách hại và khước từ vô cùng mà Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong cuộc thống khổ của Người thì chúng ta sẽ kiệt quệ. Hãy nhớ đến câu nói hùng hồn của Đức Phaolô VI: "Khi khó để trở thành một Kitô Hữu, đó là lại là lúc dễ để trở thành Kitô Hữu. Và khi dễ để trở thành Kitô Hữu, lúc đó lại khó để trở thành Kitô Hữu." Chúng ta thường có khuynh hướng giải thích sự tẩy chay và chống đối như các dấu chỉ thất bại, trong khi theo chế độ nghịch lý của Kitô Giáo đó là những chứng tích của tinh thần môn đệ đích thực. Khi chúng ta đối diện với các mũi tên tấn công vì sự trung thành với Đức Kitô, chúng ta chia sẻ thập giá với Người. Hãy nhớ điều Thánh Phaolô nói, bài học lớn nhất của thập giá là Đức Giêsu đã có thể tránh được, nhưng thay vào đó Người đã tự ý chấp nhận để chứng tỏ nồng độ tình yêu của Thiên Chúa và sự ghê sợ của tội lỗi.
Chúng ta cũng có thể thoát khỏi thập giá, và chìm vào một loại rao giảng và kiểu cách mục vụ nhạt nhẽo, an nhàn, cảm thấy hài lòng. Như Thomas Reeves, một người viết tiểu sử về John F. Kennedy, đã viết trong ấn bản tháng Mười 1996 của tờ First Things: "Kitô Giáo ở Hoa Kỳ ngày nay thì nói chung vô thưởng vô phạt. Nó có khuynh hướng dễ dàng, lạc quan, tiện lợi, và tương thích. Nó không đòi hỏi sự hy sinh, kỷ luật, khiêm tốn, một cái nhìn về đời sau, một sự hăng hái trong linh hồn, một sự kính sợ cũng như yêu mến Thiên Chúa. Ít cảm thấy tội lỗi và không có hình phạt, và phần thưởng thiên đàng là điều đương nhiên. Đức tin này bị trùm lấp bởi nền văn hóa, tạo thành một điều thật đúng để gọi là Kitô Giáo của văn hóa. "
Nhưng như người ta thường nói, chúng ta được mời gọi để ngược dòng văn hóa, và như hầu hết chúng ta được dậy ở lớp tiểu học, khi bạn ngược với đám đông, bạn phải chuẩn bị để bị tẩy chay, nhạo cười và hạ gục. Chesterton nói "Kitô giáo không chỉ an ủi người bị đau đớn nhưng còn làm đau đớn những ai sung túc." Tôi e rằng thế giới vẫn còn bắt chước những người chế nhạo Đức Giêsu hãy "xuống khỏi thập giá", vì họ rất muốn một tôn giáo dễ dãi, đồng thuận, và dịu dàng. Bởi thế một linh mục được mời gọi ngược dòng văn hóa vì:


  • đối với một xã hội bạo lực và hận thù ngài bênh vực hòa bình và tha thứ;

  • đối với một thế giới no nê tình dục chính ngài thì độc thân và rao giảng về khiết tịnh;

  • đối với một xã hội điên cuồng tiêu xài, mua sắm, và đàn đúm, ngài nêu gương thanh bạch và chia sẻ;

  • đối với một quốc gia đổ tội và khinh miệt người nghèo ngài thúc giục sự chăm sóc và công bằng.

Và điều đó sẽ khiến bạn mất đi sự ưa thích của quần chúng, thanh thế, và quyền lực; và tôi dám chắc rằng điều này chỉ có ý nghĩa nếu chúng ta giải thích nó như sự hành xác hối lỗi, như một cơ hội để trở nên giống như Đấng Cứu Thế bị tẩy chay, bị khinh miệt, bị ngược đãi.


Trung thành với những đặc trưng của lời thề linh mục cũng sẽ đòi hỏi sự hy sinh. Phải, thật tốt để coi sự vâng phục, độc thân và thanh bạch như những lời hứa tích cực, giải thoát, và đúng là như vậy. Nhưng chúng ta không thể quên rằng mỗi một lời hứa đều có khía cạnh hy sinh, và chúng ta không thể có được nếu không có sự ép mình.
Một cuộc đời phục vụ Giáo Hội trong sự vâng phục đức giám mục là một lời hứa tự do, có tính cách sáng tạo. Nhưng bạn thật ngây thơ nếu không nghĩ rằng đôi khi sự vâng phục đòi hỏi phải chết đi cái tôi của mình. Để chấp nhận một bài sai mà chúng ta lo sợ, để nghe sự thuyên chuyển mà không được hỏi ý, bị trả lời "không" với một thỉnh cầu mà chúng ta nghĩ thật hợp lý, để nhìn thấy người khác thăng tiến hay được ưa chuộng hơn chúng ta, để tự hỏi không biết mình có bị lãng quên hay bị bỏ rơi--tất cả những điều này đi liền với lời hứa vâng phục, và tôi chưa từng gặp người nào có thể được coi là vâng phục mà không chết đi cái tôi của mình.
Sự độc thân khiết tịnh là điều đầu tiên và trước hết được Giáo Hội coi như vì một tình yêu chan hòa và quan trọng hơn, nhưng cho đến giờ bạn biết rõ nó cũng đòi hỏi từ bỏ một số điều, khước từ một trong những thúc giục tự nhiên và đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Phải cắt bỏ một tương giao thật khó để thi hành nếu không thực sự chết đi các khao khát rất mạnh mẽ.
Sau cùng, sự hối lỗi hành xác đi vào cuộc đời chúng ta khi tự ý chấp nhận những nghịch cảnh đương nhiên xảy đến. Như C. S. Lewis đã viết, "Kitô giáo không lấy đi sự khó khăn của đời sống; nó chỉ đem lại một lý do để chịu đựng khó khăn ấy." Cha Gene Hamilton không tự ý xin bị bệnh ung thư, có phải không? Bệnh cũng không đến với ngài như một hậu quả của sự trung thành với Phúc Âm, phải không? Thập giá của ngài xảy đến như mọi người--vì nước mắt, muộn phiền, ốm đau và nghịch cảnh đến với cuộc đời. Và nhân đức hối lối hành xác là một lời mời để đem lại ý nghĩa cho chúng, biến chúng trở nên có giá trị cứu độ, bởi giải thích chúng như các cơ hội để uốn nắn chúng ta trở nên giống như Đấng Cứu Thế đau khổ.
Aleksandr Solzhenitsyn nhận xét rằng sự rối đạo lớn lao nhất của thời tân tiến là tin rằng sự tiến bộ, thịnh vượng, sức khỏe và hạnh phúc là những điều bình thường, đáng trông đợi của đời sống, và vì thế, sự tuyệt vọng, chán chường, đau ốm, bệnh hoạn, ngược dòng, và những chiến đấu là sai lầm, thất bại, và bất hạnh phải tránh và phải trốn bằng mọi giá. Tuy nhiên, chúng ta có một vị Thầy nói rằng, "Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; ai mất mạng sống ấy vì Thầy vì gìn giữ được mạng sống ấy đời đời. "
Đời sống thì đầy dẫy những chán chường và nhức đầu. Một trong những ơn huệ lớn lao của Phúc Âm là nó đem lại một lý do để chịu đựng một cách vui vẻ và qua đó đạt được một đời sống và hạnh phúc.
Mỗi một người đều phải vác hàng chục thập giá hằng ngày, một số nặng, một số nhẹ. Tất cả các thập giá ấy xảy đến cách tự nhiên vì mỗi sáng bạn phải ra khỏi giường--mà thường là thập giá đầu tiên của ngày.
Thập giá đã ở đó! Chúng ta không thể tránh khỏi! Và trong từng thập giá ấy chúng ta nghe tiếng thì thầm của Chúa Kitô, "Hãy vác thập giá mình mà theo Thầy!" Đây là sự hối lỗi hành xác trong hình thức tinh tuyền nhất! Mỗi một người trong chúng ta đều được mời để yêu quý thập giá. Hãy lắng nghe Thánh Phanxicô "de Sales":
Trong sự khôn ngoan của Người, Thiên Chúa hằng hữu đã nhìn thấy từ thuở đời đời thập giá mà giờ đây Người trình bầy cho bạn như món quà từ tấm lòng của Người. Thập giá mà giờ đây Người trao cho bạn thì đã được Người đắn đo với con mắt thấu suốt tất cả, được hiểu biết với trí óc của Thiên Chúa, được xem xét với sự công bằng sáng suốt, được hun nóng với cánh tay yêu thương, và được cân nhắc với chính đôi tay của Người để biết chắc thập giá ấy không dài hơn một phân và không nặng hơn đối với bạn. Người đã chúc lành cho thập giá ấy với Danh Người, đã xức dầu với ơn sủng của Người, đã tẩm hương thơm với sự an ủi của Người, đã để ý đến bạn và sự can đảm của bạn, và sau đó đã gửi thập giá ấy từ trời xuống cho bạn, một lời chúc mừng đặc biệt từ Thiên Chúa cho bạn, một ban bố từ tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa.
Hãy để tôi nhắc lại một vài thập giá có thể đoán trước sẽ xảy đến với linh mục, không phải vì ngài yêu cầu, không phải vì ngài can đảm làm chứng cho Phúc Âm, nhưng chỉ vì ngài ra khỏi giường mỗi buổi sáng và muốn trở nên một linh mục đứng đắn.
Thứ nhất là sự hành xác vì lắng nghe. Một linh mục khôn ngoan nói rằng lắng nghe là công việc chiếm trọn thời gian của một linh mục, lắng nghe Chúa, lắng nghe dân của Người. Đôi khi nó được gọi là "Thừa tác vụ của đôi tai. "
Tôi nhớ khi đến giáo xứ mới được vài ngày thì một phụ nữ gọi điện thoại và xin gặp tôi. Khi bước vào nhà xứ và tự giới thiệu, đó là lời sau cùng tôi mở miệng. Trong một giờ đồng hồ, bà ta nói, khóc lóc, kể lể và sau cùng bà đứng dậy nói, "Cám ơn Cha, con cảm thấy khá hơn nhiều!" Tôi chưa nói thêm một lời nào!
Chúng ta lắng nghe trong tòa giải tội, bên ngoài giáo đường, trong nhà xứ, và nhất là trong các cuộc họp. Chúng ta lắng nghe đức giám mục, và tòa giám mục nói chúng ta phải làm những gì; chúng ta lắng nghe khi giáo dân nói chúng ta đừng làm những gì. Lắng nghe với sự chăm chú, bén nhậy, và thích thú là một sự khéo léo--và có thể là một sự hành xác. Hãy cố tập ngay tự bây giờ. Bạn có lắng nghe cách chăm chú, nhìn thẳng vào người nói, thích thú với những gì họ nói không? Hoặc bạn là người thích ba hoa, chỉ quan tâm đến mình, không thích nghe người khác nói, và chỉ nghĩ đến câu trả lời. Lắng nghe là một sự khéo léo mục vụ tuyệt vời, một khả năng được trông đợi nơi linh mục--và cần phải hành xác.
Một loại hối lỗi khác mà là một phần của đời sống mọi linh mục là chờ đợi và tin tưởng rằng công việc của chúng ta sẽ sinh kết quả. Tôi nhớ cậu em tôi kể cho nghe về sự phấn khởi khi có con đầu lòng, nó ở ngay trong phòng sinh với vợ, và hồi hộp bế đứa con gái đầu lòng. Đây là một kết quả sống động, có hơi thở, có xác thể của tình yêu.
Chúng ta không có sự hồi hộp đó. Chúng ta cũng yêu thương, và chúng ta hy vọng tình yêu của chúng ta sẽ sinh kết quả, nhưng thường các linh mục không thấy đó là một sự hành xác. Dân chúng có xúc động khi nghe bài giảng của chúng ta không? Đôi khi chúng ta nghe biết về phản ứng của họ; nhưng hầu hết chúng ta chỉ tin tưởng. Những người tân tòng có còn kiên trì không? Có lẽ chẳng bao giờ chúng ta gặp họ nữa. Không biết hạt giống đức tin được vun trồng trong bí tích rửa tội mà chúng ta thi hành cho các em có nẩy nở thành một đức tin trưởng thành, sống động không? Hầu hết chúng ta không biết được. Bạn đừng hiểu lầm tôi--chúng ta sẽ kín đáo với những hoạt động lạ lùng của Thiên Chúa qua sứ vụ bất xứng của chúng ta, nhưng không phải tất cả đều vậy. Hầu hết chúng ta cố gắng hết sức, và chờ đợi và tin tưởng rằng một ngày kia nó sẽ nở hoa. Chúng ta không có niềm vui được cầm lấy kết quả của tình yêu chúng ta trong bàn tay. Và đó có thể là một thập giá.
Sau đó là "sự mệt mỏi tốt lành". Chưa bao giờ nghe điều đó sao? Chúng ta mệt mỏi vì thi hành việc tốt lành! Dorothy Day cho rằng một trong những câu Kinh Thánh quan trọng là: "Anh chị em thân mến, đừng bao giờ mệt vì thi hành điều tốt lành" (2 Thes 3:13). Hàng ngày chúng ta chiến đấu với tội lỗi, sự dữ, Satan, tính ích kỷ, đau ốm và điều đó thật mệt mỏi. Có lúc chúng ta kiệt sức vì làm việc thiện. Thánh Máccô nói, "Chúa Giêsu đi khắp nơi làm việc lành," và các linh mục của Người cũng phải như vậy. Nhưng liên tục làm việc lành là một việc khó khăn, một thập giá hằng ngày. Chúng ta muốn trốn, cắt điện thoại, khóa cửa, uống một vài ly rượu, nằm dài trên giường cả ngày, nghiện ngập với truyền hình, rút lui vào một câu lạc bộ một tuần lễ, nói với dân chúng là chúng ta quá mệt mỏi vì sự than van của họ--nhưng hằng ngày chúng ta được mời gọi để làm việc lành, và đó có thể là một thập giá.
Những "chán chường" có thể là một loại hành xác hằng ngày cho linh mục. Phải, nó có thể là một trong những phương cách phấn khởi nhất, thích thú nhất, thách đố nhất của đời sống chung quanh, nhưng nó có thể nhạt nhẽo và chán chường. Có rất nhiều điều như tắt đèn, điền tên người xin lễ, quét nhà, chùi cầu tiêu vì nước tràn khiến chỉ sau vài phút chúng ta đã phải tự hỏi tại sao chúng ta lại làm linh mục. Nếu chúng ta không chấp nhận thi hành những "chán chường" này như một lời mời gọi kiên trì với Đức Kitô trên đường đến Canvê, những "chán chường" ấy có thể tiêu diệt chúng ta.
Sau cùng, loại hành xác thứ năm bạn sẽ thấy nơi đời sống mỗi linh mục: thập giá hàng ngày chỉ vì thi hành tốt các nhiệm vụ tầm thường, đều đặn của chức linh mục vì vinh dự của Thiên Chúa và yêu thương dân chúng.
Trong buổi lễ giỗ Đức Hồng Y John Newman năm 1997 tại San Giorgio ở Velabro, Đức Tổng Giám Mục John Foley đã giảng rất hay về điểm này, ngài trích lời của Newman để làm chủ đề: "Nếu chúng ta muốn trở nên toàn hảo, chúng ta không phải làm gì hơn là thi hành các nhiệm vụ hàng ngày một cách tốt đẹp." Do đó, chúng ta thi hành công việc, chu toàn nhiệm vụ, một cách độ lượng và vui vẻ, không ai để ý và cũng không than phiền. Hầu hết các linh mục thì như vậy- ngày này qua ngày khác. Nhưng, anh em thân mến, sự lưu tâm bền bỉ và hằng ngày đối với bổn phận linh mục có một chiều kích sám hối.
Còn ai nói hay hơn Bông Hoa Nhỏ? Ngài khao khát một sứ vụ anh hùng, chói lọi ở nước ngoài: có thể là một nhà truyền giáo ở Trung Cộng? Có thể là một vị tử đạo? Và trong viễn ảnh đó xảy đến là một điều quá đơn sơ và giản dị vượt quá sự hiểu biết của chúng ta: bí quyết của sự thánh thiện là thi hành những điều nhỏ bé trong đời một cách chu đáo vì vinh danh Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Và nó đòi hỏi điều mà chúng ta có thể gọi là một "hành xác tiêu cực" khi hằng ngày chúng ta vác thập giá mình và tiến lên chút xíu với Đức Giêsu trong sự thống khổ và thập giá của Người.
Đó không phải lý do hay sao để nhìn đến những người đã ảnh hưởng sâu đậm đến cuộc đời chúng ta với tình yêu và sự thán phục, đó là các người làm cha mẹ, một vài linh mục--họ không có gì vĩ đại, không gây ảnh hưởng nhiều mà chỉ ngày này sang ngày nọ bền bỉ ở đó?
Phải, sự hành xác đi vào đời sống chúng ta khi chỉ cần ôm ấp những nặng nề và khó khăn xảy đến trong đời.
Thánh Gioan Thánh Giá nói: "Tôi thấy một con sông mà trên đó mỗi linh hồn phải vượt qua để đến với vương quốc thiên đàng, và tên của con sông là chịu đựng--và tôi thấy có con thuyền mang các linh hồn qua sông, tên của con thuyền đó là tình yêu"
Tình yêu và sự chịu đựng--những chữ then chốt để diễn tả sự hành xác, như chúng ta đồng hình dạng với Đức Giêsu trong sự thống khổ và thập giá của Người để chúng ta có thể được sống lại trong sự phục sinh của Người. Như Thánh Phaolô đã diễn tả, "Chúng tôi mang trong thân xác chúng tôi cái chết của Đức Giêsu. "
Người xưa thường diễn tả các linh mục là nạn nhân của giáo dân. Họ muốn nói gì? Đó là các linh mục cùng với Đức Kitô mang lấy tội lỗi, khó khăn, và những đau khổ của người dân.
Chúa Giêsu đã thi hành điều đó. Người là Chiên Thiên Chúa đấng gánh tội trần gian. Nhiều khi Người quá thấm đẫm sự bệnh hoạn, buồn chán và tan nát đến độ Người phải thở dài; Người phải rên rỉ. Trong những mặc khải bí ẩn Thánh Bridget ở Thụy Điển viết rằng vết thương sâu đậm của Chúa Giêsu không phải là ở chân tay, hay cạnh sườn mà là ở trên vai, vết cắt dài và sâu vì vác thập giá, nó quá nặng.
Người khẩn nài những ai tự cho mình đang hành động thay mặt Người hãy cùng với Người trở nên một nạn nhân cho dân chúng, hãy vác trên vai các tội lỗi, đau khổ và thử thách của người dân.
Mắt bạn sẽ mở ra khi trong Thánh Lễ buổi sáng ở giáo xứ và nhìn xuống giáo dân. Kìa ở hàng ghế sau cùng, một người chồng trung thủy và là người cha của bốn đứa con đã thất nghiệp hơn năm tháng và đang tuyệt vọng; kìa là ông giám đốc cách đó hai hàng ghế mà viễn ảnh thành công bị méo mó vì công ty phải thu hẹp; kìa là Sơ Mỹ Lan, giám đốc chương trình giáo lý, mà ngày mai phải đi khám nghiệm vì e rằng sẽ bị ung thư ngực; kìa là người vợ mà bạn đã đưa vào trung tâm tạm trú hai lần vì bị người chồng đánh đập; kìa là đôi vợ chồng mà bạn đến khuyên giải hôn nhân; kìa là một thiếu niên mà bạn đã đến thăm trong trung tâm cai nghiện--tất cả cùng với thập giá của họ--bạn biết tất cả vì bạn là một phần của đời sống họ và họ phải chia sẻ các thập giá ấy với bạn. Và trong Thánh Lễ bạn gom lấy tất cả, và đặt trên đĩa thánh rồi đổ trong chén thánh và biến chúng trở thành mình và máu Đức Kitô và dâng lên Thiên Chúa Cha! Bạn thi hành điều đó trong Thánh Lễ; bạn sống điều đó là một linh mục.
Đã lỗi thời, có lẽ ủy mị và quá hão huyền, nhưng đích thật và giá trị là những lời nổi tiếng của Lacordaire:
Sống giữa thế gian mà không mơ tưởng vui thú thế gian;

Là một phần tử của từng gia đình, nhưng lại không thuộc về gia đình nào;

Chia sẻ mọi đau khổ;

Thấm nhập mọi bí ẩn;

Chữa lành mọi thương tích;

Đi từ con người lên Thiên Chúa và dâng lên Người lời khẩn nguyện;

Từ Thiên Chúa trở về với con người để đem lại sự tha thứ, bình an và hy vọng;

Có một tâm hồn rực lửa để yêu thương bác ái và một con tim bằng đồng để sống thanh khiết;

Để dậy bảo và tha thứ, để an ủi và luôn chúc lành;

Lạy Chúa, thật là một cuộc đời;

Và đó là cuộc đời của Chúa, ôi Linh Mục Giêsu Kitô!
Chúng ta hãy cầu nguyện;
Lạy Đức Kitô, chúng con thờ lậy Ngài, và chúc tụng Ngài! Vì nhờ thập giá, Ngài đã cứu độ thế gian!

Chương 11
TRAU DỒI NHÂN CÁCH

(Đoạn trích Kinh Thánh: Phil 4:7-9)
Toàn thể công trình đào tạo linh mục sẽ thiếu sót nền tảng cần thiết nếu mất đi việc đào tạo con người. Linh mục, được mời gọi để trở nên một hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô, là đầu và chủ chăn của Giáo Hội, phải cố gắng cho thấy bản chất con người của mình, càng giống càng tốt, với sự tuyệt hảo nhân bản được chiếu tỏa trong Con Thiên Chúa Nhập Thể và đặc biệt được tỏ hiện trong thái độ của Người đối với tha nhân như chúng ta thấy tường thuật trong Phúc Âm…Để thừa tác vụ của linh mục có thể trở nên đáng tin cậy và chấp nhận được về phương diện nhân bản, thật quan trọng là linh mục phải khuôn đúc nhân cách của mình sao cho trở nên một nhịp cầu để người khác đến với Chúa Giêsu Kitô hơn là một chướng ngại- (số 43)
Lời nói đầu trích từ tông huấn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, và có lẽ đó là câu thường được trích dẫn nhất trong toàn thể văn kiện. Các bình luận gia suy diễn rằng lời phát biểu này được nhiều người coi là cách mạng nhất bởi vì, tuy Giáo Hội mặc nhiên công nhận điều đó trong nhiều thế kỷ, nhưng chưa có giáo hoàng nào dám nói lên một cách chính thức và thẳng thừng. Đức Thánh Cha đơn giản tuyên bố rằng sự quan trọng hàng đầu của việc đào tạo con người trong toàn thể công trình chuẩn bị cho chức linh mục, mà một ứng viên chức thánh phải phát triển các nhân đức tự nhiên, nhân bản cộng thêm với các nhân đức siêu nhiên; mà cá tính, nhân cách, tính tình của chúng ta tạo thành nội dung, "đủ mọi thứ" của chức linh mục, là điều mà Chúa đã "tái sắp xếp" và dùng trong bí tích chức thánh; và cá tính, tính khí, nhân cách của chúng ta, khi là linh mục, sẽ hoặc lôi kéo người ta đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người, hoặc khiến họ xa lánh.
Tất cả những gì Đức Thánh Cha muốn nói đó là "ơn sủng được xây đắp trên bản chất tự nhiên," theo như câu nói lừng danh của Thánh Tôma. Ơn Chúa thăng tiến, tác động, và biến đổi bản chất của chúng ta. Chúng ta chỉ cung cấp nguyên liệu cho ơn sủng lạ lùng của Chúa. Như có lần tôi nhắc đến trong một Thánh Lễ, "Chúng ta không thể có chiếc bánh ngon nếu không có bột tốt." Tôi muốn nói với các bạn về loại bột chúng ta cung cấp cho Chúa để làm việc. Đó là những gì trong nhân cách, cá tính, tính khí của chúng ta phải nhuần nhuyễn để ơn Chúa hoạt động, đó là nắm đất sét trong bàn tay của Thợ Gốm, mà Người có thể dùng để đem dân chúng đến với Người? Và đó là những gì trong cá tính, bản chất của chúng ta, cưỡng lại ơn sủng của Người, khiến dân chúng phải xa lánh Chúa và Giáo Hội? Nói cách khác, sự đào tạo con người.
"Chủng sinh thế nào thì linh mục sẽ như vậy," ngạn ngữ nói rất đúng. Thường chúng ta áp dụng câu đó vào đời sống siêu nhiên-nếu bạn cầu nguyện và luyện tập nhân đức khi là chủng sinh thì bạn cũng sẽ làm như vậy khi là linh mục; nếu bạn không sống nhân đức khi là chủng sinh thì khi là linh mục bạn cũng sẽ lười biếng, bởi vì chức thánh, tuy có thể biến đổi căn tính thiêng liêng của bạn, sẽ không thay đổi thói quen của bạn.


  • Một chủng sinh hay gắt gỏng ư? Lại thêm một linh mục bẳn gắt!

  • Một chủng sinh bẩn thỉu ư? Sẽ bẩn thỉu như một linh mục!

  • Lè phè trước khi chịu chức ư? Giáo dân sẽ khó chịu vì một linh mục không đúng giờ.

  • Một chủng sinh tránh đụng độ giáo dân ư? Thêm một linh mục không hăng say rao giảng Phúc Âm như Giáo Hội mong muốn.

  • Một chủng sinh hôi hám ư? Sẽ thêm một linh mục mà giáo dân tránh né.

  • Người nói chuyện huyên thuyên vô nghĩa? Giáo dân sẽ không muốn tiếp khi linh mục đến thăm.

  • Một chủng sinh thích ham hố quyền bính ư? Sẽ có thêm một linh mục "ông trời con".

  • Một chủng sinh thích chuyện tầm phào? Lại thêm một linh mục vòng vo tam quốc.

  • Ai đó thích "thượng cẳng chân hạ cẳng tay" với chuyện nhỏ? Hãy coi chừng linh mục dữ tợn!

Bởi vì ơn sủng được xây dựng trên bản chất, Chúa chỉ có thể hoạt động với những gì chúng ta trao cho Người.


Nói cho cùng, điều đó không có gì mới lạ, nhưng, như một phản ứng với lời của Đức Thánh Cha, Giáo Hội dường như thức tỉnh trước giá trị của việc đào tạo con người ngày nay. Tôi nghe thấy điều đó từ các giám mục, các cha giám đốc chủng viện, các cha xứ, và rất nhiều từ giáo dân: ít khi tôi nghe họ phê bình bất cứ chủng sinh nào của trường North America là thiếu cầu nguyện, không tuân phục giáo huấn, không đạo đức--điều họ chỉ trích là các thiếu sót của con người.
Mới đây tôi hỏi một giám mục về một chủng sinh và người buồn bã trả lời là cha xứ đã yêu cầu thuyên chuyển chủng sinh ấy. Tôi hỏi, Sao vậy? Có phải vì giảng dở, không chu toàn mục vụ, thiếu chuẩn bị thần học, không có thói quen cầu nguyện? Không phải những điều đó! Vậy sao cha xứ lại yêu cầu thuyên chuyển? Vì căn phòng của anh như cái chuồng heo! Người quản gia cũng không muốn bước chân vào dọn dẹp. Ngay cả giựt nước cầu tiêu hắn cũng không làm. Đó không phải là vấn đề siêu nhiên, có phải không? Đó là về nhân cách! Nhưng nó đã làm suy yếu khả năng để hành xử như một linh mục. Việc đào tạo con người…
Tôi hỏi cha xứ về một chủng sinh khác. Ngài trợn tròn đôi mắt rồi lắc đầu. Lại một chuỗi câu hỏi: Có phải vì bài giảng của anh ta? Không. Kiểu cách phụng vụ của anh? Không. Thiếu đời sống cầu nguyện? Không. Thiếu căn bản thần học? Không phải vậy. Vậy là gì? Cha xứ trả lời, "Hắn rất khó chịu." Ngài kể ra rằng hắn cao ngạo, thô bỉ với giáo dân, ích kỷ không muốn chia sẻ thời giờ của mình, ngạo mạn với hội đồng giáo xứ, với giáo dân thì cái gì cũng biết. Lại là vấn đề đào tạo con người: không có gì là siêu nhiên ở đây cả, nhưng một người với tư cách, cử chỉ và cá tính làm người ta xa lánh hơn là đưa họ đến với Đức Kitô.
Chúng ta được gọi là người xây cầu, từ chữ pontiflex. Cử chỉ, tư cách và cá tính của chúng ta là để thu hút dân chúng, chứ không phải làm họ sợ hãi, đau khổ và xa lánh. Do đó chúng ta phải ý thức về các đặc điểm trong cá tính của chúng ta để như đá nam châm thu hút người ta về với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người, và liên lỉ thăng tiến, trau chuốt, và cải thiện chúng; và vì thế chúng ta phải thẳng thắn đối phó với các đặc điểm mà nó làm tổn thương, đe dọa và xúc phạm đến người dân, và tìm cách gột rửa chúng khỏi tính khí của chúng ta.
Khi bạn nói chuyện với các linh mục trong nhà xứ, thường họ thấy điều gì? Sự căng thẳng con người, có phải không? Một người không muốn nói, không muốn hòa đồng; một người cẩu thả để điện cháy sáng và đến trễ; một người để phòng áo lễ bừa bộn và không chịu chia sẻ gánh nặng. Tất cả là những sai sót con người.
Tôi không nói gì mới mẻ. Đa số chúng ta đều bị ảnh hưởng cách sâu đậm bởi một linh mục tốt lành trong đời sống chúng ta, có thể ở nhà xứ, nhà trường, trong tòa giải tội, ở những giai đoạn khó khăn của đời sống. Nhân tính của ngài--sự thành khẩn, lòng thương người đích thật, sự lưu tâm, sự kiên nhẫn, sự bén nhậy, sự thân thiện của ngài--nhân tính của ngài là chiếc xe, là nhịp cầu cho chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, đấng thiêng liêng, siêu nhiên. Tất cả chúng ta đều muốn trở nên một linh mục như thế! Tuy vậy, tất cả các bạn đều gặp các linh mục là người làm bạn bàng hoàng, không phải vì khuyết điểm đời sống nội tâm của họ, vì điều đó chúng ta không biết, nhưng vì cá tính, đặc điểm của họ--gắt gỏng, đời sống xa hoa, lạm dụng tình dục, say sưa, nóng nẩy, ngôn ngữ xử dụng, vô tâm, lười biếng. Hãy trích lời của Đức Thánh Cha. "Thật quan trọng là linh mục phải khuôn đúc nhân cách của mình sao cho trở nên một nhịp cầu để người khác đến với Chúa Giêsu Kitô hơn là một chướng ngại."
Khi Cha Carl Mengeling được tấn phong làm giám mục của Lansing, trong bài giảng, ngài nhìn đến Đức Hồng Y Maida, là người tấn phong cho ngài, và nói, "Thưa Đức Hồng Y, khi đến lúc phải đặt sách phúc âm lên đầu con, xin ngài ấn cho mạnh, vì con phải để phúc âm thấm nhập qua cái đầu cứng cỏi và ngoan cố của con mà nó thường cưỡng lại những thúc giục của phúc âm." Không phải tất cả chúng ta đều như thế sao? Nhiều khi chúng ta gọi điều này là "sự hữu hiệu phúc âm hóa": nói cách khác, điều gì trong cá tính của tôi làm cho lời rao giảng và đời sống Phúc Âm được trở nên hữu hiệu và trôi chẩy, và điều gì không?
Tại trường North America chúng tôi nhấn mạnh đến đời sống tinh thần và trí tuệ. Chủng viện của chúng tôi tồn tại để cung cấp một môi trường là nơi mà một chủng sinh có thể yêu mến Chúa Giêsu ngày càng thân thiết, và học hỏi Mặc Khải của Người với sự nghiêm nhặt và chính xác. Tôi hãnh diện là trong hai lãnh vực này chúng tôi được tiêu chuẩn cao. Các chủng sinh từ giã nơi đây với một đời sống tinh thần vững chắc, có kỷ luật, có nền tảng và một giáo dục thần học tốt đẹp. Nhưng điều này không giúp gì nhiều nếu các đặc tính nhân bản không được tinh lọc và lôi cuốn. Lời cầu nguyện và học thức của một linh mục có ích gì nếu cá tính của họ làm dân chúng xa lánh? Một người có thể biết hết về thần học hôn phối, nhưng nếu quá nhút nhát trước đám đông thì chẳng có đôi trẻ nào đến chuẩn bị hôn phối. Khả năng rao giảng của ai đó có thể chói lọi nhưng chúng sẽ không ích gì nếu trên tòa giảng người ấy la mắng con nít đang khóc.
Đức Tổng GM Fulton Sheen kể một câu chuyện về bài giảng đầu tiên của ngài khi đi coi xứ. Ngài chuẩn bị thật kỹ và thật trau chuốt nên tin chắc sẽ thật hay. Sau Thánh Lễ khi chào giáo dân, ngài chờ xem có ai khen, nhưng không ai nói một lời về bài giảng. Sau cùng, khi mọi người đã ra về hết, ngài hỏi người thu dọn nhà thờ xem ông ta nghĩ gì. "Thưa Cha, thành thật mà nói, không ai nghe được Cha nói gì." Vì bây giờ biết rõ về Cha Fulton Sheen, tôi tin rằng nội dung bài giảng hôm ấy thật hay- nhưng, chỉ vì một thiếu sót con người-ngài nói quá nhỏ-nên bài giảng của ngài không giúp gì ai cả.
Một ông chơi đánh gôn (golf) với cha sở và tỏ vẻ thán phục tài nghệ của cha, đánh đâu trúng đó, trong khi ông ta đánh, banh cứ còn cách lỗ đến hai ba thước. Sau cùng ông ta hỏi bí quyết của cha sở. "Có gì đâu, trước khi đánh, tôi đọc kinh Kính Mừng." Lần tới, cha sở đánh một đường banh thật xa và banh rơi vào lỗ; ông này tin tưởng đọc kinh Kính Mừng và rồi banh vẫn cứ cách lỗ gôn đến hai ba thước. Cha sở nhìn ông và nói, "Kinh kệ không giúp gì nhiều nếu ông không biết chơi gôn!"
Chúng ta phải biết "cách đánh gôn" thì người ta mới bị thu hút đến với Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người qua chúng ta. Dù muốn hay không, cá tính của một linh mục có thể góp phần quyết định xem một người sẽ ở lại với Giáo Hội hay không. Khi tôi là một linh mục giáo xứ, tôi thường đến thăm những người Công Giáo từ bỏ Giáo Hội và tôi ngạc nhiên khi thấy người ta từ bỏ Giáo Hội là vì một linh mục hay một nữ tu đã làm họ đau lòng, và lý do đó chỉ đứng sau lý do hôn nhân bất thường. "Ô khi tôi ở trong bệnh viện và mời Cha Nguyễn đến thăm tôi nhưng ngài không bao giờ đến." "Mẹ tôi gần chết và mời Cha Trần đến xức dầu nhưng ngài không đến." "Khi con cái tôi đi học và chưa kịp đóng tiền học thì cha xứ đã đuổi chúng về."
Những người đó từ bỏ Giáo Hội vì một linh mục. Điều đó không đúng chút nào, có phải không? Từ bỏ Giáo Hội chỉ vì không thích một linh mục thì có vẻ điên khùng, và chúng ta biết cả. Tôi nhớ khi còn nhỏ ở nhà ông bà nội vào sáng Chúa Nhật sửa soạn đi lễ. Bà tôi nói với ông nội, "Ông à, đã đến giờ đi lễ rồi. "
Ông đang thoải mái đọc báo trên ghế sa lông, và trả lời, "Tôi không đi… Tôi không chịu nổi ông cha mới đó."
Bà nội trả lời, "Thì ông cũng không thích cái thằng pha rượu ở cái quán đó, nhưng ông có ngừng tới đó hay không?" Ông tôi đứng dậy và đi lễ. Chắc chắn là điên khùng khi bỏ Giáo Hội vì những yếu điểm của một linh mục, nhưng nhiều người lại như vậy, và chúng ta phải thận trọng khi thấy điều đó thì đừng bào chữa. Lậy Chúa xin đừng để bất cứ ai phải xa cách Chúa Giêsu và Giáo Hội Người, chỉ vì những gì chúng con nói hay làm, hoặc vì những gì chúng con không nói hay làm mà lẽ ra phải như vậy.
Vào năm 1996, tôi đang trong buổi liên hoan tại Đại Học John Cabot để kỷ niệm ngày thành lập tờ New York Times thì một nữ ký giả nổi tiếng đến với tôi. Trong quá khứ tôi đã từng nói chuyện với cô ta. Lần này cô có vẻ gay gắt. Cô nói với tôi, "Hãy nói với các chủng sinh là cẩn thận!" Tôi hỏi cô muốn nói gì. "Rôma có thể dậy họ những gì tốt cho Giáo Hội, nhưng nó cũng có thể dậy họ trở nên các linh mục ghê tởm, hung dữ, đầy tham vọng, đâm sau lưng người khác." Cô tiếp tục cho biết là hôm thứ Hai cô tham dự Thánh Lễ để vinh danh vị tân chân phước Edmund Rice tại nhà thờ Thánh Phêrô và khi ra về, trời mưa tầm tã. Cô có cuộc hẹn gấp phải gặp và lúc ấy rất khó tìm xe taxi, khi tìm được một chiếc và mở cửa xe chuẩn bị bước vào thì một linh mục đã xô cô sang một bên và nhẩy xổ vào. Cô giận điên người. Không cần phải nói, thái độ thô bỉ ghê tởm của linh mục đó đã ảnh hưởng đến các bài viết sau này của cô về Giáo Hội.
Chúng ta phải luôn ý thức rằng chúng ta là một nhân vật công cộng trong Giáo Hội. Xấu hay tốt, đúng hay sai, chúng ta đại diện cho Giáo Hội trước mắt dân chúng. Họ nghĩ thế nào về Chúa Giêsu và Giáo Hội Người thì tùy thuộc lối sống của chúng ta, nhân cách của chúng ta có tốt lành hay không. Thật là một trách nhiệm nặng nề! Dân chúng có thể xa lánh chúng ta, và vì thế chúng ta phải tránh không những hành động sai lầm mà còn có vẻ sai lầm. Trái lại, người dân có thể bị thu hút đến với Chúa và Nhiệm Thể của Người qua chúng ta-và thật là vui sướng biết chừng nào!
Có lần trên máy bay tôi ngồi cạnh một người và họ cho biết đã trở lại đạo Công Giáo vì tấm gương của ĐHY Cooke. Tôi nói, "Ô, thật vậy, trong thời gian ngài hấp hối, sự kiên nhẫn và phó thác của ngài đã làm cảm phục nhiều người. "
Ông trả lời, "Vâng đúng vậy. Nhưng tôi trở lại đạo trước đó từ lâu. Một ngày kia ở phi trường, người ta đứng xếp hàng thật dài để chờ lên xe buýt, và ĐHY Cooke cũng đứng chờ ngay phía trước tôi. Một tiếp viên hàng không đi đến và nói nhỏ với ngài, 'Thưa Đức Hồng Y, xin theo con, con sẽ đưa ngài đến đứng trước.' Và đức hồng y trả lời, 'Cám ơn nhã ý của anh, nhưng tôi có thể đợi được mà.' Một hành động khiêm tốn đơn giản ấy đã khích động tôi nghĩ đến việc trở lại đạo Công Giáo."
Chúng ta có thể đưa người ta vào đạo; chúng ta cũng có thể khiến họ xa lánh. Phải, ơn siêu nhiên thì cần thiết, nhưng chúng ta thường hấp dẫn họ hay xua đuổi họ qua nhân cách, phần tự nhiên của cá tính chúng ta.
Bây giờ, tôi sẽ kể ra ba đức tính đặc biệt của con người-và có thể nhiều hơn nữa-mà dân chúng thấy đặc biệt hấp dẫn nơi các linh mục.

Tính thứ nhất thì mờ mờ ẩn hiện, tôi phải thú nhận như vậy, nhưng chỉ có một chữ tôi muốn dùng là "sự tử tế." Giáo dân yêu thích các linh mục tử tế. ĐHY John O'Connor kể câu chuyện mà sau khi ngài chịu chức không lâu, ngài hỏi một linh mục lớn tuổi là có lời khuyên gì không. Vị linh mục này trả lời, "Sao không. Ba điều khuyên nhủ: Hãy tử tế! Hãy ân cần! Hãy tốt bụng!"


Một vài năm trước đây, tôi được mời tham dự các Thánh Lễ đầu tiên của ba tân linh mục. Trong mỗi một tổ chức đầy hân hoan này, nhìn đến dân chúng tham dự đứng chật nhà thờ, tôi có cùng một ý nghĩ: những người này là lý do mà tôi ở đại chủng viện North America--để đào tạo các linh mục tử tế, tốt lành là những người sẽ phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa. Tôi nhìn đến giáo dân; nhiều người mặc bộ quần áo duy nhất tươm tất của họ; khuôn mặt họ ánh lên vẻ sung sướng khi được dự phần trong đời sống một linh mục; họ yêu quý vợ/chồng con, giáo xứ, đức tin và Thiên Chúa của họ; họ yêu quý các linh mục, và tất cả những gì họ cần được đáp trả là các linh mục tử tế với họ, chăm sóc họ, cho họ thấy tình yêu của Thiên Chúa. Và họ không được những gì đã chia sẻ với các linh mục, là người đã ruồng rẫy họ, quên lãng nhu cầu của họ, làm họ đau khổ. Nhưng họ vẫn hy vọng. Đó là những người đáng được sự tử tế của chúng ta.
Anh Charles de Foucauld viết, "Trở nên một tông đồ, nhưng làm thế nào? Với sự tử tế và ân cần, yêu thương như anh chị em, sống gương mẫu… Trở nên kiên nhẫn như Chúa đã kiên nhẫn, trở nên tốt lành như Thiên Chúa đã tốt lành, trở nên một người anh chị em tử tế. "
Trong cuốn tiểu thuyết của Jon Hassler, North of Hope, có một đoạn mà người linh mục bị giằng co, tên Frank, nói với cha sở cũ, Cha Adrian, là vị chưởng ấn của giáo phận.

Đức Ông Adrian nói về cuộc đời ngài trong toà giám mục, "Tôi tưởng mọi thứ đều quan trọng. Tôi tưởng Giáo Hội cần đến khả năng hành chánh của tôi, và, có lẽ như vậy, nhưng bây giờ tôi lại là một cha xứ. Tôi hiểu thế nào là một linh mục. Khả năng tốt nhất của họ là ở công việc giáo xứ. Và cha có biết công việc giáo xứ gồm những gì không? Công việc thực sự của chúng ta là gì không?"


Cha Frank hỏi, "Là gì?"
"Tử tế với giáo dân. "
"Chỉ có thế sao?"
"Tử tế ân cần. Không hơn không kém. "
"Cha có đơn giản hóa không?"
"Không có gì đơn giản hơn."
Điều đó chắc chắn. Tử tế với giáo dân. Không có gì đơn giản hơn điều đó. Vì tôi không nói đến một người khùng hay mỉm cười như con nít; tôi đang nói về sự tử tế ân cần phản ảnh lòng yêu mến bừng cháy của Thánh Tâm Chúa Giêsu. Thánh Phanxicô "de Sales" trong cuốn Dẫn Nhập vào Đời Sống Đạo Đức nói rằng, chúng ta thu hút nhiều linh hồn với mật ong hơn là giấm chua.
Chúng ta bị cám dỗ để xua đuổi giáo dân, để la mắng, để chán ngấy, để nói rằng chúng tôi đang bận rộn, để nói rằng họ ngu như bò. Để giữ được nụ cười, để dân chúng nghĩ rằng lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng dành tất cả thời giờ cho họ, để chứng tỏ chúng ta thực sự lưu tâm, để thăm hỏi về gia đình và những ưu tư của họ, để theo dõi thời sự và hướng dẫn giáo dân-phải trở nên tử tế. Trong Pastores Dabo Vobis, Đức Thánh Cha gọi điều này là "Sự Trưởng Thành Hữu Hiệu": khả năng giao tiếp với giáo dân một cách tín cẩn, hữu hiệu và trưởng thành.
Bạn có muốn biết một vài điều độc ác với giáo dân và bạn phải để ý trong việc đào tạo nhân cách không?
Giận dữ: đừng bao giờ mất bình tĩnh và xỉ vả ai. Có một lần khi tôi nghe xưng tội và mất bình tĩnh tôi đã la rầy một người. Bà ra khỏi tòa giải tội--tôi chắc là đầy nước mắt--giữa cơn nóng giận của tôi. Cho đến hôm nay tôi vẫn còn hối hận về điều đó. Cho đến hôm nay tôi vẫn cầu nguyện cho bà. Cho đến hôm nay tôi biết rằng khi đứng trước tòa phán xét của Chúa, hành động đó sẽ được phơi bầy trước mặt tôi.
Tôi không nói rằng chúng ta không được cương quyết, rõ ràng và thách đố giáo dân. Là một linh mục, có những lần chúng ta phải cương quyết, từ chối, khẳng định rằng lối sống đó thì không thể chấp nhận được. Một linh mục quen biết nói rằng, tội lạc giáo lớn nhất ngày nay là tội "dễ thương," khi các linh mục và giám mục quá sợ mất lòng dân hoặc quá do dự đến độ họ trở thành các thừa tác viên nhu nhược, không giống ai. Đó không phải là điều tôi muốn nói.
Tôi nói bạn phải để ý đến hành động--và đừng bao giờ hành động khi nóng giận và có thể làm tổn thương người khác.
Vội vã: một thái độ thứ hai dường như độc ác là luôn luôn có vẻ bận rộn, không còn thời giờ cho giáo dân. Và rồi họ sợ đến với chúng ta vì nghĩ rằng chúng ta đang có điều gì quan trọng hơn để làm.
Thô lỗ: "Tôi chào cha ấy mà ông không thèm nhìn đến tôi." Vẻ bên ngoài của sự xa cách, thiếu thân thiện. Không phải là hạng người ai cũng vỗ vai, chuyện trò thân mật. Không--nhưng, tin hay không, nói cho cùng dân chúng vẫn sợ các linh mục. Bởi thế, chúng ta phải chủ động.
Một số các bạn hay e dè bẽn lẽn, nhưng đừng để dân chúng nghĩ rằng sự e dè đó là sự thô lỗ thiếu thân thiện. Chúng ta phải chủ động. Sau Thánh Lễ, chúng ta học cách chào hỏi với những câu nói như, "Tôi thấy anh nhiều lần nhưng không nhớ được tên anh." Giáo dân mong ước có những linh mục thân thiện.
Hãy tử tế! Hãy ân cần! Hãy tốt bụng!
Một đức tính nhân bản thứ hai sẽ gia tăng sự hữu hiệu rao giảng: sự bền bỉ. Người dân muốn trông mong vào linh mục.


  • Như thế, nếu có hẹn với ai, chúng ta phải giữ.

  • Nếu hứa gọi điện thoại cho ai, chúng ta phải làm.

  • Nếu trách nhiệm một đoàn thể nào, chúng ta phải hội họp.

  • Nếu Thánh Lễ lúc 6:30 sáng, chúng ta phải khởi sự đúng 6:30 sáng.

  • Nếu chúng ta dậy lớp tân tòng vào thứ Ba hàng tuần, chúng ta phải ở đó.

Sự đáng tin cậy. Người dân có quyền trông đợi chúng ta thi hành những gì thuộc bổn phận chúng ta.


Một cha sở nói với tôi ngài vừa có một cha phó mới về, vị này nói với ngài rằng, "Con sẽ vắng mặt đây hàng ngày từ 1g đến 4g chiều để thăm bà dì con ở nhà dưỡng lão."

Cha sở nói, "Tôi không nghĩ là điều đó xảy ra được. Có nhiều bổn phận mà cha phải thi hành vào buổi chiều. "


Cha phó nói, "Chắc là cha không muốn con coi bà dì trở nên thứ yếu sau bổn phận của giáo xứ, có phải không cha?"
"Thực tế thì thật như vậy," cha sở trả lời. Chúng ta có bổn phận với gia đình của chúng ta--là giáo xứ--và dân chúng có quyền đối với sự bền bỉ, sự hiện diện hữu hiệu của chúng ta.
Mới đây tôi đọc được một bức thư "gửi tòa soạn" nguyệt san America của một cha sở ở Bronx, nói về thừa tác vụ của ngài: "Một khi bạn được biết đến, nếu bạn sẵn sàng và có thể tiếp xúc, nếu bạn tin vào Phúc Âm, giáo dân sẽ gõ cửa nhà bạn, gọi điện thoại cho bạn, và chặn bạn ngay trên đường phố. Đã quá đủ đau khổ, quá đủ lo lắng, quá đủ đói khát Thiên Chúa để khiến bạn bận rộn mỗi ngày. Làm thế nào mà bạn được biết đến? Bạn chào hỏi giáo dân sau Thánh Lễ, bạn đến trường hàng ngày, bạn tham dự các sinh hoạt trong giáo xứ, bạn đến thăm bệnh nhân tại nhà. Một khi bạn được biết đến, nếu bạn sẵn sàng và có thể tiếp xúc, nếu chính bạn tin vào Phúc Âm, bạn sẽ bận rộn."
Một sự sẵn sàng đáng tin cậy cho người dân. Bạn ở đó vì họ. Mới đây tôi gọi điện thoại cho nhà xứ và nghe máy trả lời: "Vui lòng gọi trong giờ làm việc bình thường, từ 9g sáng đến 1g trưa." Giờ làm việc bình thường? Bình thường chỗ nào? Chuyện gì lạ vậy? Đó là sự sẵn sàng sao? Không có số điện thoại để gọi khi khẩn cấp. Họ không thấy là hầu hết dân chúng không thể gặp linh mục trong "giờ làm việc bình thường", vì hầu hết phải đi làm hay sao?
Một điều dân chúng thường than phiền là họ không bao giờ thấy các linh mục. Theo truyền thống, một linh mục tốt lành thì đắm mình trong đời sống của giáo dân khi cần kíp. Ngài là một người "cha". Họ có thể trông nhờ vào ngài. Hãy ấp ủ đặc điểm nhân bản đó của sự đáng tin cậy.
Hãy khởi sự ngay bây giờ! Đó là lý do tại sao một đời sống nhịp nhàng thì quá cần thiết. Nếu chúng ta đáng tin cậy, chúng ta thức dậy vào lúc nào đó và đi ngủ vào giờ nhất định; chúng tránh thức khuya và dậy trễ; chúng ta có một thời giờ trung thành để cầu nguyện, tập thể dục, học hỏi, và nuôi dưỡng tình bạn. Và chúng ta phải chu toàn công việc. Một trong những mục tiêu cao nhất của sự trau dồi nhân cách ở chủng viện là phát triển một đời sống nhịp nhàng mà từ đó phát sinh sự đáng tin cậy về mục vụ. Chúng ta là những người mà việc làm của chúng ta có thể tin tưởng, là người chu toàn nhiệm vụ, đắm mình trong sinh hoạt cộng đồng, và hiện diện với những người mà chúng ta sống cho họ--chúng ta đáng tin cậy.
Và đặc điểm nhân cách thứ ba mà dân chúng trông đợi ở các linh mục: một thái độ lạc quan, đầy hy vọng. Một thái độ như thế chắc chắn phải phát xuất từ nhân đức siêu nhiên là đức cậy, nhưng dân chúng được thu hút đến với Đức Kitô và Giáo Hội Người qua các linh mục luôn tỏ ra phấn khởi và tin tưởng, dù giữa những khổ đau, thất bại, và khó khăn. Họ thường đến với linh mục trong những lúc nguy kịch và khó khăn, và từ đó có thể đến với Thiên Chúa là Tảng Đá vào những lúc khốn cùng qua các thừa tác vụ của một linh mục là người phát tiết sự tin tưởng thanh thản, hớn hở, ngay giữa những bất hạnh.
Trong mọi người chúng ta đều có những khuynh hướng cản trở thái độ lạc quan, đầy hy vọng mà người dân trông chờ nơi các linh mục. Khuynh hướng đó là sự dễ mích lòng khiến chúng ta vội tấn công ngay cả một điều ít khiêu khích nhất. Một số linh mục trở nên dễ buồn phiền. Họ luôn nghĩ rằng họ bị lừa dối, không ai thèm chú ý, bị ngược đãi. Cha xứ thì không tin họ, đức giám mục thì không dùng họ đúng chỗ, giáo dân không biết ơn họ. Bởi đó họ luôn luôn tức giận, bực mình, cảm thấy hối tiếc, và vì vậy thật khó để trưng ra đặc tính lạc quan, hy vọng mà dân chúng khao khát.
Các linh mục chúng ta vẫn có thể trở nên một mảnh đất thối nát. Trong khi được mời gọi sống một cuộc đời phục vụ vị tha, chúng ta mau mắn chú trọng đến đặc quyền, đặc lợi, và vì vậy chúng ta trở nên nhỏ mọn. Một vài nhận xét sau có thể giúp chúng ta.
Trước hết, bây giờ tôi mới nói đến sự cầu nguyện, khi chúng ta xin Tạo Hóa là Đấng đã ban cho chúng ta thân xác để tiếp tục khuôn đúc theo hình ảnh Con của Người. Cho phép tôi đề nghị hai truyền thống có thể giúp chúng ta hàng ngày để thăng tiến trong việc đào tạo nhân cách:


  • Một là việc dâng mình buổi sáng: mỗi sáng, ngay khi thức dậy, chúng ta hãy dâng trọn ngày cho Chúa, và đặc biệt xin Người ban những ơn cần thiết để thu hút người ta đến với Người qua sự tốt lành và lôi cuốn của nhân cách chúng ta.

  • Hai là, vào cuối ngày, chúng ta tập thói quen xét mình: trong khi cầu nguyện buổi tối, chúng ta thận trọng nhìn lại ngày qua, ý thức đặc biệt đến những lần mà có thể chúng ta làm đau lòng người khác bởi lời nói, thái độ hay sự sơ suất và tự hỏi mình xem ngày hôm ấy chúng ta có là cây cầu để dân chúng đến với Thiên Chúa hay là hàng rào cản trở họ. Xét mình hàng ngày giúp chúng ta bén nhậy với những khuyết điểm con người.

Thứ hai-hãy biết mình. Hãy biết mình thật rõ để tạ ơn Chúa vì có những đặc điểm nhân cách thu hút người ta đến với Chúa Giêsu, và luôn luôn cố gắng gia tăng những đức tính ấy; và thực tế nhận ra các sai lầm thỉnh thoảng làm cản trở và làm giáo dân xa lánh, phải cố gắng thanh luyện hằng ngày và loại trừ những khiếm khuyết ấy. Hãy biết mình.
Thứ ba, trong cố gắng biết mình, bạn phải tìm sự khuyên bảo từ những người mà bạn tin tưởng: cha linh hướng, bạn tốt, cha xứ hay cha giám đốc, chuyên viên cố vấn, đức giám mục. Đối với tôi, thật tuyệt vời khi mọi linh mục đều có thể ngồi trò chuyện một cách định kỳ với cha xứ và hỏi, "Cha thấy con thế nào? Cha có lời khuyên bảo gì không? Cha có thấy những khuyết điểm, sai sót nào của con không?" Hy vọng rằng, điều này sẽ tạo nên một bầu khí tin tưởng mà cha sở cũng có thể hỏi cha phó các câu tương tự.
Như tôi đã nói trước đây, hãy coi đó là một ơn lành thực sự khi có người dám nói sự thật về chính bạn, ngay cả khi điều đó làm bạn đau lòng. Người luôn luôn cho rằng bạn lúc nào cũng đúng và những người chỉ trích bạn là sai lầm thì người đó không phải là bạn chân thật.
Trong đại chủng viện, nhiệm vụ chính của chúng tôi là vạch ra những lãnh vực cần chú ý trong việc đào tạo nhân cách. Cha linh hướng là để giúp đỡ chủng sinh phát triển các đức tính mà từ đó ơn Chúa có thể triển nở. Điều đó thật quan trọng trong tiến trình thẩm định giá trị của chúng tôi. Chúng tôi cố thi hành điều này một cách công bằng, chính xác, đúng đắn. Chúng tôi ít khi đưa ra những chỉ trích về đời sống cầu nguyện, sự trung thành với giáo huấn, hay sự chắc chắn của ơn thiên triệu, vì các lãnh vực quan trọng này thường chỉ được biết bởi chính họ, bởi Thiên Chúa, và những người được họ tin cậy như cha linh hướng. Tuy nhiên, đó là nhiệm vụ của chúng tôi khi vạch ra các lãnh vực đào tạo nhân cách mà họ cần trau dồi. Hầu hết tôi rất phấn khởi khi thấy các chủng sinh khiêm tốn và biết ơn về những nhận xét này. Không ai trong chúng tôi vui thích khi nghe những khuyết điểm của người khác. Nhưng, nếu mục đích là để công cuộc phúc âm hóa được hữu hiệu, nếu việc đưa dẫn người ta đến gần với Chúa Giêsu hơn qua một khí cụ là nhân cách vui vẻ, thân thiện, hấp dẫn, thì chúng tôi đón nhận những chỉ trích ấy.
Hãy coi chừng việc đổ lỗi người phê bình. "Đức giám mục thì không công bằng; Cha này nọ phải tiếp tôi khi tôi mới đến chứ; họ không hiểu tôi. Nếu họ hiểu tôi như vậy thì đó là vấn đề của họ." Hãy coi chừng việc luôn luôn đổ lỗi cho người phê bình. Nếu bạn không thể hòa đồng với cha xứ, hay cha phó, ban hành chánh, và giáo dân trong xứ, rất có thể lời than phiền đó đúng. Nhưng khi một người không bao giờ vui lòng và luôn luôn đổ lỗi cho người khác, thì vấn đề là của họ, chứ không phải người khác.
Khi chúng ta gia tăng việc biết mình nhờ sự cầu nguyện, khuyên bảo và hướng dẫn của người khác, chúng ta sẽ thấy một điều không thể thay đổi dù cố gắng thế nào đi nữa. Tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ cố gắng và tích cực trên những lãnh vực nhân cách mà chúng ta có thể trau dồi. Một số điều chúng ta không thể thay đổi dù người khác muốn như vậy. Thí dụ, một số người ngày nay sẽ tẩy chay điều tôi nói và làm chỉ vì tôi là một linh mục Công Giáo da trắng thuộc dòng dõi Âu Châu. Tôi không thể làm gì hơn với điều đó, có phải không?
Nhiều khi chúng ta có những đặc tính làm hư hại đến sự hữu hiệu phúc âm hóa, tuy không hẳn như vậy. Đôi khi dân chúng có thể hẹp hòi hay hiểu lầm trong một số phán đoán về chúng ta, nhưng, vì thừa tác vụ linh mục, chúng ta vẫn phải bén nhậy. Tỉ như, tôi cho rằng dân chúng không nên để ý đến mái tóc dài, hay bộ râu rậm, hay việc đeo bông tai của linh mục, nhưng dù họ đúng hay sai, một linh mục phải tránh những điều đó. Tôi nghĩ rằng, sau này người ta không nên để ý đến cách ăn mặc của chúng ta, nhưng trái lại họ vẫn để ý, do đó chúng ta phải khôn ngoan giữ sạch sẽ, ăn mặc thích hợp khi thi hành công việc có tính cách phụng vụ hay tông đồ. Chắc chắn không công bằng khi dân chúng có thành kiến về một linh mục có vẻ ẻo lả nữ tính, nhưng họ vẫn như vậy, bởi thế chúng ta phải cố gắng thay đổi, cũng như những người quá cộc cằn hay quá "nam tính." Vì như Thánh Phaolô nói, "điều quan trọng là Đức Giêsu Kitô được biết đến," và tôi sẽ thi hành bất cứ gì để đạt được mục tiêu đó càng hữu hiệu càng tốt.
Tất cả những gì tôi muốn nói là nhân cách, bản tính loài người, đặc tính của chúng ta là một trong những quà tặng lớn nhất của Thiên Chúa. Khi Người nhập thể trong bản tính con người của Con Thiên Chúa, thì Người trở nên xương thịt trong bản tính loài người của chúng ta. Do đó, nhân tính của chúng ta có thể trở nên một nhịp cầu, một cửa ngõ, một nam châm thu hút người ta đến với Chúa và Giáo Hội Người. Chúng ta liên lỉ hoạt động để vận dụng những khía cạnh nhân cách đó nhằm thu hút người ta đến với ơn cứu độ. Và chúng ta không ngừng trừ khử khỏi nhân cách chúng ta những đặc điểm xấu xa, u ám, khó chịu khiến dân chúng sợ hãi, đau lòng và lạc lối.
Đức Fulton Sheen nói đó là lý do tại sao các linh mục lại quá yêu mến với Đức Mẹ. Như trong thân thể của Mẹ, Thiên Chúa đã để Ngôi Lời hóa thành nhục thể thì trong các linh mục cũng vậy, qua nhân cách của họ, sự Nhập Thể vẫn tiếp tục. Ngôi Lời vẫn trở nên xương thịt. Khốn cho chúng ta nếu trở nên một trở ngại khiến Ngôi Lời không trở nên xương thịt!
Mới đây tôi nghĩ về toàn thể vấn đề đào tạo nhân cách khi đọc Thánh Phaolô. Ngài viết cho Timôtê về các đức tính của một thừa tác viên chức thánh, khi vạch ra rằng họ phải không có gì chê trách, điềm đạm, tự chủ, khiêm tốn, hiếu khách. Họ phải là một thầy dậy tốt lành. Họ không thể nghiện rượu. Họ không phải là người hay tranh chấp; đúng ra, họ phải nhân từ, một người yêu hòa bình. Họ cũng không thể ham tiền. Họ phải là một quản lý giỏi trong các công việc, vì nếu một người không biết cách xử lý trách nhiệm của mình thì làm sao họ có thể chăm sóc Giáo Hội? Họ phải được người ta nghĩ tốt về họ để bảo đảm rằng họ không đem lại ô nhục cho Giáo Hội.
Như bạn thấy, Giáo Hội đã lưu tâm đến việc đào tạo nhân cách ngay từ thuở sơ khai.


tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương