Nguoitinhuu. Com


Chương 12 NGƯỜI PHÂN PHỐI CỦA THẦN KHÍ



tải về 2.2 Mb.
trang5/8
Chuyển đổi dữ liệu10.01.2018
Kích2.2 Mb.
#35967
1   2   3   4   5   6   7   8

Chương 12
NGƯỜI PHÂN PHỐI CỦA THẦN KHÍ

(Đoạn trích Kinh Thánh: Gioan 1:35-39)

Tôi muốn bắt đầu bài này với sự tường thuật trong Phúc Âm Gioan về lời mời của Thầy Giêsu ("Hãy đến mà xem") cũng như sự nhận lời của các môn đệ ("Vì vậy họ đã đến và đã thấy nơi Người sinh sống, và ở lại với Người") bởi vì, dĩ nhiên, Đức Giêsu Kitô là lý do duy nhất mà chúng ta tồn tại. Người là Đấng mời gọi và là Đấng ban sức mạnh để chúng ta đáp lại lời mời ấy: Người là cùng đích mà chúng ta cố đạt cho được; Người là phương cách để đạt được cùng đích đó; không có Người, chúng ta chẳng làm gì được; với Người, không có gì là không thể được. Mọi sự chúng ta bắt tay vào là cho, với, qua, và chỉ vì Đức Giêsu Kitô.
Như Thánh Phaolô viết cho tín hữu Côlótsê:
Người là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình,

là trưởng tử của tất cả tạo vật.

Vì trong Người mọi sự hữu hình và vô hình ở trên trời và dưới đất được tạo dựng,

dù là bệ thần hay quản thần hay quyền thần hay dũng thần;

tất cả được tạo dựng nhờ Người và cho Người.

Người có trước mọi sự,

và trong Người mọi sự gắn bó với nhau.

Người là đầu của thân thể, là giáo hội.

Người là khởi đầu, là trưởng tử từ những kẻ chết,

để Người trổi vượt hơn hết tất cả.

Vì tất cả mọi viên mãn đều có trong Người,

và qua Người để hoà giải mọi sự cho Người,

nhờ máu Người nơi thập giá đem lại bình an

cho muôn loài dù ở dưới đất hay trên trời.
Col 1:15-20 (phỏng dịch theo New American Bible)
Đây là chìa khóa cho sự thăng tiến tâm linh của chúng ta: một tương giao trung tín, cá biệt, trìu mến với Đức Giêsu. Như Karl Rahner viết, sự thánh thiện là "dự phần trong sự hợp nhất mật thiết giữa Chúa Cha và Chúa Con, được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. " Đức Giêsu Kitô là phương cách để thực hiện điều này qua chân lý mà Người đã giảng dậy và sự sống mà Người đã truyền đạt. Hãy lắng nghe lời thơ của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI:
Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa Hằng Sống. Vì nhờ Người chúng ta biết được một Thiên Chúa mà chúng ta không thể thấy. Người là con cả của mọi tạo vật, trong Người mọi sự tìm thấy bản thể của mình. Là Thầy và Đấng Cứu Độ của chúng ta, Người được sinh ra cho chúng ta, đã chết cho chúng ta, và đã sống lại cho chúng ta.
Mọi sự quy tụ trong Đức Kitô. Một con người đau khổ và hy vọng, Người biết chúng ta và yêu thương chúng ta. Như một người bạn, Người ở với chúng ta trong suốt cuộc đời; đến lúc tận thế Người sẽ đến như vị thẩm phán của chúng ta; nhưng chúng ta cũng biết Người sẽ là sự hoàn thành trọn vẹn của cuộc đời chúng ta và là niềm hạnh phúc vĩ đại của chúng ta cho đến muôn đời.
Tôi không thể ngừng nói về Đức Kitô. Người là đường, là sự thật, và là sự sống. Người là bánh của chúng ta, là nước hằng sống của chúng ta, Người dịu bớt cơn đói và thoả mãn cơn khát của chúng ta. Người là mục tử, là lãnh đạo, là lý tưởng, là đấng an ủi, và là anh của chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là khởi đầu và là cùng đích, là an-pha và ômêga, là Chúa của vũ trụ, là chìa khóa vĩ đại ẩn giấu cho lịch sử nhân loại và là phần mà chúng ta đóng góp. Người là trung gian giữa trời và đất, là Chúa thật và là Người thật.
Để biết đến Chúa Giêsu, để nghe Chúa Giêsu, để yêu mến Chúa Giêsu, để tín thác vào Chúa Giêsu, để vâng lời Chúa Giêsu, để chia sẻ cuộc đời của Người trong tận cốt lõi của bản thể chúng ta, và rồi phục vụ Người trong dân của Người-đây là mục đích của chúng ta. Tuy nhiên, hãy thận trọng như ĐHY William Baum đã giảng tại Chủng Viện Bắc Mỹ, "Sự nguy hiểm của mọi chủng sinh là tưởng rằng biết Chúa Giêsu mà không thực sự biết Người, nói về Đức Giêsu nhưng không thực sự nói với Người, nghe các chuyên gia nói về Đức Giêsu nhưng lại không để Người nói về chính Người. Một sự tương giao sâu đậm, cá biệt, mật thiết với Đức Giêsu Kitô là nền tảng của sự thánh thiện!"
Chúa Giêsu đã hô hào, "Trước hết hãy tìm kiếm vương quốc Thiên Chúa!" Địa vị hàng đầu của tâm linh! Chúng ta là quản lý phân phối các quà tặng siêu nhiên về ơn huệ, đức tin, lòng thương xót, lời cầu xin, các bí tích, và ơn gọi mà Chúa đã ban cho chúng ta! Dĩ nhiên, quản lý phân phối có nghĩa chăm sóc các món quà được giao phó cho chúng ta một cách có trách nhiệm.
Công việc khó khăn về tâm linh của chúng tôi ở Chủng Viện Bắc Mỹ là Kitô học và cả giáo hội học, chúng ta-những người nhận thấy có ơn gọi-phải gia tăng tình yêu và hiểu biết về Giáo Hội, về những gì Giáo Hội yêu cầu, những gì Giáo Hội cần để đưa dẫn Giáo Hội vào thiên niên kỷ thứ ba. Khi chúng ta cân nhắc về các nhu cầu của Giáo Hội, một chữ bao trùm tất là là sự thánh thiện. Giáo Hội cần các linh mục thánh thiện. Như tông huấn Pastores Dabo Vobis đã viết rõ: "Linh mục phải là người của Thiên Chúa, người thuộc về Thiên Chúa và làm cho người ta nghĩ đến Thiên Chúa… Kitô hữu hy vọng tìm thấy nơi linh mục--người sẽ giúp họ quay về với Thiên Chúa-và vì vậy linh mục phải có sự mật thiết sâu đậm với Chúa. Những người đang chuẩn bị chức linh mục phải nhận biết rằng toàn thể cuộc đời linh mục của họ sẽ có giá trị, một khi họ có thể hiến mình cho Đức Kitô, và qua Đức Kitô, dâng lên Chúa Cha."
Chúng ta mong mỏi một đời sống trao ban Đức Kitô cho người khác. Chúng ta không thể trao ban nếu chúng ta không có Người! Và đó là sự thánh thiện. Tài liệu Evangelii Nuntiandi có nói: "Trước khi rao giảng, chúng ta phải được phúc âm hóa. "
Làm thế nào để thăng tiến trong sự thánh thiện? Làm thế nào? Dĩ nhiên, đó là chương trình linh đạo của chúng ta, phải không, người phân phối của thần khí, "sự điều dưỡng linh hồn giúp Thiên Chúa ngự đến," như Charles de Foucauld đã nói. Tôi trình bầy cho các bạn một sự điều dưỡng tâm linh, những kỳ vọng hiển nhiên của Giáo Hội cho bất cứ ai đang chuẩn bị nhận chức thánh, một người phân phối của thần khí, không phải của tôi nhưng từ bao thế kỷ của học hỏi và thực hành.
I. Cầu Nguyện Hằng Ngày
Cầu nguyện kiên trì, bền bỉ, liên tục hằng ngày là điều số một. Ở đây tôi không nói đến phụng vụ-về Thánh Lễ hay Kinh Nhật Tụng-nhưng về sự cầu nguyện thinh lặng, cá biệt, riêng tư, một giai đoạn thinh lặng hằng ngày kết hợp với Chúa, ý thức về sự hiện diện của Người, chấp nhận tình yêu của Người, và đáp trả tình yêu ấy với sự chúc tụng, cầu xin, và cảm tạ. Bạn muốn gọi đó là gì cũng được: chiêm niệm, tập trung, suy gẫm-tôi chưa thấy ai diễn tả điều đó hay cho bằng ĐHY Mercier, người đã viết:
Hằng ngày hãy dành một số thời gian-hãy đóng lại những gì thuộc về giác quan và đừng nghe tiếng ồn ào của thế gian, để đi vào chính mình. Ở đó, trong sự thiêng liêng của linh hồn được rửa tội, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, hãy nói:
"Ôi Chúa Thánh Thần, người yêu dấu của linh hồn con. Con thờ lậy Người. Xin hãy soi sáng con, hướng dẫn con, thêm sức cho con, an ủi con… Xin giúp con biết được thánh ý Người. "

Nếu bạn thi hành điều này, cuộc đời bạn sẽ trôi qua thanh thản, ngay giữa những thử thách. Sự quy phục Chúa Thánh Thần là bí quyết của sự thánh thiện.


Cầu nguyện hằng ngày là nền tảng của sự thánh thiện… Để nuôi dưỡng, phát triển, tăng cường sự cầu nguyện-đây là mục tiêu của cả cuộc đời. Một số người thi hành điều đó trong buổi sáng, một số trong buổi tối; một số đến trước Thánh Thể, những người khác muốn ở trong phòng; một số nhờ vào Kinh Thánh, hay việc đạo đức; một số dùng đến công thức Kinh Thần Vụ-tuy nhiên, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, bất cứ gì-quãng thời gian cầu nguyện riêng tư trong ngày là điều phải có!
II. Thánh Lễ Hằng Ngày
Tôi theo ĐGH Gioan Phaolô II trong Pastores Dabo Vobis: "Để tuyệt đối thành thật và rõ ràng, tôi muốn nói một lần nữa: thật thích hợp để các chủng sinh tham dự Thánh Lễ hằng ngày, trong một phương cách mà họ sẽ coi việc cử hành hàng ngày này như một quy luật cho đời sống linh mục. Họ phải-coi việc cử hành Thánh Lễ như giây phút thiết yếu trong ngày mà họ tích cực góp phần trong đó, và không bao giờ được thỏa mãn với thói quen chỉ đến đó tham dự" (số 48).
Từ bữa tiệc Thánh Thể hàng ngày này sẽ phát sinh sự kính sợ về Sự Hiện Diện Thật của Chúa Kitô trong Bí Tích Thánh Thể, và chúng ta sẽ muốn dành thời giờ cho Người qua sự cầu nguyện và viếng Thánh Thể.
III. Trung Thành Với Kinh Thần Vụ Hằng Ngày
Đây là lời cầu nguyện cổ xưa của Giáo Hội có liên hệ nhiều đến những người trong các dòng tu, mà họ coi đó là "công việc" của họ, "nhiệm vụ" của họ, khi đọc kinh hằng ngày. Vào lúc người ta quỳ gối trước đức giám mục để được nhận chức phó tế, họ phải vui vẻ gắn bó với lời hứa cầu nguyện hằng ngày cho Giáo Hội trong tất cả các giờ kinh phụng vụ, kinh thần vụ của chúng ta. Một linh mục nổi tiếng trong sự giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn, nói với tôi, "Điều đầu tiên xảy ra khi một linh mục gặp khó khăn là kinh thần vụ. "
IV. Đọc Sách Thiêng Liêng Hằng Ngày


  • Lectio divina, thành kính suy niệm về Kinh Thánh hằng ngày, là điều đầu tiên và trước hết, dĩ nhiên;

  • Nhưng tôi cũng nói đến hằng ngày đọc sách thiêng liêng về truyền thống bền bỉ của Công Giáo, cũng như văn chương cận đại về đời sống nội tâm;

  • Cũng không quên để ý đến các tài liệu của huấn quyền, những lời của Đức Thánh Cha, các tài liệu của Tòa Thánh, thư mục vụ của các giám mục, tất cả là phương tiện của Thánh Thần để nuôi dưỡng sự thánh thiện.


V. Hướng Dẫn Tâm Linh: Sự Tương Giao Thành Thật, Tín Thác, Có Kết Quả, Bền Bỉ với Vị Linh Hướng
Trong một số phương cách nào đó, đây là mấu chốt của tất cả những gì còn lại, vì đây là nơi sự hòa hợp và đời sống nội tâm bắt đầu xảy ra. Sự nguy hiểm của đời sống chủng viện và linh mục là chủ nghĩa hình thức, là nơi chúng ta để mọi sự trôi qua cách tiêu cực, không để các giá trị của việc huấn luyện ăn sâu vào tâm hồn và trở nên một phần của chúng ta. Vị linh hướng có thể giúp thăng tiến đời sống nội tâm, sự hòa hợp.
VI. Bí Tích Hòa Giải
Thường xuyên nương tựa đến lòng thương xót của Chúa thật dồi dào trong bí tích hòa giải phải là điều tiên quyết trong đời sống chúng ta. Trong khi việc thường xuyên đến với bí tích này là một đề tài tốt để thảo luận với vị linh hướng, dường như Giáo Hội có truyền thống xưng tội tối thiểu mỗi tháng một lần. Cũng chính vị linh mục nổi tiếng về việc giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn đã nói với tôi: "Điều thứ hai xảy ra khi một linh mục gặp khó khăn là việc thường xuyên xưng tội. " Đi xưng tội thường xuyên là dấu xác nhận của một tâm linh tốt lành. Và để việc xưng tội thường xuyên có kết quả chúng ta phải duyệt xét lương tâm hàng ngày, chúc tụng Thiên Chúa vì sự thăng tiến của chúng ta, xin Người tha thứ những lỗi lầm chúng ta vấp phạm.
VII. Gia Tăng Nhân Đức
Nỗ lực không ngừng để gia tăng nhân đức và tránh xa tội lỗi phải là khuôn khổ của đời sống hằng ngày. Vâng phục với điệp khúc liên tục của Phúc Âm, chúng ta luôn luôn trong tiến trình hoán cải, sám hối, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ cái tôi và Satan để lớn lên trong đời sống mới với Đức Kitô. Đây là "mầu nhiệm vượt qua. " Thi hành điều này có nghĩa gia tăng nhân đức và chiến đấu với tội lỗi. Thích hợp nhất là hãy phát triển một nhân đức đặc biệt.
A. Đức Tin
Tôi mới nhận được lá thư từ một linh mục phê bình về thời gian huấn luyện trong chủng viện. Ngài nói trong suốt thời gian chuẩn bị ngài thường được hỏi, "Có vui không?" "Có trưởng thành không?" "Có cởi mở không?" "Học hành thế nào?" Nhưng chưa bao giờ, "Có tin Thiên Chúa không?" Người ta có thể cho nhiều điều là đương nhiên, trong đó có đức tin nơi Thiên Chúa, nhưng quan điểm của ngài là một điều tốt-sự tuyệt đối cần thiết của đức tin. Ở đây chúng ta lớn lên trong một đức tin vững chắc nơi Thiên Chúa, Con của Người, sự Mặc Khải, và chúng ta không chấp nhận sự hồ nghi, tính yếm thế, thuyết tương đối lan tràn, và đời sống không mục đích phát sinh từ việc thiếu đức tin. Hãy nhớ rằng Giáo Hội đòi hỏi những người sẽ được phong chức phó tế và linh mục phải thề trung thành. Đó là phương cách mà Giáo Hội đảm bảo rằng các phó tế và linh mục là những người có đức tin mạnh mẽ nơi Thiên Chúa và tất cả những gì đã được Thiên Chúa mặc khải trong Kinh Thánh, Truyền Thống, và giáo huấn của Giáo Hội. Đôi khi việc duyệt xét lương tâm để biết chúng ta có thể thành thật thề hứa điều đó hay không cũng là một ý tưởng tốt.
B. Đức Cậy
Một sự trông nhờ chắc chắn, vui vẻ nơi những lời hứa đáng tin cậy của Chúa, và loại bỏ những tuyệt vọng, u sầu, và chán nản chúng ta thường đối diện.
C. Đức Ái
Một tình yêu bừng cháy vì Chúa và dân của Người, hiển nhiên trong sự kiên nhẫn, phục vụ, chia sẻ, tử tế, độ lượng và niềm vui, và là cuộc chiến đấu với khía cạnh tối tăm của chúng ta xuất hiện dưới hình thức hận thù, ích kỷ, lười biếng, oán hờn nhỏ nhen, và hèn hạ.
D. Đời Sống Thanh Bạch
Tìm kiếm một cuộc sống giản dị, chính trực, biết ơn, không bị đắm chìm trong sự tích lũy và bủn xỉn là đặc tính của xã hội Tây Phương. Đời sống xa hoa và phô trương giầu sang nơi các linh mục có lẽ là nguồn tiếng xấu hơn là sự yếu đuối xác thịt hay nghiện rượu.
E. Khiết Tịnh
Cố gắng hằng ngày để ấp ủ sự độc thân khiết tịnh, một cách tự nguyện, trưởng thành, vui vẻ, vì Nước Trời, và tự ý từ bỏ mọi hoạt động liên can đến tình dục trong tư tưởng, lời nói, và hành động, một mình hay với người khác, cùng phái hay khác phái, thành thật đương đầu với bất cứ xu hướng, động lực, hay ý nghĩa kỳ quặc nào đe dọa sự lành mạnh, sự tráng kiện, sự thanh khiết thực tế được phản ánh bởi Chúa Giêsu và được Giáo Hội trông đợi nơi các linh mục.
F. Sự Vâng Phục
Một sự ngoan ngoãn như trẻ thơ trong sự tương giao với Chúa và lời mời gọi của Người, một thái độ ân cần với Giáo Hội và các nhu cầu, một khước từ những đòi hỏi thiển cận muốn tự do không bị kềm chế rất phổ thông ngày nay.
G. Sự Liêm Chính
Nuôi dưỡng sự thành thật, chính xác, giữ lời hứa, tránh sự lừa dối, xấu hổ, đạo đức giả khiến chúng ta không thể thăng tiến tâm linh đích thực. Một vài năm trước đây trong nhà Casa Santa Maria ở Rôma, ĐHY Bernardin đã giảng trong Thánh Lễ khai mạc. Ngài đề cập đến những ngày tăm tối khi ngài bị kết án sai lầm về việc sờ mó một thiếu niên. Ngài nói, "Vào lúc đó, khi tất cả có vẻ ảm đạm, tất cả vinh dự trần tục mà tôi có được--địa vị, uy tín, danh vọng, Chicago--không giúp được gì cả. Thật vậy, tất cả tổn thương đến sự nghiệp của tôi. Chỉ còn hai điều tôi trông nhờ vào: ơn Chúa, và sự liêm chính cá nhân. Hai điều có giá trị. "
Một sự gia tăng nhân đức liên tục và một cố gắng chống trả tội lỗi sẽ dẫn đến sự hoán cải liên tục trong đời sống.
VIII. Sùng Kính Đức Mẹ và các Thánh
Một sự lệ thuộc dài hạn nơi "cộng đồng các thánh", ý thức rằng chúng ta là phần tử của một gia đình siêu nhiên không bị hạn chế ở đây và bây giờ, và chúng ta có các thánh làm gương mẫu và giúp đỡ, vượt trổi hơn cả là Đức Mẹ. Như vậy, sự sùng kính Mẹ cách lành mạnh sẽ là phần thiết yếu của việc điều dưỡng tâm linh.
IX. Sự Đào Luyện Thánh Thiện Giúp Linh Đạo Thấm Nhập vào Đời Sống
Như bạn thấy, đời sống tâm linh không phải là một khoảng không gian ngăn nắp, tách biệt với sự hiện hữu của chúng ta! Không, như Đức Thánh Cha nói, "sự đào luyện tâm linh là cốt lõi, nó kết hợp và đem lại sức sống cho toàn thể con người chúng ta. " Như vậy, mỗi yếu tố của đời sống là một phần của phạm vi tâm linh, và gia tăng trong sự thánh thiện sẽ dẫn đến sự chìm ngập trọn vẹn trong toàn thể cuộc đời ở đây:


  • Sự phát triển nhân bản và cá biệt. Phần chính yếu của cương vị lãnh đạo tinh thần là phát triển nhân bản trong các đặc điểm như sự đáng tin cậy, sự tử tế, sự mau mắn; việc nuôi dưỡng tình bạn đích thật thì cần thiết cho một cuộc đời linh mục có kết quả.

  • Hăng hái học tập, qua việc nghiên cứu và học hỏi không ngừng, đọc sách liên tục và trau dồi thần học, và nuôi dưỡng thói quen đọc sách.

  • Lòng sốt sắng đối với công việc mục vụ và những việc được chỉ định.

  • Bén nhậy với các nhu cầu của đời sống công cộng, một tương trợ thực sự huynh đệ, biết để ý đến nhau; một đóng góp qua thời gian, nỗ lực, và hiện diện.

  • Nhiệt tình tham dự tĩnh tâm và những ngày hồi tâm.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói, "Đời sống chủng viện phải được cảm nghiệm không chỉ là một điều gì bề ngoài và nông cạn, hay chỉ là một nơi để học tập, nhưng trong một phương cách nội tâm và sâu đậm. Nó phải được cảm nhận như một cộng đoàn--mà giúp hồi tưởng lại cảm nghiệm của nhóm mười hai khi kết hợp với Chúa Giêsu. "


Có một lần tôi tham dự cuộc hội thảo ở giáo xứ về đề tài "đời sống hôn nhân và gia đình." Người lãnh đạo đề ra quy tắc và nói, "Chúng ta chỉ nói về hôn nhân và đời sống gia đình thôi, không nói về công việc chúng ta. " Một ông, là người làm việc vất vả ở xưởng Chrysler nói, "Tại sao không? Đó là một phần của hôn nhân và gia đình tôi! Ông nghĩ là tôi đi làm không vì vợ con hay sao?"
Một cái nhìn sáng suốt! Ông ấy nhận thức rằng những gì ông làm chỉ có ý nghĩa khi được thúc đẩy bởi tình yêu ông dành cho vợ con. Do đó, mọi sự chúng ta làm dưới cương vị lãnh đạo tinh thần cũng phải xuất phát từ đời sống bên trong, từ tình yêu chúng ta dành cho Đức Kitô và chia sẻ với Hôn Thê của Người. Thánh Phanxicô "de Sales " nói rất hay về nguyên tắc này khi người nhấn mạnh rằng sự thánh thiện phải xảy ra trong công việc chúng ta làm và nơi chúng ta sống.
X. Yếu Tố Sau Cùng Trong Cương Vị Lãnh Đạo Tinh Thần của Chúng Ta: Luôn Nhìn Đến Ơn Gọi Linh Mục.
Mục tiêu của chúng ta thì không gì khác hơn là sắp xếp lại đời sống qua bí tích chức thánh, mà nó sẽ thay đổi hình dạng chúng ta theo Chúa Kitô trong một phương cách quyết liệt, không thể chối bỏ. Động lực của chủng viện là để chúng ta có thể trở nên các linh mục tốt lành, thánh thiện, vui vẻ, lành mạnh, có kiến thức, hăng say, vị tha, tận tụy. Ứng viên, thầy đọc sách, thầy giúp lễ, thầy sáu là những bước quan trọng trong hành trình tiến đến chức linh mục. Tôi chủ trương rằng lời cam kết với chức linh mục là một đời sống kéo dài, chứ không chỉ như một việc phụ, một thừa tác vụ, hay một công việc có thể để sang một bên khi chán nản, bị cám dỗ, hay điều gì đó, người nào đó hấp dẫn hơn xuất hiện! Chức linh mục là một lời mời gọi, không phải là một nghề nghiệp; là một đời sống, không phải là một công việc; là một nhiệm vụ, không chỉ là thừa tác vụ; là một căn tính, không chỉ là một nghề chuyên môn.
Khi Chúa muốn, vào ngày chịu chức đức giám mục sẽ hỏi bạn trước Giáo Hội là bạn có sẵn sàng để cầu nguyện, giảng dậy, phục vụ, thánh hóa, và sống trung tín như một linh mục đời đời không, vì sự tương giao nội tâm với Vị Thượng Tế Đời Đời, bạn có thể trả lời một cách tự tin, thành thật và trưởng thành, "Với sự giúp đỡ của Chúa, con sẵn sàng!" Sự phát triển tâm linh của chúng ta thì nhắm đến mục tiêu đó của chức linh mục. Và điều này có nghĩa phải liên tục phân định tránh đừng để việc chịu chức xảy ra chỉ vì không có gì tốt hơn đến với mình, hãy thành thật kiểm điểm các động lực thúc đẩy chúng ta và xem ơn gọi có vững chắc hay không.

Hãy để tôi nhắc đến hai điều thận trọng:


Thứ nhất, thăng tiến trong sự thánh thiện không phải là sự thành đạt của chúng ta nhưng là một món quà từ Chúa. Chúa làm điều đó, không phải chúng ta! Một trong những lầm lạc lớn nhất hoành hành các chủng viện và nhà xứ là lạc thuyết Pelagius-tin rằng chúng ta có thể giành được, đáng được, hay chiếm được ơn cứu độ! Một thái độ như vậy hoặc sẽ dẫn đến sự chán nản, hoặc tự cho mình là đúng hay đạo đức hình thức. Mười bước trau dồi tâm linh mà tôi mới đi qua không phải là những hành động nhỏ bé thoải mái chúng ta thi hành để tạo ra sự thánh thiện-đó chỉ là những phương cách đã được thử và thấy tốt để chúng ta khiêm tốn mở lòng cho Chúa để Người thi hành công việc của Người trong, cho, vì chúng ta, và thường là không cần đến chúng ta!
Thánh thiện là một bí ẩn. Nó luôn lẩn tránh chúng ta. Ngay giây phút nghĩ rằng chúng ta đã có được sự thánh thiện thì tốt hơn chúng ta nên khởi sự từ đầu; ngay giây phút chúng ta muốn nghêng ngang bước đi thì tốt hơn nên bò bằng đầu gối; và ngay giây phút nghĩ rằng mình không có tội thì chúng ta vừa mới phạm tội lớn nhất!
Thứ hai, theo lời của Sơ Bridge McKenna, "Con đường hướng vào sự phát triển tâm linh bên trong luôn luôn đưa đến đường vòng ra bên ngoài để yêu thương tha nhân." Trong thuật ngữ cổ điển hơn, hành trình tâm linh ad intra tạo nên một đời sống yêu thương ad extra, với tha nhân. Cương vị quản lý của Thần Khí thì không bao giờ là một đặc quyền thoải mái mà chúng ta bám víu lấy; đúng hơn, nó thúc giục chúng ta yêu thương dân Chúa tốt đẹp hơn. Như Thánh Phaolô nói, "Trong Đức Giêsu Kitô, tất cả có giá trị là đức tin, mà nó tự biểu lộ trong đức ái" (Galat 5:6). Chính Đức Giêsu mời gọi chúng ta đến sự ngây ngất tâm linh trên núi Tabo thì cũng mời chúng ta đổ hết sức lực trên đồi Canvê.
Thánh Y Nhã tóm lược điều đó trong Suscipe (tự hiến):
Ôi lậy Chúa,

hãy nhận lấy tất cả sự tự do của con,

ký ức của con,

sự hiểu biết của con

và toàn thể ý muốn của con.

Ngài đã ban cho con tất cả những gì là con người của con

và tất cả những gì mà con sở hữu.

Con dâng lại tất cả cho Ngài

để Ngài có thể sử dụng theo ý Ngài.

Xin chỉ ban cho con tình yêu của Ngài

và ơn sủng của Ngài;

với những điều đó con sẽ đủ giầu sang,

và không còn gì để khao khát.

Chương 13
KIÊN NHẪN

(Đoạn trích Kinh Thánh - Giacôbê 1:2-4)
Kiên nhẫn là một nhân đức đảm bảo chúng ta về sự tuyệt hảo," Thánh Francis de Sales đã viết như thế trong cuốn Dẫn Nhập Đời Sống Đạo Đức.
Thánh Têrêsa có ghi:
Đừng để bất cứ gì khuấy động bạn.

Đừng để bất cứ gì làm bạn sợ hãi.

Mọi sự sẽ qua đi.

Chỉ Thiên Chúa là không thay đổi.

Ai có Thiên Chúa sẽ không thiếu gì cả.

Một mình Chúa đã đủ.
Phải, "kiên nhẫn có được mọi sự." Bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể suy niệm về sự kiên nhẫn, nó quá cần thiết cho tinh thần môn đệ đích thật. Trong bài thơ ca tụng đức ái, mà Thánh Cyprian cho là đặc điểm nền tảng Kitô Giáo, người kết luận bằng nhận định sau, "Tuy nhiên, lấy sự kiên nhẫn đi… nó sẽ không còn! Lấy sự kiên nhẫn đi, đức ái sẽ không còn gốc rễ và sức mạnh."
Nó là một nhân đức cốt yếu cho bất cứ đời sống Kitô Hữu nào được coi là đích thật, có phải không? Vì lý do đó, nó cần thiết cho sự thành công và hạnh phúc của bất cứ ai, ngay cả người không có đức tin. Mọi người đều khao khát sự kiên nhẫn. Bạn chỉ cần nghe xưng tội một vài người thì bạn phải kết luận rằng có lẽ đó là nhân đức mà hầu hết người ta thiếu, vì tất cả những người đến xưng tội đều thở dài và nói, "Có lẽ con cần thêm sự kiên nhẫn!" Mọi người đều vất vả với nó. Với tính thật thà thường lệ, Thánh Têrêsa Hài Đồng viết, "Sự kềm giữ tính thiếu kiên nhẫn của tôi thật khó khăn đến độ tôi phải ướt đẫm mồ hôi." Ai ai cũng ca tụng một người kiên nhẫn, bình thản.
Đó là một nhân đức quá quan trọng cho các linh mục. Ngay tự đầu chúng ta luôn được mời gọi để đồng hình dạng một cách mật thiết với Đức Kitô qua bí tích chức thánh mà chúng ta hành động in persona Christi (thay mặt Đức Kitô). Giáo Hội có truyền thống đề cập đến các linh mục như alter Christus (một Kitô khác). Do đó, người dân cho rằng họ có thể thấy được nơi linh mục các đức tính thật lôi cuốn như của Linh Mục Thượng Phẩm Đời Đời. Và cao trong các đặc điểm ấy là sự kiên nhẫn giúp tiến đến siêu phàm. Hơn cả việc giảng dở, hơn cả việc thỉnh thoảng say sưa, hơn cả sự sa ngã tình dục, có lẽ dân Chúa bàng hoàng hơn nhiều khi thấy các linh mục là những thùng thuốc nổ, hay thay đổi, giận dữ, tùy tiện--thiếu kiên nhẫn.
Ngày nay hơn bao giờ hết, các linh mục tốt lành có những cám dỗ đối với sự kiên nhẫn. Những đòi hỏi tràn ngập, những hiểu biết khác biệt của giáo dân về thừa tác vụ linh mục; những mong đợi quá nhiều, thiếu nguồn tài nguyên, và các linh mục trung tín thường bị cám dỗ phải phẫn nộ, mắng nhiếc, bỏ cuộc, hờ hững, hay để lại sau lưng. Hơn bao giờ hết, đức kiên nhẫn thật quan trọng cho ơn gọi của chúng ta.
Do đó đây là một ơn huệ tôi cầu xin cho bạn, tôi yêu cầu bạn suy nghĩ, cầu nguyện và lớn lên trong nhân đức ấy. Yves Congar có một cuốn sách với nhan đề The Need for Patience (Cần Kiên Nhẫn), và ngay tự đầu người diễn tả sự kiên nhẫn cho chúng ta:
Kiên nhẫn là một phẩm chất của trí óc-hay, đúng hơn, của linh hồn-mà nó bắt nguồn từ các tin tưởng sống động sâu xa: thứ nhất, Thiên Chúa phân phối các chương trình và Người chu toàn kế hoạch ơn sủng của Người qua chúng ta; và thứ hai, vì những điều vĩ đại, chắc chắn có sự chậm trễ cần để chín mùi… Sự kiên nhẫn sâu đậm này thì như người gieo giống biết chắc hạt giống sẽ lớn lên… Những ai không biết cách chịu đau khổ sẽ không biết cách hy vọng. Ai quá bận rộn, và muốn hưởng thụ ngay lập tức điều mình khát khao thì không biết cách đạt được mục đích. Người gieo giống kiên nhẫn là người phó thác hạt giống của mình cho đất và ánh mặt trời-họ là người hy vọng…
Bây giờ, làm sao có được đức kiên nhẫn nòng cốt này? Tôi đề nghị chúng ta nhìn đến ba phương cách: kiên nhẫn với Thiên Chúa, kiên nhẫn với chính mình, và kiên nhẫn với người khác.
Trước hết, kiên nhẫn với Thiên Chúa. Bạn có ngạc nhiên khi tôi cho rằng chúng ta phải cố gắng kiên nhẫn với Thiên Chúa không? Thành thật mà nói, trong sự kiêu hãnh, đôi lúc chúng ta nghĩ rằng mình biết hơn Thiên Chúa có phải không? Khi quan sát tình trạng hỗn độn trong tạo vật của Chúa, đôi khi chúng ta nhận xét rằng mình có thể làm hay hơn thế, có phải không? Có phải chúng ta bị cám dỗ để thiếu kiên nhẫn với Người và thỉnh thoảng phải hét lên, "Không cách chi mà chạy việc được"?
Tôi nhớ có một linh mục bắt đầu bài giảng trong tang lễ của một bé sơ sinh như thế này, "Mọi người chúng ta đều bị cám dỗ để nói rằng Thiên Chúa đã vô cùng sai lầm." Có phải chúng ta đặc biệt thiếu kiên nhẫn với Chúa khi Người chậm đáp lời cầu xin của chúng ta hay không? Có lần tôi đem Mình Thánh cho một bà cụ chín mươi tuổi, ngay sau thời gian bức tường Bá Linh sụp đổ, và tôi xin bà cầu nguyện cho có thêm người đi tu. Cụ trả lời, "Trời đất qủy thần ơi, thôi quên đi. Khi bẩy tuổi tôi đã cầu nguyện cho nước Nga trở lại đạo và cha coi phải mất bao nhiêu lâu thì Chúa mới làm điều đó! Tôi chắc là phải mất chín mươi năm nữa thì lời cầu xin khác mới được nhậm lời!" Tôi thấy hối hận đã ngỏ lời với cụ! Nhưng có phải cụ đã thành thật bày tỏ sự thiếu kiên nhẫn rất con người với Thiên Chúa, là Đấng có lúc chúng ta bị cám dỗ phải nói lên như vậy hay không?
Hãy thú thật rằng chúng ta trở nên thiếu kiên nhẫn với Chúa trong lời cầu nguyện. Sự cằn cỗi, khô khan, và buồn tẻ mà chúng ta cảm nghiệm trong đời sống cầu nguyện đã đưa chúng ta đến sự chán nản cám dỗ chúng ta bỏ cuộc. Trong chủng viện chúng tôi, không bao giờ vị giám đốc linh hướng lại nhắc đến bất cứ gì mà chủng sinh chia sẻ với người, nhưng tôi biết một đề tài lớn mà ai ai cũng đổ vào linh hồn người: sự thiếu kiên nhẫn khi cầu nguyện! Tôi biết như vậy vì đó là điều tôi từng làm và vẫn còn làm khi nói chuyện với vị giám đốc linh hướng! Chúng ta trở nên mệt mỏi với kỷ luật, sự nhịp nhàng, và nỗ lực mà sự cầu nguyện có kết quả đòi hỏi, và chúng ta hoàn toàn mệt nhừ với những giờ cầu nguyện không cùng mà chẳng có gì xảy ra! Chúng ta trở nên thiếu kiên nhẫn! Tại sao Chúa lại làm cho điều mà Người rất ưa thích-sự cầu nguyện-trở nên quá khó khăn?
Trong cuốn sách nổi tiếng, Cuộc Đời Thánh Antôn, Thánh Atanasiô kể lại một biến cố trong cuộc đời của Tu Phụ sa mạc vĩ đại này: "Antôn van nài một thị kiến mà đã xảy ra, người nói, 'Ngài ở đâu? Sao ngài không hiện ra ngay từ đầu, để ngài có thể ngăn cản sự đau buồn của con?' Và một tiếng nói đến với người: 'Antôn con, Ta ở đây, nhưng Ta muốn thấy con chiến đấu. Và bây giờ, vì con đã kiên trì và không bị khuất phục, Ta sẽ giúp con luôn mãi.'"
Xin lỗi nhé, nhưng đó là cách Thiên Chúa hoạt động trong lời cầu nguyện. Cha Faber viết, "Chúng ta phải chờ đợi Thiên Chúa, thật lâu, thật hiền lành, trong cơn gió và mưa, trong sấm chớp, trong lạnh lẽo và đen tối. Chờ đợi, và Người sẽ đến. Người không bao giờ đến với những ai không chờ đợi."
Ba điều căn bản mà chính Thầy đã dậy để lời cầu nguyện được kết quả là sự kiên nhẫn, kiên trì, và bền bỉ; do đó hãy đề phòng sự cám dỗ mạnh mẽ khi trở nên chán nản và thiếu kiên nhẫn khi lời cầu xin của chúng ta không có kết quả và khô khan.
Có lẽ đó là lý do tại sao càng lớn tuổi tôi càng thấy biết ơn và lệ thuộc vào hai bộ kinh vĩ đại, kinh thần vụ và chuỗi mai khôi. Hàng ngày, người linh mục kiên nhẫn quay về với kinh nguyện. Có những ngày, đó là phần cầu nguyện duy nhất, cộng với Thánh Lễ, mà người có thời giờ; có ngày việc đọc kinh không cảm thấy hăng hái; nhiều khi người bị cám dỗ quên đi. Tuy nhiên, người kiên nhẫn duy trì, không chỉ vì người đã hứa sẽ cầu nguyện hằng ngày với Giáo Hội và cho Giáo Hội trong phụng vụ các giờ kinh khi làm phó tế, nhưng bởi vì người kiên nhẫn tín thác rằng kinh nguyện thì có hiệu quả, bởi vì qua đó người không chỉ cầu nguyện một mình, nhưng với Đức Kitô và Giáo Hội của Người.
Và làm thế nào để càng ngày tôi càng tùy thuộc vào chuỗi mai khôi, kiên nhẫn lần hạt, phải, có lúc chia trí vì những lưu tâm và bận rộn tràn ngập tôi, nhưng kiên nhẫn cùng với Đức Maria suy niệm các mầu nhiệm về đời sống, cái chết, và sự phục sinh của Chúa Giêsu, điểm mấu chốt của mọi lịch sử.
Trong một bài báo của tờ America nhiều năm trước đây có phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Dominic Tang bị cầm tù vì đức tin từ 1958 đến 1980 dưới chế độ cộng sản Trung Quốc:
Đức Tổng Tang mỉm cười khi nghe tôi hỏi người đã dùng thời giờ thế nào trong hai mươi hai năm tù. "Ai ai cũng muốn biết điều đó. Tôi cầu nguyện. Bạn phải cầu nguyện. Bạn lần chuỗi mai khôi, đếm kinh bằng các ngón tay. Bạn cố lấp đầy đầu óc mình với những ý tưởng đạo đức. Nếu không, bạn bị lụn bại! Thật vậy, sau quá nhiều năm, trí nhớ của bạn trở nên yếu kém và không thể nhớ được gì cả. Nhưng, ai ai cũng biết kinh mai khôi. Bạn có thể đọc kinh ấy một cách dễ dàng. Và khi lần chuỗi mai khôi là khi nhớ lại toàn thể cuộc đời của Chúa và Mẹ Maria…"
Một câu kinh kiên nhẫn, đó là chuỗi mai khôi.
Và rồi có những lần thiếu kiên nhẫn vì quá lâu mà Thiên Chúa không trả lời sự cầu xin của chúng ta. Dĩ nhiên, đối với Người, "một ngày thì giống như ngàn năm," trong khi chúng ta lại khó có thể đợi lâu hơn bữa ăn sắp tới. Cha Piô nói, "Chúa đã hứa sẽ đáp trả mọi lời cầu xin, nhưng Người không nói khi nào và cách nào."
Chúng ta bị cám dỗ thiếu kiên nhẫn đối với Chúa về lời cầu nguyện-và chúng ta cũng có thể bực mình với Người về sự dữ.
Là linh mục, chúng ta là đại diện cho Chúa Kitô, Đấng là tình yêu và lòng trắc ẩn nhập thể. Chúng ta rao giảng về sự quan phòng của Thiên Chúa, một Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc dân Người, không bao giờ bỏ rơi họ, gìn giữ họ trong lòng bàn tay-và rồi khi chúng ta phải đối diện với đau khổ, nhất là của người vô tội, lúc ấy chúng ta bị cám dỗ mất kiên nhẫn với Người.
Trường North America ở Rôma thì ngay bên cạnh bệnh viện nhi đồng nổi tiếng Bambino Gesù. Bao nhiêu lần tôi ngồi trong Nhà Nguyện Thánh Thể để ca ngợi tình yêu và sự thiện hảo của Thiên Chúa thì sự tĩnh mịch đó đã bị phá vỡ bởi tiếng khóc của các em vì chúng sợ hãi và đau đớn ngay trong bệnh viện bên cạnh, và lúc ấy tôi bị cám dỗ để nói với Chúa rằng, "Tình thương và sự thiện hảo của Chúa đang ở đâu?"
Khi mới chịu chức linh mục được ba tháng thì tôi nhận được điện thoại vào nửa đêm từ sở cảnh sát. Một bà là giáo dân trong xứ xin tôi đến nhà xác để giúp bà nhận ra thi hài người chồng. Tôi vừa mới rửa tội cho đứa con đầu lòng của họ một vài tuần trước đó. Người chồng, bị mất việc, rơi vào tình trạng trầm cảm, dùng ma túy, lái xe đến một con đường cụt, bịt ống khói xe bằng chiếc áo thung, để máy nổ và ngồi trong chiếc xe đóng kín, tự kết liễu đời mình. Người vợ, thật dễ hiểu, bà không chịu đựng nổi việc nhận diện ông chồng. Tôi đến--và sau đó cố gắng an ủi bà. Khi trở về, tôi không thể ngủ nổi. Hình ảnh của đôi vợ chồng trẻ, một gia đình tan nát, đứa nhỏ mồ côi cha, người vợ trẻ goá chồng--làm thế nào để tôi hài hòa điều đó với một Thiên Chúa nhân ái?
Phải quen đi với sự xáo động đó, vì nó có thể ám ảnh bạn khi là linh mục và khiến bạn thiếu kiên nhẫn với một Thiên Chúa là Đấng yêu cầu sự tín thác ngay giữa những tối tăm như thế. Và phải quen đi với tình trạng vô hiệu quả đó vì nó có thể xảy đến khi một giáo dân giận dữ hỏi chúng ta, "Sao Chúa lại để điều này xảy ra?" mà chúng ta chỉ biết trả lời, "Tôi cũng không biết."
Và khi chúng ta đối diện với sự dữ và đồi bại của thế gian, sự ngoan cố của những người từ chối không chấp nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa, họ bất tuân lề luật của Người, họ hờ hững và thờ ơ với đức tin, lẽ nào chúng ta không thiếu kiên nhẫn, và thấy mình giống như các tông đồ xưa đã xin Chúa đổ lửa xuống thiêu đốt họ, hoặc như đám đông xin một dấu lạ để thuyết phục được dân chúng? Tuy vậy, chúng ta có một Thiên Chúa là Đấng muốn phương cách dịu dàng, êm ái, âm thầm, là Đấng không bao giờ áp đặt, là Đấng mời gọi và sau đó chờ đợi, là Đấng so sánh sự phát triển triều đại của Người với một hạt cải nhỏ bé. Chúng ta có một Thiên Chúa là người kiên nhẫn đời đời.
Bây giờ, khi suy nghĩ đến sự kiên nhẫn với Thiên Chúa, có thể nào để tôi nói về sự kiên nhẫn với Giáo Hội, vì chúng ta tin rằng Thiên Chúa sống động và tích cực trong Giáo Hội không? Tôi dám chắc rằng là linh mục chúng ta cần kiên nhẫn với Giáo Hội. Một số linh mục thiếu kiên nhẫn với Giáo Hội vì họ cảm thấy Giáo Hội quá chậm chạp, quá khó nhọc trong việc canh tân, quá do dự không theo kịp với các thử thách hiện đại, quá thận trọng không dám liều lĩnh và để lại sau lưng học thuyết, sự rèn luyện, và đạo đức lỗi thời. Các linh mục khác thiếu kiên nhẫn với Giáo Hội vì, theo quan điểm của họ, quá mau chóng chấp nhận các ý tưởng mới, vì bỏ đi di sản và truyền thống, và vì phụ bạc kho tàng đức tin.
Tuy vậy, linh mục khôn ngoan thì kiên nhẫn tín thác vào Giáo Hội, nhận thức rõ về thiên tính và nhân tính của Giáo Hội, và, như một người chồng chung thủy, yêu thương vợ mình dù bất cứ gì xảy ra. Dĩ nhiên, bạn có thể nhớ đến những lời của Hồng Y Newman:
Hãy tín thác vào Giáo Hội của Chúa một cách âm thầm dù khi sự phán xét tự nhiên của bạn khác với con đường của Giáo Hội và khiến bạn đặt vấn đề về sự khôn ngoan và đúng đắn của Giáo Hội. Hãy nhận ra công việc của Giáo Hội thật khó khăn biết chừng nào: chắc chắn bị chỉ trích và bị chống đối với bất cứ gì thi hành; hãy biết rằng Giáo Hội rất cần đến sự trung thành và tận tụy của bạn; cũng hãy nhớ rằng kinh nghiệm có được trong một ngàn tám trăm năm thì thật lâu là dường nào; và Giáo Hội lấy quyền gì để buộc bạn phải tuân theo các nguyên tắc đã từng bị thử thách quá lâu và thắng lợi. Hãy cảm tạ Giáo Hội vì đã gìn giữ đức tin được toàn vẹn trong quá nhiều thế hệ và hãy thi hành phần của bạn để giúp Giáo Hội trao truyền lại đức tin ấy cho các thế hệ mai sau.
Hãy cho phép tôi quảng cáo: việc học hỏi về lịch sử Giáo Hội sẽ giúp bạn kiên nhẫn với Giáo Hội. Như John Tracy Ellis thường nói, "Nói cách đơn giản, lịch sử của Giáo Hội muốn nói với bạn rằng Giáo Hội đã trải qua tất cả những điều đó. Bạn nhìn thấy Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa Kitô, khuyết tật và đủ mọi thứ, và bạn phải đi đến kết luận rằng chỉ một tổ chức được bề trên dẫn dắt thì mới qua khỏi mọi điều này." Bạn biết Arnold Toynbee viết gì trong cuốn Study of History không? "Tôi tin rằng Giáo Hội Công Giáo là của Chúa, và chứng cớ của điều này là: không có tổ chức con người nào, được quản lý với sự khờ dại xỏ lá, lại có thể kéo dài được hai tuần!"
Tôi thích thú khi nghĩ rằng Rôma dạy các chủng sinh phải kiên nhẫn với Giáo Hội. Phải, chúng tôi thấy thành phố ấy trong sự tốt đẹp nhất, nhưng chắc chắc chúng tôi cũng thấy nó lúc tệ hại nhất. Chắc chắn Rôma dậy sự kiên nhẫn: hãy nhớ rằng đó là thành phố duy nhất trên thế giới là nơi subito (lập tức), presto (tức khắc), và immediatamente (ngay lập tức) tất cả đều được hiểu là domani (ngày mai). Đây, một giám mục ở Hoa Kỳ nói với tôi về một chủng sinh trong giáo phận mà người rất muốn gửi sang Rôma vì anh ta có một quan niệm hẹp hòi, cứng rắn, rất đắc thắng về Giáo Hội.
Tôi nhận xét, "Sao lạ vậy? Không phải là Rôma lại củng cố những điều đó hay sao?"
Vị giám mục khôn ngoan nhận xét, "Theo kinh nghiệm của tôi, Rôma dậy bạn phải lỏng lẻo một chút, phải biết cười với Giáo Hội và về Giáo Hội, phải biết cảm kích lịch sử lâu dài của Giáo Hội, phải học cách yêu mến Giáo Hội trong tất cả những điều phàm tục và ồn ào của đời sống Rôma." Phải, Rôma dậy chúng ta sự kiên nhẫn, và Giáo Hội có thể phần nào hỗn độn.
Mary Lee Settle, một tiểu thuyết gia chiếm giải National Book năm 1978, nói rằng, khi bà trở thành người Công Giáo, Walker Percy viết cho bà một lá thư chúc mừng và nhận xét, "Đó là một cơ quan rất lộn xộn mà bà dính vào, nhưng đó là một điều tồn tại cho đến tận thế."
Các linh mục chúng ta cần nghe những gì Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói với giới trẻ trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới đầu tiên:
Các bạn trẻ thân mến, tôi muốn xin các bạn một ơn huệ: hãy kiên nhẫn với Giáo Hội! Giáo Hội lúc nào cũng là một cộng đồng của những người yếu đuối và bất toàn. Nhưng Thiên Chúa đã đặt công trình cứu độ của Người vào bàn tay nhân loại. Quả thật đây là một liều lĩnh lớn lao nhưng không có Giáo Hội nào khác ngoài Giáo Hội mà Chúa Kitô đã thiết lập. Người muốn nhân loại chúng ta là các cộng tác viên của Người trong thế gian và trong Giáo Hội với mọi khuyết điểm và thiếu sót của chúng ta.
Đã đủ về sự kiên nhẫn với Thiên Chúa, đặc biệt kiên nhẫn trong sự cầu nguyện, khi đối diện với sự dữ, và trong sự yêu mến Hiền Thê của Người, là Giáo Hội.
Bây giờ, sự kiên nhẫn với chính mình. Hãy lại lắng nghe lời Thánh Francis de Sales: "Hãy kiên nhẫn với mọi người, nhưng nhất là với chính mình. Tôi muốn nói, đừng bị bối rối với những bất toàn của bạn, và luôn luôn can đảm chỗi dậy sau khi vấp ngã." Thật là một ý kiến! Bạn thấy không, linh mục chúng tôi, linh mục tương lai là bạn, đang cố gắng trở nên tuyệt hảo. Các cuộc khảo cứu cho thấy người ta vào chủng viện để trở nên một trong những người lý tưởng nhất. Và, đúng như vậy. Chúng ta muốn trở nên thánh. Chúng ta có các anh hùng như Chúa Giêsu, Thánh Phaolô, Thánh Gioan Vianney, Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Don Bosco, Thánh Maximilian Kolbe. Tất cả những vị đó đã nói, chúng ta bị cám dỗ vô cùng để mất kiên nhẫn khi bất mãn với chính mình, như hầu hết chúng ta đều như vậy!
Tuy nhiên sự khôn ngoan cảnh cáo chúng ta rằng sự thiếu kiên nhẫn với chính mình dẫn đến sự chán nản có thể tiêu diệt chúng ta. Chúng ta thất bại không đạt được mục tiêu và thu mình vào trong phòng, hoặc trở nên gắt gỏng, hoặc nằm lì trên giường, hoặc bắt đầu uống rượu, hoặc tìm sự khuây khỏa trong cánh tay của một phụ nữ thông cảm. Đâu là câu trả lời? Tầm thường hóa mục đích của chúng ta sao? Không! Câu trả lời là hãy kiên nhẫn với chính mình cũng như Chúa đã kiên nhẫn với chúng ta, để thấy rõ ơn sủng của Người thì mạnh hơn sự yếu đuối của chúng ta, và để thú nhận rằng hầu hết đời sống linh mục chúng ta thì vấp ngã liên tục với sự giúp đỡ của Người. Do đó, tai họa lớn lao thì không nằm trong sự vấp ngã nhưng trong sự chỗi dậy. Fulton Sheen nói Đức Giêsu đã ngã ba lần trên đường đến Gôngôta, vì số ba tượng trưng cho vô cùng, và vì vậy không có giới hạn cho những lần chúng ta vấp ngã dưới sức nặng thập giá của chính chúng ta.
Bây giờ, hãy thành thật. Chúng ta đặc biệt thiếu kiên nhẫn với chính mình trong sự chiến đấu đừng chiều theo tội lỗi, nhất là tội xác thịt. Satan thì đặc biệt hiệu nghiệm trong việc thuyết phục chúng ta rằng sự cố gắng giữ mình trong sạch là một cuộc chiến thua thiệt chỉ người điên mới tham dự, và sự sa ngã đó phải khiến chúng ta tin rằng đừng cố gắng nữa. Do đó, chúng ta mất kiên nhẫn trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, dù là sự khiết tịnh, nóng nẩy, lười biếng, uống rượu, lời nói hiểm độc--bất cứ gì. Đừng nghe lời Satan!
Như Evelyn Underhill viết, "Kiên nhẫn với chúng ta có nghĩa kiên nhẫn với một tạo vật đang phát triển mà Thiên Chúa cầm giữ trong tay và Người sẽ làm cho nó tuyệt hảo theo giờ giấc và phương cách của Người." Và chu kỳ đó thật khắc nghiệt là chừng nào! Chúng ta tuyệt vọng cố gắng để giữ sạch tội, để lớn lên trong nhân đức, và những sa ngã xảy đến--chỉ trích gay gắt, hành vi dâm ô, nổi giận đùng đùng, phán xét không công bằng-và chúng ta mất kiên nhẫn với chính mình, chúng ta chán nản, chúng ta xa rời khỏi sự cầu nguyện và lòng thương xót Chúa, và tội lỗi trở nên dễ dàng hơn. Hãy hỏi người nghiện rượu đang cai chừa về buổi sáng hôm sau! Họ quá kiệt quệ đến độ câu trả lời duy nhất là uống tiếp! Có thể nào chúng ta kiên nhẫn, dịu dàng, đầy hy vọng, đáng tôn trọng, nhân từ với chính mình như Chúa đối xử với chúng ta không?
Để duy trì sự kiên nhẫn với chính mình có hai sự giúp đỡ. Vị linh hướng, là người chúng ta tín thác và là người biết rõ chúng ta để có thể giúp chúng ta kiên nhẫn với chính mình, và bí tích hòa giải, nếu thường xuyên, có thể hữu hiệu giúp chúng ta phục hồi tình bạn trọn vẹn với Chúa và rút ngắn lại chu kỳ sa ngã để không đi xa hơn nữa.
Vị thần nghiệm Julian Norwich có viết, "Tôi bị cô đơn trong buồn chán, mệt mỏi với đời sống và khó chịu chính mình, bởi vậy thật khó khăn tôi mới giữ được sự kiên nhẫn-nhưng ngay sau đó Chúa lại ban cho tôi sự an ủi và nghỉ ngơi trong vui thích và tin chắc."
Kiên nhẫn với Thiên Chúa, kiên nhẫn với chính mình-và sau cùng, kiên nhẫn với người khác. Thông thường, dĩ nhiên, chúng ta giải quyết vấn đề theo cách khác, và coi đức kiên nhẫn chỉ có ý nghĩa là đối với người khác. Tôi tin là bạn thấy điều tôi muốn nói. Dám chắc với bạn là chúng ta sẽ không kiên nhẫn với người khác nếu trước tiên chúng ta không kiên nhẫn với Chúa và với chính mình.
Tôi được các giám mục, giám đốc ơn gọi, và cha xứ cho biết là các linh mục trẻ có vấn đề kiên nhẫn với giáo dân. Tin hay không, tôi còn được cho biết là một số chủng sinh về nhà và mau chóng nổi tiếng là thiếu kiên nhẫn với đức giám mục, với cơ cấu giáo phận, với cha xứ, với các thừa tác viên giáo xứ, với giáo chức nhà trường và lớp giáo lý, với thư ký. Dĩ nhiên, luôn luôn là lỗi của người khác. Do đó họ muốn một bài sai mới… bởi thế họ muốn trở về để học thêm… bởi thế họ muốn nghỉ một thời gian… bởi thế không ai muốn có họ… bởi thế họ từ bỏ…
Bạn thắc mắc tại sao sự thiếu kiên nhẫn với người khác lại nẩy sinh?
Thì, một số người có "mặc cảm mêsia". Giáo Hội, nhất là ở trong giáo xứ này, thì sẽ sa hỏa ngục cả nút và tôi đến đây là để cứu vớt họ. Hãy nhớ lại trước đây tôi có trích lời của Hồng Y Laghi, ngài lo cho các linh mục là những người tự coi mình là đấng mêsia của Giáo Hội bởi vì, như ngài viết, "Giáo Hội đã có một đấng rồi!"
Sau đó, dĩ nhiên, một số người thuộc loại "cái gì cũng biết," họ thiếu kiên nhẫn với giáo dân vì không mù quáng chấp nhận những câu trả lời có sẵn cho đủ mọi thứ.
Sau đó, một cách tự nhiên, một số người thiếu kiên nhẫn thì đặc biệt buồn phiền vì họ du học ở Rôma và vì vậy thực sự biết nhiều, mặc áo vét, có khuy tay, bằng cấp, biết tiếng Ý và La Tinh, mặc áo chùng với cúc bằng bạc, dây nhợ, và khăn thắt lưng, và một số khác có cả áo choàng, tất cả để chứng tỏ một kiểu cách đặc biệt tri thức giáo (gnostic) để có thể bào chữa cho sự thiếu kiên nhẫn một cách ngạo mạn với các tạo vật đáng thương ở giáo xứ.
Hãy tha cho chúng tôi! Bất cứ giám mục hay cha xứ nào cũng rất muốn có một người kiên nhẫn đối với bài sai của mình, muốn học hỏi, hăng say phục vụ, sẵn sàng vâng phục, và có được sự tin tưởng của giáo dân trước khi họ bắt đầu thay đổi bất cứ gì.
Nó không phải là "tự do mời gọi hành động" nhưng Đức Thánh Cha nói rằng phương cách giải quyết của Giáo Hội ngày nay phải là kiên nhẫn thuyết phục, dành được sự tin tưởng của giáo dân, hơn là ép buộc và độc đoán.
Một vài năm trước đây, tổng giáo phận Nữu Ước mất đi một linh mục vĩ đại, một thành viên của ban giám đốc chủng viện, một cựu sinh viên của Trường North America, ở tuổi bốn mươi hai. Cha Brian Barrett. Sau cái chết đột ngột của người, một câu chuyện lý thú được phơi bầy về một bà ký giả. Dường như bà đang tường thuật về chuyến tông du của đức giáo hoàng đến Nữu Ước một năm rưỡi trước đây và được giới thiệu đến Cha Barrett để biết thêm về lý lịch. Lúc bấy giờ bà tự giới thiệu là một phụ nữ cấp tiến, một "cựu Công Giáo" thường ghê tởm Giáo Hội và tin rằng Giáo Hội là hiện thân của bất cứ gì mà bà cho là lạc hậu, hà khắc, bệnh hoạn, và không hạnh phúc. Bà đổ mọi thứ lên đầu Cha Barrett.
Cha phản ứng thế nào? Bạn biết là người bị cám dỗ mất kiên nhẫn với bà. Thay vào đó, người lắng nghe, bình tĩnh trả lời các câu hỏi của bà, rành mạch giải thích giáo huấn của Giáo Hội, kiên nhẫn chịu đựng với điều mà sau này bà thú nhận là những xỉ nhục và chế nhạo, nhưng cha luôn giữ hẹn với bà, và không bao giờ mất sự trầm tĩnh. Kết quả là gì? Bà khóc trong tang lễ của người; bà trở lại với Giáo Hội; giờ đây bà trân quý đức tin và yêu mến tôn giáo. Có lẽ Cha Barrett đã bị cám dỗ cho nổ trái lựu đạn; thay vào đó, người thả lưới, và kiên nhẫn kéo bà trở về… và nó có hiệu lực. Một linh hồn được chữa lành và được cứu vớt.
Giờ đây, không hồ nghi gì, bạn sẽ gặp giáo dân, cha xứ, anh em linh mục, và các cộng tác viên mục vụ là những người có thể đốp chát người ta giống như Mẹ Têrêsa mất sự điềm tĩnh! Chắc chắn có lúc bạn sẽ phải rất kiên quyết, chấn chỉnh những lạm dụng, lên tiếng bảo vệ sự thật, tự trọng, và bình an trong tâm hồn. Tất cả những gì tôi muốn nói là nếu chúng ta hành xử thật bình tĩnh, hợp lý và kiên nhẫn, điều đó luôn luôn đáng ca ngợi, được ưa thích hơn, và hữu hiệu hơn.
Có những lúc linh mục giáo xứ được mời gọi phải kiên nhẫn một cách anh hùng. Ngồi hàng giờ trong tòa giải tội mà không ai đến; dành nhiều ngày soạn bài giảng mà không ai lắng nghe; chương trình trong ngày đã đầy mà đến phút chót cha xứ lại bảo phải chủ sự tang lễ lúc 10g; người cô đơn đến với bạn xin an ủi trong khi bạn chuẩn bị suy niệm; chú giúp lễ làm rơi chén thánh mới tinh của bạn; cố gắng đến nói chuyện với hội đoàn các ông về chương trình truyền giáo trong khi họ chỉ lưu tâm đến cuộc tranh tài cờ tướng; mong muốn nói chuyện với phụ huynh các em rước lễ lần đầu trong khi họ chỉ muốn tranh luận về việc em gái có nên đội khăn voan hay không; một số xua đuổi bạn, ngay cả một số anh em linh mục, vì quá đạo đức, quá truyền thống, quá Rôma, không cho bạn ngay cả một cơ hội; một số người, ngay cả anh em linh mục, cấm cản bạn không được thi hành bất cứ gì mới hay có tính cách sáng tạo trong giáo xứ. Chúng ta có thể huênh hoang, đe dọa, tán tỉnh, và đòi hỏi được thuyên chuyển; hoặc chúng ta có thể kiên nhẫn, chu toàn nhiệm vụ, chiếm được sự tin tưởng của họ, và tạo sự khác biệt.
Điều gì giúp chúng ta duy trì được sự kiên nhẫn với người khác?

Sự khiêm tốn! Sự kiêu ngạo, như bạn thấy, đưa đến thiếu kiên nhẫn vì nó cám dỗ chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết nhiều hơn và đều có câu trả lời. Sự khiêm tốn giúp chúng ta thú nhận rằng những người này, giáo xứ này, sự bài sai này--đã ở đây trước chúng ta từ lâu và sẽ tiếp tục ở đây sau khi chúng ta ra đi, và chúng ta chẳng là gì cả mà chỉ là một công cụ. Bạn có nhớ lời cầu nguyện trước khi đi ngủ của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII chứ: "Con đã thi hành hết sức con… Đó là Giáo Hội của Chúa! Con đi ngủ đây."


Óc khôi hài giúp chúng ta kiên nhẫn với người khác. Trong tổng luận của Thánh Tôma, thật thú vị khi biết rằng đức kiên nhẫn đứng dưới sự hy vọng, cũng như đức tính vui vẻ. Nếu chúng ta tin tưởng rằng mọi sự trong tay Chúa, thì, nó sẽ xảy ra vào thời điểm tốt nhất của Chúa, bởi thế tốt hơn chúng ta nên kiên nhẫn làm việc và biết cách cười đùa. Dầu sao đi nữa, có thể chương trình của chúng ta không phải là một chương trình đúng. Hãy lắng nghe bài thơ của Cha Solanus Casey, một linh mục Capuchin ở Detroit là người, nếu Chúa muốn, sẽ được phong chân phước:
Chúng ta xào nấu chương trình nhưng trở nên tệ hại

vì quá nhiều hương vị của riêng mình.

Nếu ý tưởng này xuất xứ từ thiên đường

nó sẽ phát triển như men bột.

Chúa muốn dùng sức mạnh của chúng ta

nếu kế hoạch của Người không bị hỏng vì kế hoạch của chúng ta.
Một điều giúp đỡ khác? Hãy giải thích những hoàn cảnh hời hợt, bất tiện, chưa tuyệt hảo là cơ hội ơn sủng và dịp thuận tiện để gia tăng nhân đức. Thánh Rôsa Lima nói, "Không có gánh nặng hoạn nạn thì không thể đạt được mức cao lớn của ơn sủng. Ơn sủng càng tăng khi càng chiến đấu."

Một cảm nhận lành mạnh về tội nguyên tổ. Chúng ta không tin rằng có một sai lầm chết người trong sự tạo dựng, thực sự sai lầm, như Thánh Phaolô viết, "Mọi tạo vật rên xiết trong đau khổ" hay sao? Đôi khi chúng ta mất kiên nhẫn vì mong đợi sự tuyệt hảo. Tôi nhớ hai năm sau khi chịu chức linh mục tôi được chọn làm việc trong phòng nhân viên của giáo phận. Chương trình nghị sự buổi họp đầu tiên là trường hợp của một linh mục trẻ xin được thuyên chuyển sau hai năm làm việc với một cha xứ rất khó khăn. Tôi lên tiếng: "Điều mà linh mục này cần là được bài sai đến một linh mục nhiệt tình, nhân hậu, khôn ngoan và thánh thiện." Sáu cặp mắt đổ dồn về và sáu cái miệng há hốc ra. Sau cùng Đức Tổng GM May phá vỡ sự im lặng và nhận xét, "Và ở cái chỗ chết tiệt nào chúng ta sẽ tìm thấy loại linh mục ấy?" Tại sao chúng ta ngạc nhiên khi thấy mình rơi vào hoàn cảnh không hoàn hảo, kém lý tưởng, không hoàn mỹ? Chúng ta sẽ không được bài sai với một vị thánh--và họ cũng vậy!


Một trợ giúp khác cho sự kiên nhẫn với người khác? Sự khôn khéo trong giao tiếp. Bạn thấy không, để giữ được kiên nhẫn, chúng ta phải có thể cho người khác biết khi chúng ta đau lòng, hay chán nản, hay bực mình về điều gì đó. Vì, nếu không, nó sẽ chỉ mưng mủ và bùng nổ. Sự khéo léo trong việc giao tiếp một cách bình thản, hợp lý, vô tư, là một tài năng chúng ta cần phát triển.
Và dĩ nhiên, một sự tín thác như con trẻ vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Rôma, "Chúng ta biết rằng khi biến đổi mọi sự trở nên tốt, Thiên Chúa cộng tác với tất cả những ai yêu mến Người, với những ai Người đã kêu gọi tùy theo mục đích của Người." Hoạch định của Người rồi sẽ được bộc lộ; Người sẽ chiến thắng; Người là Thiên Chúa! Làm thế nào mà chúng ta có thể thiếu kiên nhẫn với những người và với những hoàn cảnh của chúng ta?
Anh Charles de Foucauld hỏi, "Trở nên một tông đồ, đúng vậy, nhưng như thế nào? Đối với một số người, chúng ta không cần phải nói một điều gì về Thiên Chúa, nhưng hãy kiên nhẫn như Chúa, hãy tốt lành như Chúa." Gương mẫu cũng như sự hứng khởi vĩ đại nhất về sự kiên nhẫn là thập giá của Đức Kitô. Tôi thường đem Mình Thánh cho một người tên là Charlie Marsh. Anh bị bại liệt khi tuổi còn trẻ. Người ta cho biết, trước đây anh là một người đẹp trai, hăng hái, tích cực, mạnh khỏe thì bị ngã qụy vì tai biến mạch máu não. Tôi thường sửng sốt trước sự bình thản, kiên nhẫn chịu đau khổ và nụ cười của anh. Anh chỉ có thể ra dấu bằng những chớp mắt. Một Thứ Sáu kia, khi tôi đứng gần anh, tôi nhận thấy anh lúng túng, chớp mắt lia lịa, nụ cười và sự bình tĩnh thường lệ không còn. Tôi gọi Têrêsa, vợ anh, và chị nói, "Ô Cha ơi, Cha làm ơn đứng xích sang một bên. Charlie lúc nào cũng muốn nhìn thấy tượng chịu nạn treo trên tường mà cha đang cản lối."
Điều đó giải thích cho nụ cười, sự bình an, kiên nhẫn khuất phục. Sự đau khổ khôn tả của anh được kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá; anh có được sức mạnh nội tâm và sự kiên nhẫn là từ gương mẫu của sự kiên nhẫn chịu đựng của Chúa. Không phải là tất cả chúng ta được mời gọi để đồng hình dạng với vị Linh Mục đã hiến mình trên thập giá hay sao, nhất là những người có ơn gọi?
Nhiều bạn-nhất là những ai trong tổ chức Alcoholics Anonymous-biết rõ lời cầu nguyện mở đầu nổi tiếng của Reinhold Niebuhr. Hãy lắng nghe lời ấy như một lời cầu nguyện thích hợp cho sự kiên nhẫn:
Lạy Chúa, xin ban cho con

sự thanh thản để chấp nhận những gì con không thể thay đổi,

sự can đảm để thay đổi những gì có thể,

và sự khôn ngoan để biết được những khác biệt.

Xin giúp con sống từng ngày một;

vui hưởng từng giây phút;

chấp nhận sự khó nhọc như đường đến bình an.

Xin giúp con, như Đức Giêsu,

chấp nhận thế giới tội lỗi này với hiện trạng

chứ không như con mơ ước.

Xin giúp con tin tưởng rằng

Người sẽ thay đổi mọi sự nên đúng đắn

nếu con quy phục thánh ý Người.

Để con có thể hạnh phúc ở đời này cách hợp lý,

và hạnh phúc tột cùng với Người mãi mãi ở đời sau.
Amen.

Chương 14
SỐNG THANH BẠCH

(Đoạn trích Phúc Âm: Mc 10:17-31)
Khi lấy luận án tiến sĩ về lịch sử Giáo Hội tại trường Catholic University of America ở Washington, D.C., tôi thường lái xe về St. Louis vào dịp Giáng Sinh và dịp hè để thăm nhà. Nửa đường của hành trình dài mười bốn tiếng đồng hồ ấy là thành phố Zanesville, Ohio. Ngoại trừ cây cầu hình chữ Y và viện bảo tàng Zane Grey, thành phố ấy chẳng có gì đáng để dừng chân, nhưng tôi rất thích ở lại đêm với các cha dòng Đa Minh tại một giáo xứ ngay bên xa lộ 70.
Tôi thường vui thích khi đến gặp một linh mục dòng Đa Minh, ngài có vẻ khó tính nhưng khôn ngoan, để trò chuyện hơn nửa tiếng đồng hồ sau bữa ăn tối. Tôi luôn ngạc nhiên trước vẻ đạm bạc của căn phòng ngài: một phòng được dùng làm nơi ngủ nghỉ và phòng học, một phòng nhỏ với tất cả quần áo, sách vở, bàn giấy, tượng thánh giá, một vài tấm ảnh tôn giáo, một cái ghế đọc sách và một cái đèn. Chỉ có vậy.
Có lần tôi nhận xét, "Phòng của cha đơn sơ quá. Thế cha cất những thứ khác ở đâu?"
"Chỉ có vậy thôi," ngài trả lời.
"Nhưng đơn sơ quá," tôi nói lại.
"Nếu tôi bước vào phòng của cha thì tất cả những gì cha có cũng chỉ là cặp xách tay thôi mà!"
"Thì đúng vậy, nhưng tôi chỉ ở tạm thôi."
Không bao giờ tôi quên được câu trả lời của ngài, "Không phải là tất cả chúng ta cũng như thế sao?"
"Tôi chỉ ở tạm." "Không phải tất cả chúng ta cũng như thế?" Nhiều khi tôi tự hỏi không biết bốn năm học hành của tôi có giá trị gì so với nhận xét khôn ngoan của vị linh mục già kia.
Và vì vậy tôi muốn đề cập đến đề tài đời sống giản dị, thanh bạch. Tôi không ngại để thú nhận với bạn rằng đời sống giản dị là một đề tài khó khăn mà tôi phải suy nghĩ kỹ. Một số người nhận xét rất đúng rằng đời sống giản dị của một linh mục triều thì khác với lời thề khó nghèo của một linh mục dòng, vì, sự thật là các linh mục triều có thể làm chủ nhiều thứ, và phải lưu tâm đến vấn đề vật chất như tiền nợ, tiền thuế, xe cộ, quần áo, bảo hiểm, và tiền hưu dưỡng. Những người vui tính thường nói, "Linh mục dòng thề khó nghèo; linh mục triều sống điều đó!" Cha Michael Curran nói với tôi rằng vì quá nhiều giáo xứ ở Brooklyn mua các lễ phục đắt tiền và nổi tiếng của các cha dòng Xitô ở Spencer nên được nói rằng "giáo sĩ triều tiêu hết tiền để giúp các đan sĩ sống khó nghèo."
Dầu sao, bạn hiểu điều tôi muốn nói: đời sống giản dị nói thì dễ hơn thi hành, dễ để vi phạm hơn là tuân phục, nó lờ mờ, dễ đưa đến những giải thích khác nhau, nhưng-tất cả chúng ta đều đồng ý-nó quan trọng cho bất cứ ai thực sự muốn là môn đệ Chúa Kitô, nhất là cho những ai tự nhận mình là linh mục hành động in persona Christi (nhân danh Chúa Kitô).
Có lẽ thật hữu ích để nhận xét kỹ tại sao sự giản dị lại quá quan trọng. Câu trả lời dễ dàng là vì Chúa Giêsu đã nói như vậy. Qua gương mẫu của Người-Con Thiên Chúa, tự ý trút bỏ mọi vinh dự, thanh danh, giầu sang, và an toàn, sinh trong một máng cỏ, đi tị nạn, được lớn lên trong những hoàn cảnh hoàn toàn bình thường, không có nhà hay nghề nghiệp, chỉ có chiếc áo làm sở hữu, không có chỗ gối đầu, được mai táng trong ngôi mộ của người khác-qua gương mẫu của Người, và qua lời giảng dậy, bạn có nghĩ ra điều gì khác hơn là Người muốn cảnh giác chúng ta về sự giầu sang, Người muốn ca tụng không gì khác hơn là đời sống giản dị và hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa? Chúa Giêsu đã thánh hóa đời sống giản dị.
Do đó, tôi cho rằng lý do thực sự để chúng ta khao khát một đời sống giản dị là vì Thầy chúng ta đã dậy bằng lời nói và đời sống. Nhưng chúng ta vẫn có thể hỏi: "Tại sao?" Tại sao Chúa Giêsu lại coi sự giản dị của đời sống quá quan trọng? Tôi đề nghị năm lý do có thể.

Một trong các lý do là vì sự sở hữu quá nhiều có thể khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa. Đó là điều thực tế. Một đời sống dễ dãi, thoải mái, sang trọng, và nhiều của cải vật chất làm chúng ta sao nhãng Thiên Chúa và cám dỗ chúng ta nghĩ rằng hạnh phúc có thể phát sinh từ những gì chúng ta có chứ không phải là vì bản chất chúng ta, là con cái Thiên Chúa, được dựng nên theo hình ảnh của Người, được cứu chuộc bằng máu châu báu của Con Thiên Chúa, được tiền định để yêu mến và sống mãi với Người.


"Satan ngày nay thì khôn ngoan hơn ngày xưa, và cám dỗ bằng sự giầu sang…" Đức Giáo Hoàng Alexander đã viết như thế để xác nhận rằng sự giầu sang có thể khiến chúng ta xa Chúa. "Đừng lo lắng về những gì bạn có, nhưng về con người của bạn," Thánh Grêgôriô Cả cổ võ như thế khi ngài đoán trước về sự bội giáo ngày nay là cho rằng giá trị hệ tại những gì chúng ta có, chúng ta làm chủ, chúng ta kiếm được chứ không phải con người thật của chúng ta.
Dĩ nhiên, đây là tinh thần nghèo khó mà Chúa đã đưa lên hàng đầu trong tám mối phúc: sự khiêm tốn, đơn sơ thú nhận chúng ta không có gì đáng kể, hoàn toàn lệ thuộc vào Cha trên trời. Như vậy, trong một phương cách tinh thần, người giầu có thể trở nên nghèo nếu họ vượt qua trở ngại vật chất của cải, không lệ thuộc vào chúng, độ lượng chia sẻ chúng, và đừng để chúng làm cho mù quáng trước sự giầu sang của Thiên Chúa, trong khi người nghèo của cải cũng có thể trở nên hao mòn bởi sự khao khát giầu sang khiến họ còn tệ hơn người giầu.
Như Thánh Augustin đã viết, "Sự nghèo khó của một người được xét đoán bằng ý định của tâm hồn, chứ không bằng túi tiền." Nhưng đó là điều hiếm có, phải không, vì chúng ta biết rằng sự xa hoa, sở hữu, tiện nghi, và an toàn thường thổi phồng chúng ta lên và làm tinh thần chúng ta chết ngạt đến độ đáng phải chịu sự nguyền rủa của Chúa đối với sự giầu sang, trong khi những ai tự ý tránh xa việc tích lũy và đời sống xa hoa để nuôi dưỡng tinh thần nghèo khó thì họ dễ đến với Thiên Chúa hơn. Và như vậy, đó là lý do ngắn gọn tại sao lại sống giản dị: vì người sống giản dị được tự do đến với Thiên Chúa, sự chiếm hữu cao quý nhất. Theo những lời nghiêm khắc của Thánh Antôn Sa Mạc: "Ai càng sống giản dị bao nhiêu họ càng bình an bấy nhiêu, vì họ không bận tâm với nhiều điều khác… Nhưng, khi chúng ta bám víu lấy vật chất, chúng ta sẽ bận rộn với những phiền toái xuất phát từ đó và đưa chúng ra xa rời Thiên Chúa. Do đó, sự khao khát vật chất lấp đầy chúng ta với những xáo trộn và khiến chúng ta lạc đường vào chốn tối tăm."
Như Cha Robert Dillon có lần nói với tôi, đời sống đơn giản tự nó không phải là cùng đích nhưng là một phương tiện để đạt được cùng đích, có thể nói là sự kết hợp gần gũi hơn với Thiên Chúa.
Lý do thứ hai bào chữa cho đời sống giản dị là nó ấp ủ tình liên đới với người nghèo. Bạn có thấy rằng chúng ta thật may mắn là dường nào ngay cả khi tự ý sống đơn giản không? Hầu hết cả thế giới bị bó buộc phải như vậy! Khi chúng ta tự ý yêu quý đời sống giản dị, thoát khỏi sự giầu sang, dễ dãi, xa hoa và tài sản, chúng ta gần với người nghèo hơn, họ là những người được Chúa chọn. Do đó, đời sống giản dị lại khích lệ sự công bằng và thúc giục chúng ta yêu thương chăm sóc những người đau khổ vì nghèo. Thánh Augustin lại nói: "Hãy tìm hiểu xem Thiên Chúa đã ban cho bạn bao nhiêu, và hãy giữ lại những gì bạn cần; phần còn lại mà bạn không cần là của người khác. Những thừa thãi của người giầu là những gì cần thiết cho người nghèo. Ai giữ lại những gì thừa thãi là đang chiếm hữu tài sản của người khác."

Hoặc, hãy nghe Tolstoy: "Tôi đang tham dự vào một tội ác khi tôi có thực phẩm thừa thãi và người khác thì không có gì."


Vì vậy, một đời sống giản dị dẫn đến việc chia sẻ của cải và tài nguyên, để mọi người có thể đầy đủ, đó là sự công bằng, đó là điều tốt, đó là đường lối mà Thiên Chúa muốn.
Lý do thứ ba để sống giản dị vì nó là một nhắc nhở mạnh mẽ rằng "chỉ trong Thiên Chúa linh hồn tôi mới yên nghỉ," không có gì trong cuộc đời này, không có ai, không lợi lộc nào, và không có sự chiếm hữu nào sẽ kéo dài mãi mãi hoặc thoả mãn chúng ta vĩnh viễn. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được như vậy, nếu chúng ta tìm kiếm hạnh phúc đích thật và lâu dài từ bất cứ gì hay bất cứ ai trong cuộc đời này, chúng ta tự đem đến cho mình những khó khăn, phiền muộn, và thất vọng.
Lý do thứ tư của đời sống giản dị là nó khích lệ chúng ta tín thác vào Đấng Quan Phòng thay vì vào chính chúng ta hay những gì chúng ta có. Càng có nhiều, càng an toàn, càng thoải mái và dễ chịu trong đời sống, chúng ta càng ít trông cậy vào Chúa để ban cho chúng ta những gì thật sự cần thiết.
Và, lý do sau cùng để sống giản dị, rất thích hợp cho linh mục, là vì đó là một gương mẫu tốt lành. Phải, đời sống giản dị của linh mục có một giá trị mô phạm và giáo lý, vì ngài dậy bảo giáo dân về tinh thần nghèo khó và khích lệ họ sống công bằng.
Cũng thế, đó là một gương xấu xa khủng khiếp khi linh mục sống cuộc đời giầu có, xa hoa và thoải mái. Khi Đức Tổng Giám Mục Gaetano Bedini phúc trình lên Đức Giáo Hoàng Piô IX về tình trạng Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ trong năm 1853, trong khi ngài ca ngợi hàng giáo sĩ ở nước cộng hòa mới này, ngài nhận thấy có ba thói xấu: nghiện rượu, sự đồi bại tình dục, và tham lam, hoặc ích kỷ khao khát tiền bạc. Một phúc trình như vậy, tôi dám chắc vẫn còn đúng với ngày nay, và có thể áp dụng cho linh mục của các quốc gia ngoài Hoa Kỳ. Có ai trong chúng ta có thể quên được một cảnh trong phim Angela's Ashes mà các món ăn ngon lành của gia đình McCourt là thức ăn dư thừa của linh mục mà bà bếp lấy phân phát cho đám dân nghèo đang chờ chực ở cửa sau nhà xứ?
Bởi thế, các linh mục và linh mục tương lai được thúc giục sống một cuộc đời giản dị không chỉ vì Thầy chúng ta đòi hỏi, không chỉ vì nó giúp chúng ta đến với Chúa dễ dàng hơn, không chỉ vì nó cổ vũ một xã hội công bằng, không chỉ vì nó nhắc nhở chúng ta rằng chỉ có Thiên Chúa mới thoả mãn chúng ta, không chỉ vì nó giúp chúng ta tín thác vào Đấng Quan Phòng, nhưng vì nó đem lại một gương mẫu tốt lành, và vì nếu không sống như vậy, đó là điều vô cùng xấu xa.
Sau khi nhìn đến các lý do để sống giản dị, bây giờ tôi đưa ra các nhận xét về thực hành.
Thực tập sống giản dị, tự nó không chỉ tốt lành nhưng còn là nền tảng cho các nhân đức khác được mong đợi nơi linh mục. Tôi vừa mới đọc một bài của Đức Hồng Y John O'Connor gửi cho Cha Benedict Groeschel dòng Phanxicô, trong đó ngài khẳng định: "Nghèo khó là nhân đức nền tảng vì mọi điều phát sinh từ đó; nghèo khó ý muốn, mà chúng ta gọi là vâng phục; nghèo khó ao ước của thể xác, mà chúng ta gọi là khiết tịnh; và sau đó hiển nhiên là sự nghèo túng, thoát khỏi mọi ràng buộc của vật chất. Sự nghèo khó là tự do đích thật."
Thật đúng là dường nào, đời sống giản dị hỗ trợ các nhân đức khác được mong đợi nơi linh mục: sự vâng phục, khi chúng ta không bám víu lấy ước ao được bài sai chỗ này chỗ nọ, được "thăng quan tiến chức", và chương trình riêng của chúng ta, nhưng quên đi tham vọng cá nhân và trao tương lai của chúng ta vào tay các giám mục. Tôi thật thán phục chừng nào khi thấy những người ở đại chủng viện Rôma bỗng dưng phải thay đổi chương trình ở giữa khóa, những người được hứa là cho tiếp tục năm thứ năm nhưng rồi bị lấy lại, hoặc những người được bảo rằng sẽ được về nhà sau năm thứ tư và bắt đầu chờ đợi điều đó thì lại được bảo phải ở lại để lấy chứng chỉ; những người được bảo là phải chú ý đến một lãnh vực mà họ không lựa chọn, hay được trao cho một năm mục vụ mà họ thực sự không muốn. Tôi thán phục họ là dường nào khi họ nhún vai, thú nhận là chán nản, nhưng rồi lại vui vẻ chấp nhận. Sự vâng phục đó phát sinh từ một đời sống giản dị, khi chúng ta cố gắng đừng bám víu lấy chương trình riêng, kế hoạch riêng hay tham vọng cá nhân, có phải không?
Và sự không quyến luyến đó là đặc điểm của sự khiết tịnh lành mạnh, có hiệu quả khi chúng ta không bao giờ bị thu hút bởi người khác. Chúng ta thuần tuý và trọn vẹn thuộc về Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người, và không ai khác có quyền đòi hỏi tình yêu của chúng ta, như vợ chồng có quyền đối với nhau trong hôn nhân.
Cũng vậy, sự bác ái về mục vụ thì tùy thuộc sự giản dị của đời sống. Nếu đời sống chúng ta đầy những xáo trộn vì của cải, nhậu nhẹt, say sưa, mua sắm, du lịch xa hoa, và thích nghi với xã hội quá đáng thì chúng ta sẽ không còn thời giờ, năng lực, và động lực để độ lượng phục vụ người dân. Chúng ta thấy mình no nê, lăng quăng không mục đích rõ rệt từ liên hoan này đến vui chơi khác, tiệm này đến cửa hàng khác, quá chếnh choáng để chăm sóc các linh hồn được giao phó cho chúng ta với sự bền bỉ, lợi ích và sự chú ý mà họ đáng được. Có lẽ đó là lý do mà trong tông huấn Pastores Dabo Vobis, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề cập đến sự nghèo khó mục vụ là điều thật cần thiết cho một linh mục.
Do đó, phải, một đời sống giản dị đem cho chúng ta sự tự do mà các đức tính cần thiết khác của một linh mục có thể xây dựng trên đó.
Nhận xét thứ hai về đời sống giản dị là chúng ta có thể vi phạm đời sống ấy không chỉ bằng việc sở hữu của cải hay tiền bạc. Chúng ta có thể thất bại trong cuộc sống ấy bằng nhiều cách.
Một trong những cách ấy là tinh thần bất an và xao nhãng mà nó luôn khiến chúng ta tìm kiếm các vui thú mới, trò tiêu khiển mới, bạn bè mới. Chúng ta xa lánh sự thinh lặng, trầm lắng và kín đáo. Chúng ta không thể ở một mình. Câu nói lừng danh của Blaise Pascal rất đúng: "Nguyên do duy nhất khiến người ta không hạnh phúc là vì họ không biết giữ im lặng trong phòng riêng." Tôi nhớ lại lần đầu tiên đi tĩnh tâm tám ngày theo phương pháp Y Nhã khi còn là một linh mục trẻ. Không có cuốn sách nào ngoại trừ phúc âm và sách kinh, không điện thoại hay thư từ, tuyệt đối im lặng ngoại trừ việc gặp gỡ hàng ngày với vị linh hướng. Tôi như điên! Vào đêm thứ tư tôi thấy mình lơ đãng đọc thành phần chất lượng trên nhãn hiệu của loong nước cà chua!
Một đời sống giản dị có nghĩa một đời sống không huyên náo, không rắc rối. Điều đó không có nghĩa một cuộc đời thiếu chiều sâu hay sự nghiêm trọng, nhưng nó phải xuất phát từ nội tâm, từ thừa tác vụ, chứ không phải từ sự ồn ào, giải trí, chiếm hữu, hay tiểu thuyết. Người linh mục sống đời giản dị mong muốn một buổi tối êm đềm trong phòng một mình, và dành cho mình thời giờ để suy tư, hoạch định, cầu nguyện hay đọc sách, điều đó sảng khoái hơn là một bữa ăn tối sang trọng và ghế hạng nhất trong một hí viện. Ngài thích ở một mình. Như ngạn ngữ có nói, ngài vui thích "những sự giản dị của đời sống," và khao khát sự thinh lặng, cô độc và niềm vui đơn sơ.
Thái độ thứ hai có thể vi phạm sự giản dị của đời sống là quá đáng gắn bó với người nào, chỗ nào, hay vật gì ngoài Chúa Kitô và Giáo Hội. Một linh mục khôn ngoan mà tôi biết có nói về sự độc thân, và câu nói đó cũng có thể áp dụng cho sự khó nghèo mục vụ: "Tôi biết một số linh mục yêu quý chai rượu hoặc những gậy đánh gôn (golf). Nếu họ vi phạm sự độc thân, chắc chắn họ tìm đến phụ nữ."
Thật thô bạo, nhưng ngài có lý do: không có người nào, chỗ nào, vật gì, thú tiêu khiển nào, thể thao gì, bạn hữu, họ hàng, của cải, mục đích hay tham vọng gì làm chủ được một linh mục, chỉ có Chúa Kitô và Giáo Hội. Bất cứ gì khác đều vi phạm sự giản dị của đời sống. Một người bạn tôi, là cha xứ của một họ đạo lớn, bất đắc dĩ phải nhờ đến một linh mục lớn tuổi để giúp ngài. Điều duy nhất cần giúp đỡ ngoài Thánh Lễ hàng ngày là cử hành Thánh Lễ tại nhà hưu dưỡng mỗi sáng thứ Tư vào lúc 10g, đó là thời gian được đặt định từ lâu vì thuận tiện cho ban quản đốc, các cụ và những người tình nguyện.
"Không được," vị linh mục lớn tuổi trả lời. "Đã hai mươi năm nay, sáng thứ Tư là tôi đi chơi gôn, và tôi không muốn thay đổi điều đó." Thật là những ưu tiên khó sửa đổi!
Thứ ba, hãy đi vào thực tế. Hãy nhìn vào những phương cách cụ thể để biết chúng ta, là linh mục hay linh mục tương lai, có sống cuộc đời giản dị khó nghèo mục vụ hay không. Sau đây là một số lãnh vực nhiều thách đố và có thể nguy hiểm.
Y phục: tôi mời bạn nhìn vào tủ quần áo, rương quần áo, bên dưới gầm giườn-bất cứ đâu bạn để quần áo- và nhớ lại những gì bạn cất giữ trong nhà và tự hỏi bạn có ăn mặc giản dị không. Dĩ nhiên, đó là một trong hai lý do mà chúng ta có y phục giáo sĩ; lý do thứ hai là nhân dáng bên ngoài, có thể nói rằng chúng ta không cần quá nhiều y phục vì chúng ta đã có đồng phục. Bây giờ, điều đó cũng có thể bị vi phạm, phải không? Một đàng bạn có những giáo sĩ mặc quần áo quá nhầu nát, bạc phếch, dơ bẩn đến độ họ trông như những người lười biếng. Đằng khác bạn có những giáo sĩ với y phục sang trọng lụa là, cúc bọc nhung, khuy áo bằng vàng và khoảng nửa tá bộ vét được thợ may đo. Cả hai thái cực đều sai lầm.
Chúng ta cần y phục sạch sẽ, thoải mái và khỏe mạnh. Chúng ta phải cầm đến đồ vật thiêng liêng, chúng ta hiện diện trong những biến cố trọng đại nhất của đời sống giáo dân, do đó chúng ta phải sạch sẽ và chỉnh tề vì họ. Sách Talmud có dậy "nghèo không có nghĩa dơ bẩn." Đừng lầm lẫn cho rằng sự giản dị trong y phục giống như luộm thuộm và lôi thôi lếch thếch. Tuy nhiên chúng ta tránh y phục lòe loẹt, phô trương, trong y phục giáo sĩ cũng như y phục thường.
Giáo dân tặng cho linh mục nhiều y phục, và chúng ta nhận với lòng biết ơn và, nếu thích hợp, hãy sử dụng các y phục đó. Tuy nhiên, không bao lâu bạn sẽ nhận được quá nhiều đến độ phải cho bớt đi. Sự nguy hiểm ở đây không phải là y phục mà chúng ta được cho, nhưng ở những gì chúng ta muốn mua. Giản dị, sạch sẽ, chỉnh tề - đây là những phụ trợ quan trọng.
Cũng phải thận trọng về các lễ phục quá đắt tiền. Mỗi giáo xứ đều có những phẩm phục trang trọng đẹp đẽ, thường là một bộ cho ngày Chúa Nhật và ngày lễ, một bộ khác cho ngày thường. Tôi nghĩ mỗi linh mục đều được quyền có một phẩm phục đặc biệt cho Thánh Lễ mở tay mà sau đó ngài sẽ dùng cho các dịp đặc biệt trong toàn thể đời linh mục. Tôi không ngại để nói với bạn, điều làm tôi khó chịu khi những tân linh mục mua sắm các phẩm phục quá đắt tiền, đủ loại mầu sắc cho niên lịch phụng vụ, và rồi khi được bài sai đến giáo xứ nào đó, họ bỏ qua các phẩm phục ở đây, và như vậy nó có vẻ kiêu kỳ và kiểu cách. Nói cách tổng quát, giáo xứ mua lễ phục chứ không phải linh mục.
Xe cộ là một điểm khó khăn khác cho các linh mục. Một đàng, bạn cần chiếc xe bền bỉ, thoải mái, vì một linh mục phải dùng đến xe cộ rất nhiều. Đàng khác, một chiếc xe sang trọng của linh mục có thể trở nên điều tiếng xấu. Khi Đức Ông Yarrish và tôi làm việc ở Phủ Sứ Thần Tòa Thánh ở Hoa Thịnh Đốn, tôi ngạc nhiên khi thấy Bộ Ngoại Giao đề ra nguyên tắc rằng các sứ thần tòa thánh thì không được đi những chiếc xe được coi là "xa hoa" ở những quốc gia mà họ làm việc, đối với chúng tôi đó là các xe Cadillac, Lincoln, hay Mercedes. Nếu đó là điều tiếng xấu cho một sứ thần tòa thánh thì chắc chắn rằng điều đó cũng áp dụng cho một linh mục khi mua sắm một chiếc xe như vậy. Dĩ nhiên, ngày nay một số linh mục lái những chiếc xe díp hay "pick-up truck" cũng đắt tiền tương tự. Phải, xe cộ cũng có thể cám dỗ chúng ta không sống đời thanh bạch.
Nghỉ hè và du lịch cũng là lãnh vực khó khăn. Mọi linh mục đáng được nghỉ hè, và du lịch là một trong những điều chính đáng chúng ta có. Nhưng tôi nghĩ bạn sẽ đồng ý với tôi là nhiều linh mục gây nên tiếng xấu không chỉ bởi đi nghỉ hè quá nhiều, nhưng bởi sự xa xỉ và kỳ lạ của nơi nghỉ hè.

Đi ăn tiệm: một người bạn nói với tôi rằng các linh mục biết rõ nhà hàng nào ăn ngon. Tôi không nghĩ đó là tiếng tốt. Một bữa ăn ngon tại nhà hàng thanh lịch với bạn hữu là điều tuyệt đối chấp nhận được. Nó là nguồn sức khỏe và vui thú lành mạnh, chính đáng. Vấn đề xảy ra là khi chúng ta ăn uống ở đó thường xuyên, và khi chúng ta bắt đầu thích những nơi sang trọng. Một cách tổng quát, bạn không nên đi ăn tiệm nhiều lần trong tuần.


Máy móc: một cám dỗ hiện đại của đời sống giản dị mà tôi gọi là "máy móc": máy truyền hình, máy quay phim video, dàn âm thanh "stereo", máy vcr, bộ máy điện toán hiện đại luôn luôn được cập nhật hóa. Dường như linh mục và linh mục tương lai thường bị say mê với điều mà các bà thường gọi là "đồ chơi của các ông," luôn mua sắm những dụng cụ và đồ vật hiện đại. Dĩ nhiên, điều có thể xảy ra là phương tiện kỹ thuật (máy điện toán, điện thoại di động, v.v.) được cho là giúp chúng ta tiết kiệm thời giờ để có thể phục vụ Chúa hữu hiệu hơn thì lại trở nên một sự xao nhãng với đời sống giản dị mà chúng ta khao khát.
Dĩ nhiên có ngoại lệ, nhưng chưa bao giờ tôi gặp được một linh mục làm chủ một bất động sản - một phòng ốc cao tầng (condo), một khu chung cư, một chỗ ở ngoại ô, một căn nhà, hay một chiếc thuyền - mà không thú nhận rằng nếu không thận trọng, điều đó sẽ bắt đầu cản trở thừa tác vụ linh mục của ngài. Bất động sản cần đến thời giờ, tiền bạc, thuế má, sửa chữa và sự lưu ý, tất cả những điều đó có thể phương hại đến đời sống thanh bạch. Đúng vậy, tôi biết một số linh mục mà họ có những nơi ở bình thường, giá vừa phải, dễ bảo trì, có thể chia sẻ với người khác. Tuy nhiên, những vị này là người đầu tiên thú nhận rằng bạn phải thận trọng về bất động sản. Sự cảnh cáo đó cũng áp dụng cho tư cách hội viên của các câu lạc bộ. Khi ngày càng có nhiều người làm linh mục sau khi có sự nghiệp ở ngoài đời, việc sở hữu bất động sản trở thành một vấn đề cần được lưu tâm.
Điều thứ bẩy và có lẽ là mối đe dọa nguy hiểm nhất cho sự khó nghèo mục vụ là tiền bạc. Chúng ta đã biết Thầy cảnh cáo chúng ta thế nào về sự nguy hiểm của tiền bạc. Nó làm tiêu tan nhiều linh mục tốt lành hơn cả việc nghiện rượu và tình dục. Chúng ta có thể trở nên các người độc thân ích kỷ đói khát tiền bạc mà việc theo đuổi một "đời sống thoải mái" sẽ làm cho sự khó nghèo phúc âm trở nên giả dối. Do đó, việc nghiên cứu cách sử dụng tiền bạc thích hợp là điều cần thiết cho một người muốn làm linh mục. Cho phép tôi đưa ra một vài gợi ý để bạn tự hỏi xem có phải mình đang phục vụ tiền bạc hay phục vụ Thiên Chúa.
Bạn có mắc nợ không? Tôi muốn nói về nợ các cửa tiệm, tiền điện thoại, tiền thẻ tín dụng, một cách mau chóng để nô lệ cho tiền bạc là mắc nợ. Một số tiền nợ như tiền học, tiền xe thì không thể tránh được. Phải biết chắc là bạn trả nợ đúng kỳ hạn, có trách nhiệm, một cách kiên định.
Bạn có sống trong khả năng của mình không? Một vài năm trước đây có một chủng sinh đến xin tôi giúp đỡ tài chánh để đi chơi mùa Giáng Sinh. Anh cho biết không có tiền để đi xe. Tôi vui lòng giúp đỡ, và ngân quỹ cho việc đó chỉ có giới hạn. Tôi hỏi anh, "Anh cần bao nhiêu?"
"Ô, khoảng một ngàn hai."
Tôi choáng váng và hỏi lại, "Anh đi đâu?"
"Thổ Nhĩ Kỳ," anh trả lời. Đó là sống ngoài khả năng của bạn. Tôi vui lòng cho anh ba trăm đô la để đi những chỗ ít hấp dẫn hơn, tỉ như Florence hay Siena. Nhưng, nếu bạn không có tiền, đừng đến những chỗ lạ thường. Nếu bạn không trả nổi tiền điện thoại, hãy chấm dứt dùng điện thoại. Chúng ta sống trong khả năng của mình. Nếu chúng ta thường xuyên vật lộn với tài chánh, điều đó chứng tỏ sự thiếu trưởng thành về tài chánh mà nó sẽ phiền toái đến đời sống khó nghèo mục vụ.
Bạn có thấy mình làm những việc chỉ dính dáng đến tiền, hoặc lấy lòng những người mà bạn hy vọng họ sẽ là ân nhân? Giáo dân rất độ lượng với linh mục, và nếu không thận trọng, chúng ta sẽ thấy mình ve vãn những người mà chúng ta tin rằng có lợi về tài chánh cho chúng ta và rồi lơ là với người nghèo.
Một đe dọa sau cùng cho sự giản dị phúc âm là sự thái quá. Đời sống giản dị là để gia tăng hiệu quả khi thi hành mục vụ, gia tăng niềm vui, lòng hăng hái chứ không phải giảm bớt. Truyền thống Công Giáo là để đậm đà thêm những thời gian vui vẻ, lễ lạc, hăng say với đời sống, thực phẩm, ăn uống, nghệ thuật, giải trí, âm nhạc, khôn ngoan sử dụng các tài nguyên tự nhiên tốt lành của Thiên Chúa. Và rồi sự khó nghèo phúc âm không bao giờ biến chúng ta thành những người hay gắt gỏng, ủ rũ, khắt khe không muốn ai khác có được niềm vui. Do đó hãy cảnh giác về sự thái quá trong lãnh vực đời sống giản dị:
Trong một buổi nói chuyện, Đức Hồng Y O'Connor cảnh giác đối với việc thiếu sót theo đuổi tinh thần nghèo khó đích thật. Ngài nói, "Bất cứ sự nghèo khó nào cũng có thể trở nên giả dối. Ngay cả sự khó nghèo cũng có thể trở nên một nguyên do để hãnh diện, kiêu ngạo, tự phụ. “Tôi nghèo hơn bạn, và vì vậy tôi thánh thiện hơn bạn." Vâng, đúng vậy. Tự bản chất, đời sống giản dị đích thật thì không lôi kéo sự chú ý đến mình, không khoe khoang.

Đời sống đó cũng không hại đến sức khỏe. Bạn có thể nghĩ đó là một thực hành đức khó nghèo khi không mua chiếc áo mới hay đôi giầy mới, nhưng khi để đôi chân sũng nước mưa và lồng ngực lạnh buốt phải nằm liệt giường thì đó không phải là khó nghèo. Khi bạn cố gắng ăn uống, ngủ nghỉ điều độ thì đó là điều đáng khen nhưng nó sẽ phản tác dụng nếu bạn yếu dần và lâm bệnh.


Và những nỗ lực đáng phục của bạn khi đừng đi ăn ngoài thường xuyên, đừng quá lo lắng đến các phim ảnh, chương trình truyền hình hay nghỉ hè quá nhiều, sẽ không đem lại kết quả mong muốn nếu bạn trở nên ủ rũ, bắt bẻ, chán chường xa lánh.
Tự bản chất, sự giản dị của đời sống tránh những thái quá, và đưa đến một đời sống lành mạnh hơn, hữu hiệu hơn và vui thích hơn.
Tôi kết thúc những nhận xét về nhiều khía cạnh của đời sống giản dị bằng việc nhắc đến những gì chúng ta có thể thi hành để nuôi dưỡng đời sống ấy, thay vì chỉ để ý đến những gì cần tránh né, những gì chúng ta không nên làm. Phải, có những trợ giúp tích cực để phát triển đời sống giản dị.
Trước hết là sự độ lượng đơn sơ, chân thật khi chúng ta cho đi tiền bạc, quần áo và những gì không cần. Một linh mục tốt lành mà tôi quen, cứ mỗi tối giao thừa là ngài ngồi viết chi phiếu tặng cho các tổ chức bác ái cho đến khi chỉ còn lại một trăm đô la. Nhưng ngài không phải là vô trách nhiệm về tiền bạc, vì ngài biết chắc là nợ đã trả xong, vẫn còn tiền tiết kiệm để đi nghỉ hè, để trả tiền xe, và để phòng khi khẩn cấp. Đó là sự quản lý khôn ngoan. Nhưng, hàng năm ngài cho đi những gì dư thừa. Đó là cách ngài nuôi dưỡng đời sống giản dị. Một người nói với tôi là nếu họ đi ăn tối ở tiệm nhiều hơn một lần mỗi tuần, họ sẽ trích một số tiền tương đương để tặng lại cho cơ quan từ thiện. Đó là cách để gia tăng đời sống giản dị.
Một sự giúp đỡ thứ hai để duy trì sự nghèo khó mục vụ là thỉnh thoảng phải tự hỏi mình xem có trông chờ vào của cải gì đó hay thói quen an nhàn nào đó. Vật chất thì tốt một khi chúng ta đừng lệ thuộc vào chúng. Do đó, hãy tự hỏi xem giá trị của bạn, sự bình an nội tâm của bạn có vụn vỡ khi mất mát điều gì đó.
Người ta nói rằng khi thị trường chứng khoán suy sụp vào năm 1929, những người vô thần đã nhẩy trên lầu xuống đất tự tử, và người có đức tin lại đi làm tiếp. Một phúc lành mà linh mục chúng ta có được là việc di chuyển thường xuyên, và vì vậy, chúng ta thường vất đi những gì không cần thiết. Có lần tôi than phiền về việc thu xếp và dọn nhà khi một linh mục bạn nhận xét, "Đốt bớt thì hơn." Một linh mục tôi quen chỉ mang theo những gì vừa trong một chiếc xe, tất cả còn lại ngài cho đi hết. Tất cả của cải trần gian của các tu sĩ dòng Bác Ái Truyền Giáo thì có thể chất vừa trong một cái túi vải. Chúng ta không phải là các tu sĩ ấy, nhưng chúng ta được kêu gọi sống đời giản dị, và vì vậy thỉnh thoảng chúng ta phải kiểm điểm lại xem đời sống chúng ta có quá bừa bộn, tâm trí chúng ta có quá trì trệ, hay linh hồn chúng ta có quá đầy ứ sự giầu sang, thoải mái và của cải hay không.
Hãy biết chắc là bạn vẫn gần gũi với người nghèo. Phải, thật dễ cho tôi khi đến thăm một ân nhân giầu có, nhưng thật khó để gặp một người nghèo đang đi xin việc. Nhiều linh mục thích tham dự bữa tiệc sang trọng của tổ chức Knights of Malta nhưng lại khinh chê món cá chiên của hội Knight of Columbus. Một linh mục tốt lành thì dành nhiều thời giờ cho người nghèo hơn là người giầu, và sẵn sàng giúp đỡ họ, vì đời sống giản dị được gia tăng bởi lòng yêu quý những người không thể đền ơn lại cho linh mục chúng ta. Tương tự, việc thường xuyên tiếp xúc với người nghèo sẽ giúp chúng ta biết cảm kích về những gì mình đang có, và kích thích lương tâm ù lì của chúng ta để sống giản dị phù hợp với Phúc Âm.
Và, một sự giúp đỡ sau cùng, là hãy giữ tình bạn với những giáo dân tốt lành, là những người giúp bạn sống thực tế. Gia đình tôi là như vậy. Khi đến thăm gia đình của các anh chị, tôi mới thấy mình thật may mắn chừng nào. Họ không đi ăn tiệm thường xuyên như tôi, hoặc đi du lịch như tôi, hay có thể mua sắm như tôi, tất cả sống rất giản dị. Họ sống với ngân khoản ít ỏi vì các chi phí, nợ tiền học, tiền sửa chữa, và tiền bác sĩ phải trả. Không ngạc nhiên khi thấy anh tôi phải làm hai công việc để người vợ và sáu đứa con có được một đời sống tươm tất. Và mỗi Chúa Nhật họ trích ra một ít tiền, không phải tiền dư thừa mà từ ngân quỹ eo hẹp, để giúp đỡ Giáo Hội mà họ yêu quý để các linh mục có thể sống thoải mái và than phiền về một cuộc đời khó khăn. Khi là linh mục, bạn phải biết chắc là có hai hay ba gia đình lành mạnh coi như người thân để giúp bạn sống thực tế. Họ sẽ giúp chúng ta chừng mực và giản dị.
Cứ mỗi Đêm Giáng Sinh tôi lại thấy một ông người Ý tham dự Thánh Lễ trong đại chủng viện North American. Chiếc áo vét của ông hiển nhiên là đã mua tự mấy chục năm trước và chưa bao giờ được giặt hấp; chiếc cà vạt của ông còn dính vết thức ăn của tối giáng sinh năm trước; ông không biết thưa thế nào cho đúng trong Thánh Lễ, ông cất tiếng hát thì lạc tông; ông không quen biết người nào ở đây… tuy nhiên, năm nào ông cũng đến, vui vẻ, tự nhiên và ăn tối với chúng tôi. Thành thật mà nói, tôi cảm thấy hơi khó chịu với ông.
Sau nhiều năm, tôi mới hỏi ông là ai và ông cho biết là ông sống ở ven đồi, trên con dốc từ Sant' Onofrio đổ xuống, và hàng năm ông đến đây tham dự Đêm Giáng Sinh trong mười một năm qua kể từ khi vợ con ông qua đời. Ông mỉm cười cho biết, ở đây mới là Giáng Sinh vì ông cảm thấy được đón tiếp và tự nhiên, người ở đây thân thiện và tử tế. Thật đơn giản vô cùng. Xin Chúa đừng để đời sống chúng ta trở nên quá bận rộn, quá phức tạp, quá cầu kỳ, hay quá xao nhãng đến độ không biết cảm kích với những người như thế. Hãy tha lỗi cho tôi, nhưng tiếp đón một người như thế thì mới xứng là đại chủng viện. Đó là sự đơn giản của đời sống.
Có lẽ bạn đã thuộc lòng những câu sau đây, nhưng hãy để tôi đọc lại một lần nữa để giúp bạn chú ý đến gương mẫu, động lực của chúng ta cho đời sống giản dị là Chúa Giêsu.
Người sinh trong một ngôi làng vô danh, là con của một người bình thường.

Người lớn lên trong một tiệm thợ mộc của tỉnh lẻ cho đến khi ba mươi tuổi.

Sau đó, người lang thang đi rao giảng trong ba năm.

Người chưa bao giờ viết một cuốn sách.

Người chưa bao giờ giữ một chức vụ.

Người chưa bao giờ có gia đình hay làm chủ một căn nhà.

Người không lên đại học.

Người không thi hành điều gì mà những ai quen biết với bậc danh giá thường làm.

Người không được ủy nhiệm mà chỉ có chính mình.

Khi mới ba mươi ba tuổi thì làn sóng công luận đã chống đối người.

Bạn hữu của người bỏ chạy.

Người bị giao nộp cho kẻ thù và bị chế nhạo trong phiên toà xét xử.

Người bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp.

Trong khi Người hấp hối thì bọn lý hình bắt thăm y phục của Người,

là sở hữu duy nhất Người có khi còn sống.

Khi từ trần, Người được đặt trong ngôi mộ vay mượn nhờ sự thương xót của một người bạn.

Mười chín thế kỷ đã qua đi, và ngày nay Người là nhân vật chính của giống người

và dẫn dắt sự tiến bộ của nhân loại.

Mọi đạo quân hùng hậu nhất, mọi chiến thuyền đông đảo nhất, mọi quốc hội quyền lực nhất, mọi vị vua oai phong nhất, tất cả gộp chung lại cũng không thể ảnh hưởng đến cuộc đời của một người trên mặt đất này như Người Cô Độc ấy.

Chương 15
NIỀM VUI

(Đoạn trích Kinh Thánh: Phil 4:4-7)

Khi là một linh mục được bài sai làm việc ở Hoa Thịnh Đốn, tôi thường được vinh dự giúp đỡ Nhà Bình An, một nhà tế bần ở góc đông bắc của thủ đô, để chăm sóc người bị AIDS do dòng Bác Ái Truyền Giáo của Mẹ Têrêsa thiết lập. Vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh, 1989, tôi cử hành nghi thức tưởng niệm sự Thống Khổ của Chúa Giêsu cho các nữ tu, tình nguyện viên, và bệnh nhân. Sau khi tất cả đã hôn kính thánh giá, hai chị dẫn tôi lên tầng trên để các bệnh nhân nằm liệt giường ở trên đó cũng có thể hôn chân Chúa chịu nạn.
Khi đi từ giường này sang giường nọ, tôi để ý thấy ở góc phòng có một ông gầy gò, có vẻ khích động, luôn nài nỉ tôi đến với ông. Khi tôi chớm bước đến giường của ông, một chị cản tôi lại, chị cho biết ông này có những hành động bất thường, ông ghét mọi người, và nhiều lần muốn cắn các nữ tu. Dĩ nhiên, bạn hiểu khi bị cắn bởi người bị bệnh AIDS thì sẽ có hậu quả gì. Tuy nhiên, ông này tiếp tục ra hiệu cho tôi đến với ông. Tôi phải làm gì? Một linh mục sẽ phải làm gì? Một cách từ từ, thận trọng, tôi bước đến gần và đưa thập giá cho ông và ông đã cầm lấy rồi hôn- không phải hôn chân, tôi nhớ rất rõ- nhưng hôn mặt của Chúa. Sau đó ông nằm vật xuống giường, kiệt quệ.
Ngày hôm sau, thứ Bẩy Tuần Thánh, các chị gọi tôi cho biết là ông ấy muốn gặp tôi. Tôi lại đến, cùng với các chị làm "hộ vệ" cho tôi. Khi tôi đến gần, ông nói thật khẽ, "Tôi muốn được rửa tội!"
Tôi nhích người đến gần hơn chút nữa, và với vẻ mãn nguyện, tôi yêu cầu ông giải thích lý do tại sao ông lại muốn gia nhập Giáo Hội. "Tôi không biết gì về Kitô Giáo hay Công Giáo," ông nói với tất cả tàn lực. "Đúng vậy, cả đời tôi từng ghét bỏ tôn giáo. Tất cả những gì tôi biết trong ba tháng nay khi tôi nằm chết dần mòn ở đây là các chị ấy lúc nào cũng vui! Ngay cả khi tôi nguyền rủa họ, họ nhìn tôi với đôi mắt đầy thương cảm. Ngay cả khi họ lau chùi đống ói mửa của tôi, tắm rửa vết thương cho tôi, và thay tã cho tôi, họ luôn mỉm cười; khi họ đút cho tôi ăn, đôi mắt họ sáng lên. Tất cả những gì tôi biết là họ có niềm vui còn tôi thì không. Trong sự tuyệt vọng tôi hỏi họ tại sao họ vui như vậy, mọi chị đều trả lời là 'Giêsu'. Tôi muốn có Giêsu này. Hãy rửa tội cho tôi và cho tôi Giêsu! Hãy cho tôi niềm vui!"
Khi làm linh mục, chưa bao giờ tôi rửa tội, xức dầu, và cho rước lễ mà thấy sung sướng như khi thi hành cho ông. Ông từ trần lúc 3:15 sáng Chúa Nhật Phục Sinh.
Một triết gia Pháp là Léon Bloy đã viết, "Niềm vui là dấu chỉ không thể sai lầm về sự hiện diện của Thiên Chúa." Đức tin, cậy, mến, sự khiêm tốn, hăng say, sám hối, trung tín, khiết tịnh, và niềm vui- đây là những đức tính quan trọng trong đời sống linh mục. Mới nhìn qua, niềm vui tưởng như được xếp quá cao trong các nhân đức của linh mục, nhưng tôi khuyến khích bạn hãy nhìn lại một lần nữa. Một linh mục mà không có niềm vui là một mâu thuẫn, nhưng các bạn ơi, như các bạn biết, trong Phúc Âm có nói "chúng có cả bầy."
Khi tôi làm phó xứ cho Little Flower ở St. Louis, trong cuộc họp với ủy ban hỗ trợ ơn gọi tôi hỏi họ rằng các linh mục và nữ tu có thể làm gì để khích lệ người trẻ đi tu. Một cụ già lên tiếng, "Cha có thể bắt đầu bằng sự vui vẻ! Hãy cho giáo dân thấy cha vui khi làm việc và vui với đời sống! Hãy vui lên!" Thật là một lời khuyên tốt.
Andrew Greeley từng tự hỏi có phải nguyên do chính đưa đến sự sút giảm ơn gọi chỉ vì các linh mục và tu sĩ nam nữ đã trở nên hay càu nhàu, quá lo lắng đến tương lai, tràn ngập công việc, luôn than phiền về mọi thứ, bực dọc về đời sống, hay than thân trách phận, và quá nghiêm nghị. Có ai muốn gia nhập một tổ chức như vậy?
Tôi nhớ rõ khi là một chủng sinh mới của trường North American vào tháng Mười 1972, tổng hồng y của Rôma là Đức Angelo Dell'Acqua cử hành Thánh Lễ khai giảng niên khóa mới tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô. Khi ngài nhìn đến hàng ngàn linh mục, nữ tu, và chủng sinh, ngài kết thúc bài giảng với lời nói, "Bây giờ tôi yêu cầu mỗi một người." Chúng tôi nghĩ đến những hy sinh lớn lao hoặc sự cổ vũ về việc nên thánh và học hành. Nhưng, ngài nói, "Khi anh chị em bước đi trên đường phố ở Rôma, hãy mỉm cười"- một yêu cầu, như bạn nhận thấy, chưa được thi hành.

Thánh Madeleine Sophie Barat nói, "Nếu thế giới thấy sự hạnh phúc của chúng ta, nhà thờ, dòng tu sẽ tràn ngập người chỉ vì họ ghen tị, và thời đại các Tu Phụ Sa Mạc sẽ sống lại khi người sống cô độc đông hơn người ở thành phố."


Phải. Niềm vui là điều thu hút người ta đến với Giáo Hội. Người Công Giáo không phải là người khắt khe đạo đức. Chesterton đã định nghĩa người khắt khe đạo đức là "người sống trong sự phập phồng lo sợ rằng sẽ có ai đó được vui sướng ở đâu đó!" Tôi nhớ có lần chuẩn bị hôn nhân cho đôi trẻ: cô ta người Công Giáo, anh ấy là Tin Lành. Lúc đầu anh ta tuyệt đối không thích thú gì với Giáo Hội, nhưng sau vài tháng, anh ta đến gặp tôi và nói rằng anh muốn biết thêm về Giáo Hội. "Tại sao?" tôi hỏi, nghĩ rằng có lẽ giáo huấn nào hay nghi thức nào đã ảnh hưởng đến anh.
"Sau khi đám hỏi, con biết gia đình cha mẹ của Duyên nhiều hơn, và, dường như lúc nào họ cũng vui thích với đời sống, họ thật hạnh phúc." Các gia đình Công Giáo tốt lành phải như vậy.
Có lần tôi đi du lịch nước Đức với cha sở sau khi ngài về hưu. Chúng tôi khởi sự từ miền bắc nước Đức và, vào ngày thứ ba, chúng tôi xuống miền nam, Bavaria. Bấy giờ, cả hai chúng tôi không mặc áo linh mục, và người hướng dẫn không biết chúng tôi là ai. Khi đến Bavaria, cô hướng dẫn nói, "Bây giờ quý vị sẽ nhận thấy sự thay đổi lớn lao. Trên miền bắc, dân chúng làm việc vất vả, có nhiều nhà máy, dân chúng trông ủ rũ, và đời sống có vẻ buồn tẻ. Dưới này, hãy nhìn các luống hoa, các căn nhà đầy mầu sắc, dân chúng tròn trịa, cười đùa, các trẻ em khắp nơi, thức ăn ngon lành, họ nhẩy múa, ca hát, và nhiều loại bia." Cô kết luận, "Miền bắc là Tin Lành, miền nam là Công Giáo."
Có nhớ câu thơ nổi tiếng của Chesterton không?
Bất cứ đâu có người Công Giáo ở đó có mặt trời mọc,

Có nhiều tiếng cười cùng với rượu ngon.

Thiên Chúa luôn ban cho dư đầy.

Chúc tụng Thiên Chúa đến muôn đời!


Bây giờ, hãy nhớ rằng khi tôi nói đến niềm vui, tôi muốn nói sự bình an nội tâm mà Thánh Phaolô cho rằng nó đã làm phát sinh hạnh phúc bên ngoài. Tôi không muốn nói đến loại vui cười khúc khích, giả dối, kỳ cục. Những người này làm bạn khó chịu và sâu bên trong họ thường không có bình an. Niềm vui khiến chúng ta thảnh thơi chứ không phải sự cẩu thả. Một cha xứ kể cho tôi nghe về cha phó, một người lúc nào cũng cười nhưng vô trách nhiệm. Một hôm sau khi cha xứ đã phải làm hai lễ buổi sáng, và sau đó là tang lễ mà cha phó đã nhận trách nhiệm, nhưng người không xuất hiện. Sau cùng khi đến nhà thờ, cha phó giải thích là vì quá vui thích với cảnh đồng quê nên người đã ngủ đêm ở đó để vui với cảnh thiên nhiên. Cha xứ bảo người nên về quê thì hơn vì cha không cần đến người nữa. Niềm vui đích thật thì thực tế, có trách nhiệm, khôn ngoan, sâu đậm, và hợp lý, chứ không phải loại vô nghĩa, rỗng tuếch, giống như con nít.
Thật ý nghĩa khi Giáo Hội hân hoan thì các chủ chăn, các cha xứ, các linh mục phải là những người đầy niềm vui, vì nếu không, điều chúng ta cho là "tin mừng" sẽ trở thành giả dối. Nếu linh mục được cho là phải vui vẻ thì chúng ta nên tìm hiểu làm thế nào để có được điều ấy.
Bởi thế, cho phép tôi hỏi, niềm vui này từ đâu đến? Nguồn gốc của niềm vui là gì? Dĩ nhiên, niềm vui xuất phát từ Thiên Chúa, Người đã vun trồng nó trong tâm hồn người có đức tin.
Do đó bạn biết rằng Thánh Phaolô đã coi niềm vui như một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần, một ơn sủng, một ơn đoàn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho. Tôi có thể kể ra một chuỗi các phương cách mà Thiên Chúa là nguồn vui, nhưng chúng ta hãy chú ý đến bốn điều thôi.
Thứ nhất, hãy tin rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Như Thánh Y Nhã nhận định trong các rèn luyện tâm linh, bước đầu tiên để lớn lên trong sự thánh thiện là nhận biết tình yêu của Chúa dành cho tôi, dù tôi hoàn toàn bất xứng, hoàn toàn không đáng. Cô giáo lớp hai của tôi dậy chúng tôi cầu nguyện mỗi ngày: "Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa! Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tin là Chúa yêu con!"
Khi viết chương này, tôi đang trong ngày thứ Ba của tuần thứ ba Phục Sinh, và trong kinh thần vụ hôm ấy Thánh Augustine nói về niềm vui Phục Sinh và nguồn gốc của nó: chúng ta không thể yêu trừ phi ai đó yêu thương chúng ta trước. Hãy lắng nghe Thánh Gioan Tông Đồ: "Chúng ta yêu Chúa là vì Người đã yêu chúng ta trước." Nguồn gốc tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa chỉ có thể tìm thấy trong sự kiện đó là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. "Tình yêu của Thiên Chúa tràn ngập tâm hồn chúng ta."
"Thánh Tâm Chúa Giêsu, con tin là Chúa yêu con!" Sự tin tưởng sâu đậm rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta không đưa đến điều gì khác hơn là niềm vui. Linh mục thì luôn luôn ý thức về tình yêu Thiên Chúa ban cho mình, và hăng hái thuyết phục người khác về sự kiện là Thiên Chúa cũng yêu thương họ. Từng giây phút trong đời sống đều thực sự tin vào tình yêu Thiên Chúa ban cho tràn ngập, chấp nhận tình yêu ấy, bày tỏ sự biết ơn, và đáp trả Thiên Chúa bằng tình yêu, dĩ nhiên, đó là bí quyết của niềm vui đích thật.
Nguồn vui thứ hai xuất phát từ sự tin tưởng vào tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa ban cho chúng ta, có thể nói đó là sự tin tưởng rằng Người thực sự ngự trong chúng ta qua ơn thánh hóa.
Sau khi làm linh mục được tám tháng, tôi gặp một dự tòng chưa từng thấy trong đời. Khi giáo xứ tổ chức tuần đại phúc, vào chiều tối thứ ba, một người trạc tuổi tôi đến gặp. Ông tự giới thiệu là giáo sư toán của đại học Hoa Thịnh Đốn gần đó, và ông muốn biết về đạo Công Giáo. Ròng rã trong sáu tháng, tôi phải vật lộn với ông về kiến thức, đi qua những giáo huấn, chiến đấu gian khổ hàng giờ trong những buổi tối. Sau cùng, khi hoàn tất mọi giảng dậy, trong lớp sau cùng, ông nói với tôi: "Cha biết không, có một điều trong giáo huấn Công Giáo mà tôi không thể nào chấp nhận được."
"Đó là điều gì?" tôi hỏi, nghĩ rằng đó sẽ là một trong những quy luật, như sự Hiện Diện Thật, bí tích hòa giải, vai trò của Đức Mẹ, hay giáo huấn về thẩm quyền của đức giáo hoàng.
Tôi thật ngạc nhiên khi ông nói, "Ngay từ lúc đầu, cha dậy tôi về điều được gọi là 'ơn thánh hóa'. Tôi tin đó là sự hiểu lầm, vì tôi thấy cha giải thích ơn thánh hóa là chính đời sống Thiên Chúa thực sự ngự trong linh hồn người có đức tin, và có thể nói chúng ta được chia sẻ trong sự sống của Thiên Chúa. Rõ ràng là sự hiểu lầm, bởi vì điều đó quá tốt đẹp đến độ tôi không dám nghĩ đó là sự thật."
"Ông hiểu rất đúng chứ không lầm đâu," tôi trả lời. Ông là người thực sự quý trọng ơn thánh hóa.
Nếu chúng ta không tin rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta cách say đắm nhưng còn thực sự ngự trong linh hồn chúng ta thì bạn cho tôi biết làm thế nào để có được niềm vui. Thiên Chúa không bao giờ dập tắt đời sống ấy; nhưng chúng ta có thể làm mất đời sống ấy khi xúc phạm đến Người cách nặng nề, và rồi ơn thánh hóa có thể được phục hồi qua việc cầu xin trong bí tích hoà giải. Vì vậy một việc xưng tội tốt đẹp sẽ đem đến niềm vui sâu đậm.
Đời sống siêu nhiên đó, được truyền đạt qua bí tích rửa tội, cũng giống như đời sống tự nhiên, phải được nuôi dưỡng và chăm sóc, và điều đó được thi hành qua sự cầu nguyện, luyện tập nhân đức, và các bí tích. Một trong những nguồn vui lớn lao là rước Mình Thánh Chúa hàng ngày một cách xứng đáng. Ngay thế kỷ thứ tư, Thánh Ephrem đã nhận thấy điều này khi người viết: "Trong bí tích Thánh Thể chúng con ôm ấp và đón nhận Ngài vào tâm hồn chúng con; kể từ khi lãnh nhận ơn rửa tội chúng con có được kho tàng của Ngài giấu kín trong chúng con; ơn ấy ngày càng phong phú hơn tại bàn tiệc bí tích của Ngài. Xin dậy chúng con biết tìm kiếm niềm vui trong ơn sủng của Ngài."
Đời sống Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta được thổi bùng lên thành ngọn lửa yêu mến qua sự cộng tác của chúng ta trong bí tích Thánh Thể vào mỗi buổi sáng, quả thật đó là một chúc lành cho chúng ta mà, nhờ ơn Chúa, nó sẽ là nguồn vui cho suốt cả ngày.
Như vậy, nguồn vui thứ hai là sự nhận thức với lòng khiêm tốn, biết ơn, bền bỉ, bàng hoàng về sự ngự trị của Ba Ngôi Thiên Chúa, ơn thánh hóa, sâu trong linh hồn chúng ta. Bạn cho tôi biết làm thế nào mà chúng ta có thể trở nên hèn hạ, thù hận, chán nản, nếu chúng ta thực sự tin rằng Thiên Chúa đang sống trong cốt lõi con người chúng ta? Như Viện Phụ Marmion đã viết, "Niềm vui là tiếng vọng của đời sống Thiên Chúa trong lòng chúng ta."
Nguồn vui thứ ba là sự tín thác, hy vọng nơi Thiên Chúa Quan Phòng. Nếu lòng tin của chúng ta vững vàng như Chúa Giêsu tin tưởng vào sự toàn năng của Thiên Chúa, Người đã chiến thắng tội lỗi, Satan, và sự chết, và như Thánh Phaolô dậy, "với những ai có đức tin, tất cả mọi sự đều hòa hợp," thì tại sao chúng ta lại buồn sầu, khổ não, và nản lòng làm mất đi niềm vui? Ngọn lửa ấy có thể mong manh, các cơn gió như muốn dập tắt, nhưng, nói cho cùng, tất cả đều trong bàn tay của Thiên Chúa, và tất cả sẽ chuyển vận theo chương trình của Người. Một sự tín thác đơn sơ, như con trẻ vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa sẽ đem đến một niềm vui, một sự bình thản mà không có sự lo buồn nào có thể làm tan biến được.
Đó là lý do chúng ta được hứng khởi bởi niềm vui rõ ràng nơi những người mà lẽ ra, theo quan điểm người đời, họ phải tuyệt vọng. Hãy đợi cho đến khi bạn bị đánh động bởi niềm vui nội tâm mà bạn khám phá ra nơi người nghèo và người bệnh tật. Tôi nghĩ rằng vì họ không còn trông nhờ vào đâu, nên họ hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng. Bạn sẽ đem Mình Thánh cho những người bệnh mà giữa cơn đau đớn, họ vẫn bình thản và vui. Bạn sẽ đi thăm những người nghèo mà họ không biết có còn bữa ăn sắp tới hay không, nhưng họ vẫn vui. Và rồi bạn sẽ tiếp xúc với những người giầu sang, thế lực, quyền bính, lành mạnh nhưng nham hiểm, nhỏ mọn, hung dữ và không hạnh phúc.
Trở lại với giáo xứ ở St. Louis, có một nhóm y sĩ mà cứ đến mùa hè họ cùng đi chơi Haiti hai tuần. Tôi nhớ có một bác sĩ trong giáo xứ cũng thuộc nhóm ấy. Ông đã đi và khi trở về, ông thật rạng rỡ. Khi tôi hỏi điều gì đã gây ấn tượng mạnh nhất, ông trả lời, "Niềm vui của dân chúng! Chúng tôi đến những nơi trong điều kiện tệ hại nhất chưa từng thấy: nhà tranh vách đất, gia đình chen chúc nhau, trẻ con bệnh tật, tuy vậy họ hạnh phúc! Họ chào đón chúng tôi và chia sẻ với chúng tôi những gì ít ỏi mà họ có. Trong khi ở đây, tại nhà," ông kết luận, "chúng tôi có quá nhiều và dường như lại quá buồn." Niềm vui ấy phải có nguồn gốc trong sự tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, vì họ không còn ai khác để trông cậy.
Nguồn vui sau cùng là sự cầu nguyện. Từ vựng của sự tín thác vào Thiên Chúa Quan Phòng, dĩ nhiên, là sự cầu nguyện. Hãy nhớ lại câu Kinh Thánh mở đầu: "Hãy giãi bầy mọi nhu cầu của anh chị em lên Thiên Chúa trong mọi hình thức cầu khẩn, van xin và tạ ơn."

Cầu nguyện là một nguồn vui trong hai phương cách chính yếu. Thứ nhất, như đã đề cập ở trên, niềm vui là một đức tính, một ơn đoàn sủng, một quà tặng của Thiên Chúa, vì vậy, nếu chúng ta không có niềm vui, hay nếu chúng ta ao ước có thêm, hãy nài xin qua sự cầu nguyện.


Thứ hai, tin tưởng rằng chúng ta có thể chạy đến với Thiên Chúa để được thương xót, giúp đỡ, và dẫn dắt là một niềm vui lớn lao, có phải không? Đó là chúng ta có thể trao cho Chúa những lo âu, bồn chồn để Người lấy đi các lý do trầm trọng làm mất đi niềm vui. Chúng ta làm gì được với hàng ngàn lý do chính đáng và tự nhiên khiến chúng ta buồn phiền, ủ rũ và không hạnh phúc? Chúng ta giao phó cho Chúa trong sự cầu nguyện, để Chúa lo lắng, và rồi, chúng ta có thể vui. Có lẽ đây là điều mà Anh Charles de Foucauld đã nghĩ đến khi viết: "Lậy Thiên Chúa, Ngài thật thiện hảo dường bao khi cho phép chúng con gọi Ngài là 'Cha của chúng con'. Điều này phải gợi lên trong chúng con sự biết ơn, niềm vui, tình yêu, và nhất là, sự tín thác biết chừng nào. Và vì Ngài là Cha và là Chúa của chúng con, thật tuyệt diệu là chừng nào khi chúng con luôn luôn trông cậy nơi Ngài."
Như tôi đã nói, tôi có thể khai triển các nguồn vui, nhưng tốt hơn tôi nên đề cập đến những điều có thể phá hoại niềm vui của chúng ta. Như bạn biết, có nhiều sự đe dọa cho niềm vui phát tiết từ các linh mục của Chúa Kitô, và tôi sẽ cố kể ra một vài điều.

Một nguy hiểm thực sự cho niềm vui là than thân trách phận. Các linh mục ngày nay có thể chìm ngập trong than trách, nhất là với các khủng hoảng chung quanh chúng ta. Vào năm 1996, với sự tài trợ của Lily Foundation, tổ chức The National Catholic Education cho công bố một nghiên cứu thú vị được gọi là "Grace Under Pressure, What Gives Life to American Priests" (Ơn Sủng Dưới Áp Lực, Điều Gì Đem Lại Sức Sống cho Linh Mục Hoa Kỳ). Nghiên cứu ấy cho thấy, quả thật, các linh mục có thể cảm thấy bị vây hãm bởi các đòi hỏi từ ở trên, bởi các giám mục và guồng máy quan liêu địa phận; từ bên dưới với sự trông đợi quá đáng và nhiều chỉ trích của giáo dân; từ xã hội nói chung; và ngay cả trong hàng ngũ, khi số linh mục ngày càng hao mòn. Là linh mục, người ta có thể cảm thấy thương hại chính mình, trở nên chồng chất gánh nặng, tự hỏi tại sao lại đi tu để làm gì, tự coi mình như tử đạo, bị coi thường, phải làm việc đến chết, không được biết ơn. Đó là than thân trách phận!


Dĩ nhiên, điều đó thật khó đưa đến niềm vui. Đó là khi chúng ta gắt gỏng, bơ phờ và chồng chất gánh nặng. Thật tội nghiệp cho tôi! Dĩ nhiên, vấn đề là cái tôi đã trở thành đích điểm. Tôi trở thành tâm điểm cho mọi suy tư và nguồn lực thay vì Chúa Giêsu và dân Người. Hãy đặt Chúa Giêsu trên hết, sau đó là người khác, rồi mới đến mình, và tại đó là niềm vui. Than thân trách phận, dĩ nhiên, đảo ngược điều đó và đưa cái tôi lên trên hết.
Cám dỗ thứ hai đối với niềm vui thì rất phổ thông nơi các linh mục đó là lo lắng. Chúa biết có rất nhiều lo lắng trong chức linh mục, bởi vì có nhiều linh hồn đang hư mất. Ngay cả các vấn đề bình thường như tài chánh và cá nhân cũng đủ làm một linh mục thánh thiện phải âu lo. Các lo lắng có thể ám ảnh chúng ta và khiến chúng ta hướng về mình, làm mất đi niềm vui trong đời sống chúng ta.
Tôi nhớ có một bà nói với tôi là bà coi sự lo lắng như một tội. Vì chưa bao giờ nghe thấy điều đó, tôi yêu cầu bà giải thích. Bà nói, "Con nghĩ khi lo lắng quá đáng con phạm tội đối với đức tin. Chúa Giêsu nói với chúng ta là đừng lo lắng, đừng quá bồn chồn, vì Cha trên trời biết chúng ta cần gì và sẽ lo cho chúng ta. Khi con lo, con không còn tin vào lời hứa của Người." Thật là một phụ nữ khôn ngoan! Lo lắng là một tội đối với đức tin, và có thể tiêu diệt niềm vui. Bởi thế bạn có thấy các linh mục hành động như thể họ đang gánh vác cả nhân loại trên vai họ không. Họ không thể nghỉ ngơi, họ không thể thoải mái, họ không thể đi tĩnh tâm, vì quá nhiều điều cần phải thi hành, và dĩ nhiên, tất cả đều trông nhờ vào tôi!
Tôi nhớ có lần Đức Hồng Y Bernardin kể lại câu chuyện lần đầu tiên sau khi nhận chức ngài bước vào văn phòng tổng giám mục của Chicago. Có một đống hồ sơ ở trên bàn chưa bao giờ đụng tới, kể từ khi vị tiền nhiệm, Đức Hồng Y Cody, qua đời. Hồ sơ có ghi "Mật: các vấn đề phải giải quyết ngay." Và rồi, như ĐHY Bernardin nhận xét, "Các hồ sơ khẩn cấp đó đã sáu tháng chưa được mở ra và giáo phận Chicago vẫn sống một cách tốt đẹp." Tôi có một cha sở ít khi đi nghỉ hè. Nếu ngài đi xa một tuần lễ, ngài thường trở về rất sớm và cuống cuồng hỏi xem mọi sự có tốt đẹp khi ngài đi vắng không, và hầu như ngài giận dữ khi thấy mọi sự tốt đẹp hơn bình thường. Phải, nghĩa trang đầy những người tin rằng thế giới này sẽ không thể tiếp tục nếu không có họ. Đặc biệt là các linh mục có thể bực dọc và lo lắng nghĩ rằng mọi sự đều tuỳ thuộc vào mình, hầu hết là vì họ muốn như thế và cần được nắm quyền kiểm soát. Nhưng kiểu lo lắng đó thường hao tổn đến niềm vui!
Tôi biết có những điều chúng ta phải nghĩ đến, như tài chánh, ơn gọi, vấn đề ở nhà- chúng ta có thể tìm thấy hàng chục lý do để lo. Và như Chúa Giêsu đã nói, lo lắng không kéo dài đời sống chúng ta thêm một phân. Và khi chúng ta quá lo lắng, người khác sẽ trở nên một phiền toái, bực mình và thật khó cho chúng ta tỏa ra niềm vui.
Một đe dọa thứ ba đối với niềm vui rất phổ thông nơi các linh mục là sự lầm lạc cho rằng hạnh phúc tùy thuộc những gì bên ngoài chúng ta.
Vì vậy, chúng ta mất vui khi thấy không được bài sai theo ý muốn; chúng ta trở nên ủ rũ nếu cha sở từ chối một chương trình đặc biệt hay một yêu cầu riêng biệt; chúng ta buồn nản khi các bài giảng của chúng ta không khơi dậy giáo dân và không được khen thưởng…
Niềm vui thì không lệ thuộc vào tiếng khen, sự thăng chức, việc đề bạt, được công nhận, có danh tiếng, uy thế, hay quyền lực. Niềm vui không thể nào đến từ bên ngoài—nó chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa, là người vun trồng nó tận đáy tâm hồn. Nếu niềm vui của chúng ta tùy thuộc vào sự thành công, việc công nhận, hay nghề nghiệp, nó được trồng trên cát và sẽ không bao giờ tồn tại.
Thực sự, là linh mục, niềm vui của chúng ta phải không dính dáng gì đến nơi được bài sai, việc thi hành, hay bất cứ phần thưởng gì hay sự nhận biết gì bên ngoài mà chúng ta có. Nó chỉ tùy thuộc vào bản chất đích thực của chúng ta, chứ không phải những gì chúng ta làm hay sở hữu. Chúng ta là người yêu dấu của Chúa Cha, được đồng hình dạng với Con của Người, được nuôi dưỡng với ơn sủng Người, được dấu ấn với lời hứa của Người -mọi thứ khác đều không quan trọng. Nếu chúng ta mong đợi bất cứ gì hay bất cứ ai bên ngoài Thiên Chúa để có niềm vui, chúng ta đã tự đưa mình đến chỗ thất bại. Người buồn nhất trong chức linh mục là người khao khát địa vị, muốn được tôn vinh và thăng chức nhưng không bao giờ được như vậy, hoặc những người có được các điều ấy và rồi nhận ra rằng họ vẫn thiếu niềm vui. Ô, phải, những điều đó có thể đem đến hoan lạc, nhưng hoan lạc không phải là niềm vui! Như C.S. Lewis có nói: "Trong quyền thế thì không bao giờ có niềm vui, nhưng chỉ có hoan lạc. Tôi không tin rằng ai đã từng nếm thử niềm vui lại muốn đánh đổi nó với mọi hoan lạc trên trần gian này, nếu họ có thể làm như vậy."
Một nguy hiểm thứ tư đối với niềm vui--thật không may lại phổ thông nơi các linh mục- là sự phàn nàn. Các linh mục thực sự có thể trở nên con nít khi kêu ca phàn nàn. Sau một cuộc họp với các linh mục, có lần tôi nghe Đức Tổng Giám Mục John May nói: "Một số người than phiền về thực đơn của bữa Tiệc Ly." Bạn sẽ mau chóng thấy rằng có hai loại linh mục, những người chăm chỉ làm việc, cố gắng hết sức, không sợ thất bại, và có những người ngồi đó và phàn nàn, chỉ vẽ nên làm thế này thế nọ. Nói cách khác, sẽ có những người cật lực trong đấu trường và những người ngồi bên lề chỉ trích. Tôi cầu mong bạn thuộc những người ở nhóm thứ nhất.
Nếu bạn thuộc nhóm thứ nhất, hãy chuẩn bị nghe những chê bai và phàn nàn nhỏ nhen của nhóm thứ hai. Như bạn có thể nghe biết, sự ghen tị giáo sĩ có khi trở nên bệnh dịch giữa các linh mục, với những linh mục bấp bênh, ít hăng say, ít niềm vui thì bị đe dọa bởi những người tự tin, chăm chỉ và vui vẻ hơn. Các linh mục, trong toàn thể dân Chúa, phải cho thấy niềm vui. Hãy suy nghĩ về điều đó: tự trong cốt lõi con người, chúng ta được đồng hình dạng một cách mật thiết với Thượng Tế Đời Đời. Mắt Người long lanh khi gọi đích danh chúng ta để mời gọi chúng ta hành động nhân danh Người vì thương yêu Hiền Thê của Người, là Giáo Hội. Người không chỉ tràn ngập linh hồn chúng ta với ơn thánh hóa như mọi người khác khi rửa tội, Người còn tăng cường với ơn sủng của bí tích chức thánh, khắc sâu trên căn tính chúng ta một dấu ấn không thể tẩy xóa được khi làm cho chúng ta trở nên một linh mục của Người. Ngoài căn tính chúng ta, các tư tế được chọn của Người, hãy nhìn vào những gì chúng ta thi hành: đó là công việc cao quý nhất! Hàng ngày chúng ta làm phép lạ biến đổi bánh và rượu trở thành mình và máu Chúa, tha thứ các tội lỗi nhân danh Người, và giới thiệu Người cho nhân loại. Thừa tác vụ của chúng ta truyền dẫn vào nhiều người một sự kính sợ và tôn trọng mà phải thú nhận là chúng ta không xứng đáng, tuy nhiên họ chia sẻ với chúng ta những vấn đề thầm kín nhất và muốn được gần chúng ta khi có khó khăn. Không lạ gì khi Lacordaire phải kêu lên, "Lậy Chúa, thật là một cuộc đời!" Không lạ gì khi Thánh Maximilian Kolbe đã có thể trả lời viên sĩ quan Đức Quốc Xã với sự bình thản lạ lùng, "Tôi là một linh mục Công Giáo." Không lạ gì dân Chúa lại mong đợi chúng ta là người của niềm vui.
Các linh mục, đặc biệt là linh mục triều, phải là "người của dân". Chúng ta được phấn chấn bởi giáo dân, chúng ta thấy hình ảnh của Thiên Chúa ở trong họ, chúng ta vui khi bầu bạn với họ, và họ bị thu hút đến chúng ta vì niềm vui, sự bình thản của chúng ta. Do đó, như tôi đã nói ở trên, một linh mục hay gắt gỏng là một mâu thuẫn. Tuy nhiên, đã nhiều lần chúng ta nghe dân chúng nói về các linh mục, "Ôi, tôi sợ làm phiền ông ấy lắm!" "Ôi, lúc nào ông ấy cũng bận." "Ông ấy chỉ dành thời giờ cho người giầu." "Ông ấy đi ngang qua mặt tôi mà không chào một tiếng." "Ông ấy bạc như vôi."
Một linh mục hay gắt gỏng, hèn hạ, không thiện cảm là một tiếng xấu, cũng như một linh mục nghiện rượu hoặc một người sàm sỡ với phụ nữ. Thật vậy, có khi còn tệ hơn, vì tối thiểu người say rượu hay người sàm sỡ còn nở được nụ cười! Bất kể các thống kê có nói gì đi nữa, bạn sẽ không gặp được nhiều giáo dân bỏ Giáo Hội vì phụ nữ không được làm linh mục; nhưng chắc chắn bạn sẽ gặp nhiều người lang thang vì các linh mục không có niềm vui.
Sự tận tụy với chức linh mục đã khiến chúng ta thành một thần tượng niềm vui. Tôi biết nó sẽ trở nên khuôn sáo, nhưng hãy xem những lời thề hứa của chúng ta thật "ngược dòng văn hóa" như thế nào:


  • Với một thế giới tin rằng bạn sẽ không thể hạnh phúc nếu không có liên hệ tình dục với bất cứ ai, bất cứ đâu, bất cứ khi nào bạn muốn- chúng ta lại thề hứa độc thân khiết tịnh!

  • Với một xã hội chủ trương rằng bạn chưa thành đạt nếu không có bằng cấp để thi hành điều gì, khi nào và ở bất cứ đâu bạn muốn- chúng ta lại thề hứa vâng phục một người suốt cả đời!

  • Với một nền văn hóa cho rằng đó là sự hoàn thành khi liên tục mua sắm, dành dụm, tích trữ -chúng ta lại cam kết một đời sống thanh bạch với khoảng một ngàn đô la một tháng!

  • Với một thế giới thực tế và vụ lợi, giá trị được đánh giá bằng phẩm vật- chúng ta lại thề dành thời giờ hàng ngày để cầu nguyện với và cho Giáo Hội!

  • Với một xã hội chủ trương trước hết phải nghĩ đến mình và đừng bao giờ bỏ qua sự tiện nghi và an nhàn-chúng ta lại hứa phục vụ người khác trong tình yêu hy sinh được hiệp nhất với Đấng bị đóng đinh!

Tuy vậy chúng ta thật vui! Bởi vì niềm vui không đến từ khoái lạc, bằng cấp, mua bán, sản phẩm hay sự ích kỷ, nhưng từ tình yêu tinh tuyền, tinh thần trách nhiệm, đời sống giản dị, sự cầu nguyện, và độ lượng phục vụ.


Mọi người trong đại chủng viện hãy tự hỏi mình: Chúa có gọi tôi làm linh mục hay không? Hoặc, nếu bạn đã là một linh mục: Chúa gọi tôi trở nên một linh mục tốt lành như thế nào? Niềm vui phải là một phần của sự phân định đó: Tôi có phải là một người ý thức rõ về tình yêu Thiên Chúa dành cho tôi, thành thật biết ơn vì Chúa sống trong tôi, tin tưởng vào sự trợ giúp của Người, và vì vậy luôn bình an với Chúa, với chính tôi, và với người khác, đến độ niềm vui của tôi được người ngoài nhận thấy? Nếu không như vậy, tốt hơn tôi đừng làm linh mục.
"Niềm vui là dấu chỉ không thể sai lầm về sự hiện diện của Thiên Chúa". Tôi kết thúc bằng bài "Nguyên Do của Niềm Vui"
Mẹ nhân từ của Đấng cứu chuộc chúng ta,

Ngôi Sao giữa biển khơi và Cửa các tầng trời,

Mẹ giúp đỡ những ai sa ngã-

Sa ngã nhưng vẫn cố đứng lên.

Cưu mang Đấng Cứu Thế, nhưng vẫn còn Trinh Khiết,

Ôi bởi niềm vui thánh thiện khi sứ thần truyền tin,

Xin thương đến chúng con là kẻ tội lỗi đang cúi đầu.


tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương