Nguoitinhuu. Com



tải về 2.2 Mb.
trang2/8
Chuyển đổi dữ liệu10.01.2018
Kích2.2 Mb.
#35967
1   2   3   4   5   6   7   8
MỤC LỤC
Chương 1. ĐỨC TIN

Chương 2. HY VỌNG

Chương 3. ĐỨC ÁI

Chương 4. KHIÊM TỐN

Chương 5. TRUNG TÍN

Chương 6. VÂNG PHỤC

Chương 7. LỊCH THIỆP

Chương 8. LIÊM CHÍNH

Chương 9. THẬN TRỌNG

Chương 10. SÁM HỐI

Chương 11. TRAU DỒI NHÂN CÁCH

Chương 12. NGƯỜI PHÂN PHỐI CỦA THẦN KHÍ

Chương 13. KIÊN NHẪN

Chương 14. SỐNG THANH BẠCH

Chương 15. NIỀM VUI

Chương 16. THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC

Chương 17. CĂN TÍNH LINH MỤC

Chương 18. BÍ TÍCH CÁO GIẢI

Chương 19. KINH THẦN VỤ

Chương 20. ĐỜI SỐNG LINH MỤC GIÁO XỨ

Chương 21. NHIỆT HUYẾT LINH MỤC

Chương 22. RAO GIẢNG

Chương 23. ĐỘC THÂN VÀ KHIẾT TỊNH

Chương 24. SÙNG KÍNH ĐỨC MẸ
Phần I: Sống Đời Kitô Hữu
Chương 1: ĐỨC TIN

(Đoạn trích Kinh Thánh Gioan 20:19-29)

Trong lần thứ ba được bài sai đi coi xứ, cha sở của tôi lúc ấy lại là đức giám mục phó của tổng giáo phận St. Louis, GM George J. Gottwald. Vào lúc ấy Đức Giám Mục Gottwald đã gần về hưu, đúng hơn là ngài đã quá mệt mỏi với gần 50 năm linh mục và hai mươi lăm năm giám mục. Ngài vẫn thích la cà ở bàn ăn của chúng tôi và nói về Công Đồng Vatican II, nhưng ngài rất ít đề cập đến giai đoạn khủng hoảng trong đời ngài, đó là thời gian chín tháng ngài làm giám quản tông tòa của tổng giáo phận sau khi Đức Hồng Y Joseph Ritter từ trần vào tháng Sáu, 1967.
Đó là những năm tiếp ngay sau thời tột đỉnh của công đồng với nhiều sáng tạo, sống động và những tiến triển đầy hứa hẹn trong Giáo Hội, được thúc giục bởi lời kêu gọi canh tân của công đồng: nhưng, thật không may, cũng có nhiều nghi ngờ, sai lầm, tổn thương, hoang mang và rõ ràng là ngờ nghệch. Giữa tất cả những điều ấy, Đức Giám Mục Gottwald, có thể nói ngài là một cha sở quê mùa chất phác và nhậm chức giám mục phó chỉ vì vâng lời, bị đẩy vào vai trò "lãnh đạn".
Một trong những khủng hoảng là chủng viện. Một phần tư linh mục thuộc ban giảng huấn từ bỏ chức linh mục, các chủng sinh mất đi một phần mười vì bỏ chủng viện, và môn thần học thì dạy đủ mọi thứ nhưng không đề cập đến Giáo Hội. Những linh mục còn trong ban giảng huấn thì tuyên bố rằng họ sẽ gia nhập nhóm thần học đại kết, vì theo kiểu cách họ giải thích công đồng, họ cho rằng thật vô ích khi giảng dạy thần học Công Giáo,vì có lẽ nó không còn hiện hữu nữa.
Vào đầu xuân năm 1968, họ yêu cầu sự có mặt của vị giám quản tông tòa tại một cuộc được gọi là "biểu tình nơi sân trường" để trình cho ngài một danh sách các yêu cầu, trước sự hiện diện của các đặc phái viên đài truyền hình.
Giữa bầy sư tử, Đức Giám Mục George Gottwald bước vào một cách lo sợ, bồn chồn, ước chi ngài vẫn chỉ là một cha sở vô danh tiểu tốt của vùng đồi núi Ozark ở phía nam tiểu bang Missouri. Người cầm đầu ban giảng huấn và các chủng sinh ấy cho đức giám mục biết là Chủng Viện Kenrich rất có thể phải đóng cửa, vì toàn bộ việc đào tạo linh mục cũng như thần học Công Giáo đều vô giá trị. Đức giám mục nhận định rằng, giữa những hồ nghi và thăm dò của công đồng, vẫn còn các chân lý hiển nhiên, bền bỉ cần được giảng dạy cho các linh mục tương lai.
Người cầm đầu cười khảy, "A! Con thách cha có thể nói cho con biết điều gì có thể dạy cho chủng sinh ngay bây giờ mà không thay đổi hay sẽ bị thay đổi, điều gì có thể khẳng định với một chút tin tưởng! Con thách cha nói cho con biết."
Đức giám mục ho khan khi mọi con mắt đều đổ dồn về ngài, khi mọi máy thu âm và thu hình đều hướng về ngài, khi họ chờ đợi ngài trả lời sự thách thức ấy. Và câu trả lời của ngài là gì?
"Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất. Tôi tin kính Đức Chúa Giêsu là Con Một Đức Chúa Cha cùng là Chúa chúng tôi; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh: chịu nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đinh trên cây Thánh giá, chịu chết và táng xác; xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại; lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống phán xét kẻ sống và kẻ chết. Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Tôi tin có Hội thánh hằng có ở khắp thế này, các thánh thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen."
Kinh Tin Kính! Một tuyên xưng đức tin căn bản được Giáo Hội bầy tỏ ngay từ thuở ban đầu. Thưa các bạn, đây là một con người của đức tin: giữa những hồ nghi, nhạo cười và hoang mang, ngài dám khẳng định rằng chắc chắn có những chân lý để chúng ta hy vọng vì các chân lý ấy xuất phát từ Thiên Chúa chứ không phải từ chúng ta!
Đức tin. Một người quản lý thận trọng lượng giá những quà tặng, những báu vật, những điều mà ông đang có trong tay, với nhận thức rằng ông cần phải tiếp tục tìm về điều đó. Chúng ta là các quản lý, và có quà tặng nào trong kho lẫm nội tâm chúng ta quý giá hơn đức tin? Có lẽ chúng ta phải tích lũy chứ?
Thư gửi tín hữu Do Thái viết, "Đức tin là đảm bảo những ân huệ mà chúng ta hy vọng, là bằng chứng của sự hiện hữu của các thực thể mà hiện chưa được thấy." Phải, bất kể những mẫu thuẫn, những vu vơ và chỉ trích đầy dẫy chung quanh chúng ta, đức tin giúp chúng ta kiên trì bám víu lấy những điều chắc chắn: Thiên Chúa hiện hữu! Ngài yêu thương chúng ta! Ngài đã mặc khải các chân lý cho chúng ta! Ngài đã sai Con một để trở nên "đường, sự thật và sự sống" (Gioan 14:6)! Con Ngài đã cứu chuộc chúng ta bằng cái chết và sự phục sinh, và hiện vẫn sống, vẫn hùng mạnh ở với chúng ta! Tâm hồn chúng ta vững vàng trong đức tin này! Firmum est cor meum.
Đức tin chúng ta đảm bảo rằng những tuyên bố trên là sự thật, không dựa trên chứng cớ bệnh hoạn, lạnh nhạt, nhưng trên đức tin đơn sơ như trẻ thơ, một cách khiêm tốn vào Cha trên trời, Người không bao giờ lừa dối chúng ta!
Đức tin, dĩ nhiên có đối tượng của nó chứ không chỉ là những tuyên bố hay tín điều, nhưng là một con người, đó là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta tin Người, và do đó tin ở những gì mà Người và Giáo Hội dạy bảo.
Nhiều người có các anh chị em của mình với con nhỏ. Nếu giống tôi, bạn sẽ rất thích thú khi thấy các cháu của mình và thấy đức tin của chúng nơi cha mẹ. Không dựa trên lý trí nhưng rất tự nhiên, không gò bó, như một phần của con người... Các em biết rằng:
- khi chúng khóc, mẹ chúng sẽ đến;

- khi chúng sợ, mẹ sẽ ẵm bế;

- khi chúng đói, mẹ sẽ cho ăn;

- khi chúng cô đơn, chúng chạy đến mẹ.


Đức tin... và đó là đức tin của chúng ta nơi Thiên Chúa. Charles de Foucauld nhận ra điều này khi người viết, "Vào giây phút tôi nhận thức được sự hiện hữu của Thiên Chúa, tôi không thể làm gì khác hơn là sống cho một mình Người... Đức tin lột bỏ mặt nạ của thế gian và cho thấy Thiên Chúa ở trong mọi sự. Đức tin có thể làm được mọi sự và làm cho các danh từ trở nên vô nghĩa, tỉ như lo lắng, sợ hãi, và nguy hiểm, nhờ đó người tín hữu đi qua cuộc đời một cách bình thản, với niềm vui sâu đậm như đứa bé nắm tay mẹ nó."

Sẽ bi thảm là chừng nào nếu chúng ta coi thường đức tin, một khía cạnh nguyên thủy của đời sống chúng ta! Một tinh thần quản lý chểnh mảng! Một trong những lý do khiến các linh mục sẩy chân và vấp ngã, hoặc tại sao họ co quắp lại thành những người độc thân cẩu thả, gắt gỏng, không lo lắng và lười biếng, thì không dính dáng gì đến ơn gọi nhưng tất cả chỉ vì đức tin! Như Đức Giám Mục Sheen có nói, "Sự khủng hoảng trong linh mục không phải vì vấn đề căn tính nhưng vì đức tin!"


Một linh mục mà khi còn nhỏ tôi rất khâm phục đã từ bỏ chức linh mục vào lúc tôi đến làm việc tại đại chủng viện. Tôi rất bối rối. Anh gửi cho tôi một lá thư mà thỉnh thoảng tôi vẫn đọc lại, trong đó anh nói, "Phải, con đã mất ơn gọi linh mục, nhưng, con phải thú nhận, con đã mất đức tin nhiều năm trước đó. Và không có gì khốn khổ cho bằng một linh mục mà không có đức tin!" Thật quá đúng.
Như Thánh Phaolô viết cho Timôtê: "Nhưng, là một người tận hiến cho Thiên Chúa... anh phải cố trở nên... tràn đầy đức tin... " (1 Tim 6:11-12). "Với đức tin và đức mến nơi Đức Kitô Giêsu, anh hãy gìn giữ những lời lành mạnh tôi dạy bảo như mẫu mực. Anh đã được giao phó để theo đuổi một điều gì quý báu; hãy bảo toàn nó với sự trợ giúp của Thánh Thần ngự trong chúng ta!" (2 Tim. 1:13-14).
Các anh em thân mến, điều này rất liên hệ đến sự đào tạo, đến ơn gọi của chúng ta, đến tất cả mọi lý do tại sao chúng ta ở đây, bởi vì dân chúng nhìn đến chúng ta như những người có đức tin!
Có câu chuyện nói về Đức Mahatma Gandhi: Từ một nơi hẻo lánh trong nước Ấn, một người mẹ có con thơ đã phải trải qua cuộc hành trình lâu mười một tiếng đồng hồ để gặp Đức Gandhi và xin người giúp đỡ cho đứa con trai ba tuổi của bà, nó ngang bướng, lúc nào cũng náo động, không chịu ngủ, luôn luôn phá phách.
Đức Gandhi trả lời, "Nói cho tôi biết đủ mọi thứ về nó. Cho tôi biết nó nói gì, mặc gì, ăn gì, chơi đùa như thế nào, mơ thấy gì, chơi với ai." Người mẹ kể lại tất cả. Sau giây phút im lặng, Đức Gandhi nói, "Tôi biết điều khó khăn đó, nhưng một tháng nữa tôi mới cho bà biết. Hãy trở lại đây."
Đúng một tháng sau, người mẹ này lại vất vả trải qua cuộc hành trình mười một tiếng đồng hồ đến gặp Đức Gandhi, bà hỏi, "Con trai của tôi có gì sái quấy?" Vị thánh sống này trả lời, "Nó ăn quá nhiều đường. Đừng để nó ăn đường nữa thì nó sẽ yên."
Người phụ nữ, phần nào khuây khỏa vì tìm ra nguyên do, phần nào khó chịu và nói, "Nếu câu trả lời quá đơn giản như vậy, sao tôi phải cực nhọc đến đây một lần nữa? Sao ông không cho tôi biết từ tháng trước?"
Đức Gandhi trả lời: "Tôi không thể cho bà biết vào lúc ấy, chỉ vì tôi cũng đang ăn đường."
Tôi nghĩ đây là một hình thức của câu chúng ta thường nói nemo dat quod non habet ("không ai có thể cho cái mà họ không có")! Đức Gandhi biết rằng, trước tiên ông phải thi hành những gì mà ông sẽ khuyên bảo người khác.
Chúng ta tốn nhiều thì giờ khi là linh mục ở tòa giảng, toà giải tội, phòng tiếp khách, lớp học, giường bệnh, nhà quàn để nói với dân chúng rằng, "Hãy có đức tin!" Nhưng, chúng ta có đức tin không? Chúng ta có phải là người có đức tin chưa?

Phải, dân chúng nhìn đến chúng ta như những người có đức tin, dù rằng đức tin của họ thường sâu đậm hơn chúng ta. Thật xấu hổ khi các linh mục yếu đức tin, bởi cách họ sống, điều họ nói, điều họ làm hay không làm. Ngày nay, dân chúng phải đối diện với biết bao linh mục là những người nhạo cười đức tin, công khai chỉ trích huấn quyền và bỏ qua những chân lý của Giáo Hội.


Tôi nhớ có lần cử hành Thánh Lễ đêm Giáng Sinh tại giáo xứ nơi bố mẹ tôi sinh sống chỉ để nghe vị linh mục trong bài giảng nói với dân chúng rằng, Phúc Âm mà họ vừa nghe, tất cả chỉ là hoang đường, được giàn dựng, có lẽ chẳng bao giờ xảy ra cả. Bạn có thể tin nổi không? Tôi nhớ có lần trong lớp giáo lý tân tòng, một người yêu cầu vị linh mục giảng dạy giải thích thêm về sự hiện diện thực của Chúa Giêsu trong hình bánh, thì vị linh mục này lại nói rằng học thuyết này không bền vững, đang bị đặt lại vấn đề và được tái công thức hóa bởi các thần học gia sáng giá nhất ngày nay.
Như cha linh hướng của tôi là Đức Ông John Tracy Ellis thường nói, "Không, Giáo Hội không có mọi câu trả lời, nhưng chắc chắn Giáo Hội có nhiều hơn bất cứ tổ chức nào trên trái đất!" Và, vì Chúa, các linh mục của Giáo Hội không phải trung thành và yêu mến Giáo Hội hay sao?
Tại cực điểm của niên lịch phụng vụ, Đêm Phục Sinh, Giáo Hội yêu cầu mọi người nghĩ lại câu hỏi: Chúng ta có phải là một dân có đức tin hay không? Qua từng phần của Kinh Tin Kính, Giáo Hội hỏi, Bạn có tin không? Tôi coi đó là một phần thiết yếu của việc chăm sóc tâm linh mà chúng ta không ngừng tự hỏi mình khi kiểm điểm lương tâm chúng ta về đức tin.
Chúng ta có tin Thiên Chúa không? Tôi hy vọng là có! Nhưng, chúng ta có tin nơi Thiên Chúa, Đấng mật thiết can dự vào cuộc đời chúng ta, Đấng từng mặc khải chính mình cũng như các chân lý về Người và phương cách mà Người muốn chúng ta sống hay không? Chúng ta có tin Người đã mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, Người thực sự đã sinh ra, đã sống, đã chịu đau khổ, đã chết, đã sống lại, đã lên trời, và đã ban Thần Khí Người xuống hay không?
Chúng ta có tin Thiên Chúa là Đấng đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh và giống Người, và Đấng đã tiền định cho chúng ta sự vĩnh cửu, một vĩnh cửu với Người hoặc không có Người? Chúng ta có tin Đấng đã thở hơi vào chúng ta một linh hồn bất tử, và đem cho chúng ta căn tính cũng như được làm người, và có thể chia sẻ sự sống của Thiên Chúa được ban cho chúng ta trong ơn huệ không sao sánh được, gọi là ơn thánh hóa không?
Chúng ta có tin Thiên Chúa hằng sống và quyền năng trong lời chúng ta cầu nguyện cũng như trong Giáo Hội được phát sinh từ cạnh sườn của Con của Người, mà Người tiếp tục hoạt động trong bảy bí tích, thực sự hữu hiệu và chu toàn những gì bí tích ấy biểu thị; đó là bí tích rửa tội mà qua đó chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và đền thờ của Chúa Thánh Thần; đó là bí tích Thánh Thể mà nhờ đó chúng ta thực sự được lãnh nhận Chúa chúng ta, chính mình, máu, linh hồn, và thiên tính của Người; đó là bí tích hòa giải mà nhờ đó tội lỗi chúng ta được tha thứ?
Chúng ta có tin là Người tiếp tục dạy dỗ chúng ta trong Kinh Thánh và Truyền Thống của Giáo Hội, được cẩn thận duy trì bởi các vị thừa kế các tông đồ, các giám mục, nhất là đấng kế vị Thánh Phêrô không?
Tôi có tin là Thiên Chúa ấp ủ tôi cách riêng và đã gọi tôi ngay từ khi tôi được thụ thai trong lòng mẹ, và Người đã có một kế hoạch cho tôi, Người đã gọi tôi đi theo Con của Người, là Đấng Cứu Độ và là Chúa của tôi không? Tôi có tin là Người biết tôi rõ hơn chính tôi, Người luôn yêu tôi, và đang mời gọi tôi phục vụ Người và Giáo Hội như một linh mục trung tín không?
Chúng ta có tin rằng chức linh mục là một cam kết không thể hủy bỏ, tuyệt đối, cố định đối với Chúa Kitô và Giáo Hội mà thiên chức ấy giúp tôi hành xử như Đức Kitô, là đầu, là chủ chiên, và là hôn phu của Giáo Hội Người hay không?
Hãy công nhận tầm quan trọng nòng cốt của câu hỏi này: Tôi có thật sự tin không? Nhất là trong thời đại của sự do dự, hoài nghi, yếm thế mà nó chủ trương rằng chỉ những gì có thể chứng minh bằng công thức toán học hay khảo sát bằng kính hiển vi thì mới là sự thật... trong một thời đại mà nó chủ trương rằng đức tin chỉ là sự lập dị kỳ quái của những ai hèn yếu, bất an, hoặc tệ hơn nữa chỉ là đồ giả tạo mê tín dị đoan nhằm đưa con người vào sự nô lệ, tôi thực sự có đức tin không?
Chúng ta là những người có đức tin mạnh mẽ hoặc chúng ta chẳng là gì cả! Vì không có gì đáng thương hơn là một linh mục không có đức tin và nhiều người như vậy. Với đức tin chúng ta cầu khẩn, sống tình anh em, thăng tiến tâm linh! Với đức tin chúng ta hăng hái sống đức hạnh, hợp đạo lý theo sự thúc giục của ơn sủng! Với đức tin chúng ta hăng say và độ lượng với dân chúng! Với đức tin, mọi sự đều có ý nghĩa: chúng ta có bình an và niềm vui. Như Thánh Augustine đã nói, "Chỉ khi nào đức tin chúng ta còn thao thức thì sẽ có bình an và thanh thản trong tâm hồn Kitô Hữu. Khi đức tin chúng ta ngủ quên, chúng ta sẽ trong tình trạng nguy hiểm!"
Không có đức tin, không có ý nghĩa, không có động lực, không có lý do. Chúng ta sẽ trở nên lạnh nhạt, lười biếng, yếm thế và hay gắt gỏng. Các bí tích thì rỗng tuếch - vì chúng ta không còn tin nữa; bài giảng thì chán chường - vì chúng ta không tin điều chúng ta nói; và chúng ta tuyệt vọng tìm kiếm ý nghĩa trong chai rượu, nơi các chú giúp lễ, nơi các phụ nữ, nơi các câu lạc bộ thể thao, hay chơi "stocks", chơi xe, đi du lịch, hay thăng quan tiến chức, hoặc thể hiện tham vọng ...
Không có đức tin, chúng ta tự đưa mình đến vực thẳm. Vì một ngày nào đó, sớm hay muộn, các khủng hoảng sẽ xảy đến. Có thể là vì một bài sai không đúng ý, mệt mỏi vì hàng ngày phải đương đầu với sự dữ và đau khổ, chán nản vì chính sự yếu đuối của mình; có thể là vì tiếng sét ái tình, cô đơn, bệnh hoạn, hay hồ nghi. Sự khủng hoảng sẽ đến, có lẽ dưới hình thức các câu hỏi thật ray rứt: Tại sao tôi làm việc này? Tại sao tôi vẫn làm như vậy? Chức linh mục có giá trị thật không? Có Chúa không? Giáo Hội có phải do Chúa lập nên không? Tôi có khờ không? Nếu không có đức tin, tất cả những khủng hoảng ấy chắc chắn sẽ đến với chúng ta!
Tôi rất thích đoạn văn mà Thomas Merton, có lẽ cũng trong giây phút thử thách nhưng còn bám víu lấy đức tin của mình, đã viết như sau:
Lạy Chúa, con không biết con đang đi đâu. Con không thấy con đường trước mặt. Con không biết nó chấm dứt ở đâu. Con cũng không thực sự biết chính con, và quả thật ngay khi nghĩ rằng con đang theo thánh ý Chúa thì không có nghĩa là con thực sự làm điều đó. Nhưng con tin rằng cái khao khát muốn làm vui lòng Chúa thì quả thật đã vui lòng Chúa rồi. Và con hy vọng luôn có sự khao khát ấy trong mọi việc con làm. Con hy vọng là không bao giờ con làm bất cứ gì ngoài sự khao khát ấy. Và con biết rằng khi con làm điều này Chúa sẽ dẫn dắt con theo đúng đường dù có thể con không biết gì về con đường ấy. Do đó, con luôn luôn tín thác vào Chúa dù dường như con đang lạc trong bóng tối sự chết. Con sẽ không sợ, vì Chúa luôn ở với con, và Chúa không bao giờ để con một mình đương đầu với hiểm họa.
Làm thế nào để chúng ta gia tăng và bảo vệ đức tin?
1. Tôi hy vọng là việc theo đuổi kiến thức thần học sẽ gia tăng đức tin của chúng ta. Fides quaerens intellectum ("Đức tin tìm kiếm sự hiểu biết"), như Thánh Anselm đã định nghĩa. Chúng ta sợ một đức tin nhạt nhẽo, cũ rích, ngây ngô và có tính cách phòng thủ; chúng ta thèm khát một đức tin mạnh mẽ, sống động, chắc chắn và như trẻ thơ. Do đó, chúng ta không sợ để tìm tòi, thắc mắc, đặt vấn đề, đào xới. Như Đức Giáo Hoàng Lêo XIII đã nói, "La Chiesa non ha paura della verità" ("Giáo Hội không sợ sự thật"). Đó là lý do tại sao các bạn là những người "trong thần học" để củng cố đức tin của mình!
Và từ sự nghiên cứu mãnh liệt này, việc tìm kiếm tới mức và đầy suy tư, việc lắng nghe và trầm ngâm, sẽ phát sinh một đức tin mà chúng ta quá quen thuộc đến độ có thể phát biểu một cách độc đáo, đầy tin tưởng, nhưng giản dị như thơ văn. Vào ngày đầu tiên tôi đến dạy học trường nhà xứ, cha sở nói, "Bây giờ chúng tôi mới có thể thấy cha đã thực sự học hỏi được gì về thần học khi cha sửa soạn dạy lớp một." Ngài thật đúng là dường nào!
2. Sự cầu nguyện gia tăng đức tin của chúng ta, vì, tự cốt lõi, đức tin là món quà mà chúng ta phải xin. Trong Phúc Âm có rất nhiều câu thật đẹp: "Lạy Chúa, con tin! Xin giúp cho sự yếu đuối đức tin của con!", "Lạy Chúa, xin hãy gia tăng đức tin của con!" là những câu không thể bỏ qua được.
Tôi nhớ có lần khuyên bảo một giáo sư toán của Đại Học Washington ở St. Louis. Ông kết hôn với một thiếu nữ Công Giáo và thành thật muốn gia nhập Giáo Hội. Chưa có ai chịu khó tìm kiếm đức tin như ông! Ông không bao giờ quên một mệnh lệnh nào, ông ngấu nghiến từng bài giáo lý tôi đưa, ông đặt những câu hỏi hóc búa, ông đọc cả cuốn Summa (Tổng Luận Thần Học)! Nhưng, vẫn không có đức tin. Ông hỏi một cách đau khổ, "Thưa cha, con có thể làm gì hơn?". Và rồi tôi sực nhớ rằng cả hai chúng tôi đều coi đức tin như thể một môn học, một kỷ luật, một kiến thức có thể tiêu hóa được. Dĩ nhiên, không phải như vậy - đó là món quà của Thiên Chúa. Do đó, tôi nói, "Ông có cầu xin Chúa ban cho ông đức tin không?" "Thưa cha không." Và rồi ông đã xin. Tôi cũng xin. Ông đã rửa tội; con trai đầu lòng của ông cho tôi biết ông muốn làm linh mục. Hãy xin ơn đức tin!
Một cha linh hướng đã từ trần có lần khuyên tôi về một điều mà ngài gọi là "cầu nguyện có lớp lang", trong đó tôi sẽ đơn sơ nói với Chúa những gì tôi tin, những gì tôi trân quý, những gì tôi không thể sống mà không có, những gì giúp tôi vượt qua thử thách-là đức tin của tôi. Điều đó thật có ích cho tôi.
3. Hãy thận trọng về các dấu hiệu. Chúng ta muốn tìm kiếm các dấu hiệu, những xác nhận hoa hòe về đức tin của chúng ta. Bây giờ, truyền thống Công Giáo của chúng ta luôn luôn chủ trương rằng các điều ấy - những lần hiện ra, phép lạ, Khăn Liệm Turin, các lời sấm, năm dấu thánh-có thể gia tăng đức tin, nhưng không bao giờ thế cho đức tin. Và nếu tất cả những điều bề ngoài ấy xẹp xuống, thực sự như vậy, thì sao? Đức tin chúng ta không tùy thuộc vào điều đó, nhưng vào Người. Các điều ấy chỉ là gia vị, chứ không phải là cơm bánh.
4. Các khủng hoảng, sự đau khổ có thể thanh tẩy và kiên cường đức tin của chúng ta. Tôi không biết có lúc nào đức tin của tôi mạnh mẽ hơn là khi tôi đọc lời cầu nguyện cho người chết trước thi hài còn ấm áp của cha tôi sau khi ông chết bất tử, với mẹ tôi đang thổn thức bên cạnh.
Đức tin thì dễ dàng vào ngày chịu chức linh mục, nhưng khó khăn khi lần đầu tiên bạn bị cha sở bốp chát vào mặt; đức tin thì đẹp khi bạn khỏe mạnh, nhưng thật khó khi bạn bị đau ốm. Chúng ta không cần đức tin khi đầy đủ, mãn nguyện, vừa ý, nhưng chúng ta cần đức tin khi chán nản, lo âu, bồn chồn, bận rộn! Sự thoải mái, dễ dàng, an toàn đôi khi có thể bóp nghẹt đức tin. Như chúng ta nghe trong thư của Thánh Giacôbê: "Hỡi anh em, hãy coi đó là niềm vui khi anh em gặp nhiều thử thách, vì anh em biết rằng sự thử thách đức tin sẽ giúp anh em thêm vững mạnh" (Giacôbê 1:2-3).
5. Chúng ta cần tình đồng đội, sự hỗ trợ, và sự khuyến khích của những người mà họ duy trì đức tin của chúng ta. Đó không phải là lý do căn bản của một chủng viện hay sao?
North American College, chúng tôi cầu nguyện với nhau và cho nhau, chúng tôi cố đạt được cùng một mục đích, chúng tôi bàn thảo về đức tin, và hy vọng chúng tôi sẽ là một gương mẫu tốt lành cho nhau. Ở đây chúng tôi có các vị cố vấn và các cha linh hướng là những người thách đố và khảo sát chúng tôi. Tôi nhớ một trong những chủng sinh năm thứ nhất có nói với tôi sau ba tuần sống tại đây, "Thưa cha, thật tốt để ở với những người cùng chia sẻ đức tin với con, ở đây con không sợ hay ngượng ngùng khi nói về Chúa Giêsu, hay Đức Maria, hay cầu nguyện, hay chiêm niệm, hay lo âu." Cám ơn Chúa, ở đây chúng tôi có tình đoàn kết trong các nhóm cầu nguyện, tỉ như nhóm Gesù Caritas, tận hiến cho Mẹ Maria, hợp nhất trong tinh thần tông đồ, và học hỏi.
Khi chúng ta rời chủng viện, chúng ta cần có bạn hữu và anh em linh mục là những người sẽ tiếp tục hỗ trợ đức tin của chúng ta. Và điều khó tin là, chính những người mà chúng ta cố gắng kiên cường đức tin của họ thì lại là người hỗ trợ đức tin của chúng ta: những bệnh nhân cần rước lễ; những người đơn sơ tham dự Thánh Lễ hàng ngày; các gia đình Công Giáo đơn sơ, đứng đắn.
Còn điều gì thiết yếu hơn đức tin?
Mới đây, tôi đến dự cuộc họp ở Venerable English College. Trong nguyện đường có tấm chân dung của các chủng sinh ở thế kỷ mười sáu được gửi đến nước Anh để hoạt động mục vụ mà chắc chắn họ sẽ tử vì đạo. Hàng trăm người được gửi từ Rôma sang nước Anh là nơi Giáo Hội đang bị bách hại. Nhiều người bị bắt ngay khi xuống tầu. Họ bị cảnh cáo, bị đe dọa, bị gửi về lại Âu Châu... nhưng rồi họ lại xuất hiện ngay trong chuyến tầu kế tiếp. Hàng chục, hàng trăm người bị rắc rối, bị cầm tù, bị tra tấn, bị chết vì đạo một cách tàn nhẫn... và những câu chuyện này thay vì làm nhụt chí thì lại nung nấu sự hăng say của các anh em linh mục ở đây. Họ tiếp tục đi sang. Như một người trong các vị ấy đã viết: "Đức tin là sự sẵn sàng để chết vì Đức Kitô, vì các mệnh lệnh của Người, với sự tin tưởng rằng chết như thế là được sống; sự nghèo nàn trở nên giầu sang, sự đáng khinh và tầm thường trở nên vinh dự đích thực, và, khi trắng tay bạn lại có mọi sự. Nhưng, trên tất cả, đức tin là đạt được kho báu vô hình vì được biết Đức Kitô."
Khi ở hầm mộ tại Campo Verano nhân ngày lễ Các Linh Hồn, tôi đọc được một tấm bia tưởng niệm Joe Toomey, là người chỉ sau tôi có một lớp khi còn ở đại chủng viện của tổng giáo phận Nữu Ước. Khi nhớ đến anh, tôi nhớ đến bức thư anh gửi cho chúng tôi. Tôi vui sướng khi tìm được bức thư này.
Anh Charlie và các bạn ở NAC thân mến,
Hai tuần vừa qua thật quá nhiều thử thách. Trong khi tôi nằm bệnh viện, các bác sĩ luôn nói với tôi rằng là họ cố gắng hết sức để thành công. Mọi hậu quả khủng khiếp của chất thuốc lại trở lại và tôi chiến đấu với tất cả can đảm và hy vọng. Tôi tin chắc rằng hóa chất sẽ tiêu diệt bệnh ung thư còn sót lại.
Năm ngày sau khi tôi được xuất viện. Tôi chụp hình phổi và choáng váng khi thấy kết quả. Thật đau lòng, bệnh tình của tôi chỉ thuyên giảm có chút đỉnh. Ông bác sĩ rất buồn khi nói với tôi rằng tôi sẽ phải trở lại cách chữa trị ghê tởm ấy trong một thời gian vô hạn định.
Điều này khiến tôi buồn tê tái trong nhiều ngày. Nhưng Thiên Chúa sẽ không để tôi đắm mình trong sự tuyệt vọng vô nghĩa. Ngài luôn nhắc nhở tôi phải tìm sức mạnh nơi các bí tích. Lời cầu nguyện của các bạn đã đem cho tôi sức mạnh tâm lý và tâm linh cần thiết để đối diện với một tương lai có lẽ rất đau đớn về thể xác.
Tối nay, tôi đã khóc khi nghĩ đến các bạn, khi khao khát được trở về trường. Có lẽ Thiên Chúa cho phép tôi chịu đau khổ bây giờ để kiên cường tâm linh của các bạn và những người mà tôi đã gặp. Đây là một mục đích thật vui, một thúc đẩy của tình yêu đích thực.
Làm ơn tiếp tục viết thư cho tôi; hy vọng tôi sẽ gặp lại các bạn vào mùa thu tới.
Đức Hồng Y Cooke đã phong chức phó tế cho anh Joe ngay trên giường bệnh, và anh đã từ trần bảy tuần sau khi viết lá thư ấy.
Điều gì có thể giải thích lá thư ấy nếu không phải là đức tin? Điều gì có thể giải thích cho những điều chúng ta hy vọng khi sống đời linh mục nếu không phải là đức tin?
Chúng ta hãy đọc Kinh Đức Tin:
Lạy Chúa, con tin thật có một Thiên Chúa trong Ba Ngôi, Ngôi Cha, Ngôi Con, và Thánh Thần. Con tin rằng Con Chúa đã xuống thế làm người, và chịu chết vì tội lỗi chúng con và Người sẽ đến để phán xét kẻ sống cũng như kẻ chết. Con tin những điều ấy và tất cả những chân lý mà Giáo Hội Công Giáo dậy vì Chúa đã mạc khải cho họ, là những người không lừa dối và cũng không bị dối gạt.


Chương 2
HY VỌNG
(Đoạn Kinh Thánh - Máccô 4:35-41)
Một vài năm trước đây ở Đại Chủng Viện Kenrick-Glennon nơi quê tôi, St. Louis, có một chủng sinh tên là Michael Esswein. Nếu chương trình truyền hình "60 Minutes" muốn phúc trình về "người chủng sinh gương mẫu," có lẽ chúng tôi sẽ đồng loạt chỉ về anh Michael: thánh thiện, thông minh, đẹp trai, hoạt bát, ân cần, được bạn bè kính nể, một cầu thủ bóng đá tài giỏi, xứng đáng là "người của năm."
Anh Michael xuất thân từ một đại gia đình. Người chị lớn của anh là một nữ tu, và, trong dịp nghỉ mùa xuân, thứ Sáu đầu tiên của tháng Ba, năm 1993, anh Michael cùng gia đình lái xe "van" từ St. Louis xuống Connecticut để thăm người chị này. Khi đến Youngstown, Ohio, thời tiết thật xấu và đường đông đá ở xa lộ xuyên bang; chiếc xe bị trượt bánh, lao xuống mương và lật ngửa.
Anh Michael bất tỉnh nằm kẹt trong xe ở tư thế lộn ngược ở hàng ghế sau khoảng năm mươi phút, trước khi đoàn cứu cấp đến nơi. Hiển nhiên là anh bị thương nặng, và được đưa đến bệnh viện gần đó để giải phẫu. Sau tám giờ cố gắng giải phẫu, các y sĩ cho biết là anh sống sót nhưng xương sống của anh không thể chữa được, và suốt cả đời anh sẽ bị bại liệt từ cổ trở xuống.
Khi tỉnh dậy, câu hỏi đầu tiên của anh là, "Cả gia đình có sao không?" Sau đó, khi nhìn thấy sự lo sợ trên khuôn mặt của người thân yêu đứng chung quanh, và cảm thấy sự bất động của cơ thể, anh biết một điều gì trầm trọng đã xảy ra, anh hỏi, "Liệu tôi có thể làm linh mục được hay không?" Đó là con người của anh Michael Esswein.
Vào tối Chúa Nhật ngay sau khi xảy ra tai nạn, giáo xứ đã tổ chức cầu nguyện để xin chữa lành cho anh. Hôm ấy, giáo xứ St. Stephen đầy chật người, và cha sở đã hướng dẫn buổi cầu nguyện cho anh Michael thật cảm động, đặc biệt phó thác anh cho Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, vì gia đình anh đặc biệt sùng kính Thánh Tâm, chị của anh là một nữ tu dòng Cor Jesu (Thánh Tâm Chúa Giêsu), và cũng vì tai nạn xảy ra vào thứ Sáu đầu tháng. Chưa bao giờ tôi tham dự một buổi cầu nguyện thành khẩn đến thế. Sau cùng, với một giọng nói đầy lạc quan, cha sở công bố, "Khi anh Michael trở về, chúng ta sẽ tụ họp lại để tạ ơn Chúa."
Sau mười tuần nằm bệnh viện, sau hai lần giải phẫu và điều trị quyết liệt, quả thật anh Michael đã trở về, và dĩ nhiên những người thân quen cũng tụ tập để tạ ơn Chúa. Nhưng sự buồn thảm và bi quan như chụp xuống đám đông khi anh Michael được đẩy trên chiếc xe lăn vào nhà thờ, và chỉ có đầu anh là có thể cử động được, và cũng chỉ cái đầu ấy chào hỏi giáo đoàn. Sau khi anh được đẩy lên cung thánh bằng thang dốc đặc biệt mới thiết kế, nghi thức bắt đầu, và khi đến phần đọc Sách Thánh, chính anh Michael công bố Phúc Âm Máccô 4:35-41. Khi kết thúc, chúng tôi chăm chú lắng nghe anh chia sẻ: "Mọi người đến đây là để cảm tạ Thiên Chúa, nhưng khi tôi được đẩy lên cung thánh, tất cả mọi người đều nghĩ, 'Tạ ơn gì? Người thanh niên này bị liệt cả tứ chi, suốt cả cuộc đời. Tương lai sáng lạn tiêu tan. Thật không thể coi đó là câu trả lời cho sự cầu nguyện của chúng ta!'"
Sự im lặng nặng nề trong một thánh đường đầy chật người. Sau đó anh Michael nói tiếp: "Tôi phải thú nhận cùng các bạn là trong mười tuần qua, nhiều lần tôi cũng nghĩ như vậy. Nói cách khác, trong đoạn Phúc Âm, như các tông đồ ở giữa cơn phong ba, chúng ta cũng nghĩ rằng Chúa đang ngủ và cũng không thể làm gì hơn. Nhưng thưa các bạn, hãy hy vọng", tiếng anh Michael gào lên, "hy vọng là một quà tặng giúp chúng ta tiến bước khi tưởng rằng Chúa Giêsu đang ngủ, và chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa vì món quà hy vọng vĩ đại đó!"
Đó là bài giảng thật xúc động về sự hy vọng mà tôi chưa bao giờ được nghe. Tôi ngồi cạnh cha chưởng ấn của tổng giáo phận và ngài nói thầm vào tai tôi, "Hãy phong chức cho anh ta ngày mai."
"Hy vọng là một quà tặng giúp chúng ta tiến bước khi tưởng rằng Chúa Giêsu đang ngủ..."
"Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng" (TV 62).
Tôi xin các bạn hãy cùng tôi suy niệm về sự hy vọng, đức cậy. Trong chương trước, tôi nói về đức tin. Dĩ nhiên, nhờ đức tin mà chúng ta tin có Chúa; đức cậy là sự tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giữ lời hứa! Đức Hồng Y Suenens viết: "Tôi là một người hy vọng, không vì những lý do con người, cũng không vì sự lạc quan tự nhiên đúng đắn, nhưng vì tôi tin rằng Thiên Chúa đang hoạt động trong đời tôi, trong Giáo Hội, trong thế giới, ngay cả khi danh thánh Người không được biết đến."
Đức cậy thúc giục chúng ta trông cậy rằng Thiên Chúa, là Đấng chúng ta tin tưởng, sẽ luôn luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta, và Người luôn giữ lời hứa, không phải là đảm bảo chúng ta luôn được hạnh phúc, được an nhàn, được thoải mái, được tuyệt hảo, nhưng hứa yêu thương, chăm sóc, thương xót và ban cho chúng ta sự sống.
Tôi nói với các bạn về đức cậy vì nhiều lý do: Phải, mỗi một con người, nhất là Kitô Hữu, cần có đức cậy. Có những lúc mọi sự dường như tối tăm, lạnh lẽo, nản lòng, và chẳng thấy mùa xuân đâu, những lần ấy chúng ta cần phải giảng giải về đức cậy.
Nhưng, quan trọng hơn cả, đức cậy, một sự hy vọng sâu xa, không thay đổi, điềm tĩnh, thản nhiên nhưng đầy trông cậy, thì thật hiển nhiên cho một linh mục! Dân chúng muốn chúng ta đem cho họ sự hy vọng, và rồi, một lần nữa "Nemo dat quod non habet" ("Chúng ta không thể cho những gì chúng ta không có")! Một trong những điều mà các linh mục thường nghe từ giáo dân là: "Thưa cha, xin cha cầu nguyện cho con!" Điều đó có nghĩa, "Thưa cha, con cần sự hy vọng; không hiểu là con có thể vượt qua được hay không."
Chức linh mục của chúng ta sẽ khó có thể tồn tại và khó đầy sinh lực cũng như đem lại sức sống nếu chúng ta không có đức cậy; và chắc chắn rằng chúng ta không thể phục vụ người dân nếu chúng ta không thể đem cho họ sự hy vọng mà họ khao khát.
Emil Brunner viết, "Dưỡng khí cần cho phổi thế nào thì đức cậy cũng cần cho ý nghĩa của đời sống như vậy."
Bây giờ, trở về căn bản. Làm thế nào để chúng ta có được đức cậy? Trước hết, chúng ta không thể đạt được nhờ tài sức của chúng ta. Chúng ta không thể có được... mà chúng ta được ban cho! Đức cậy là một nhân đức được Chúa ban cho chúng ta khi rửa tội, được bổ sức bởi các bí tích khác, được nuôi dưỡng và được bảo vệ qua đời sống nội tâm mạnh mẽ phát sinh từ đức tin sống động, và được kiên cường trong sự bền chí hàng ngày vượt qua những khổ cực và khốn khó của cuộc đời. Đúng vậy, đức cậy siêu nhiên có thể được trợ giúp qua các thói quen tự nhiên như tâm trạng vui vẻ, một cá tính lạc quan, yêu đời, có cái nhìn lạc quan về đời sống, và giữa những thử thách vẫn thực tế thú nhận là "mọi sự rồi cũng sẽ qua."
Điều căn bản là chúng ta phải nuôi dưỡng một đời sống tâm linh mạnh mẽ. Có lẽ bạn từng nghe về sự nghịch lý của cơn bão, giữa những phong ba, hủy hoại, và sức mạnh của cơn bão, là "tâm bão," một nơi êm ả, yên lặng như tờ. Đời sống nội tâm của chúng ta cũng vậy: giữa cơn bão táp của những bất ngờ, thất bại, khủng hoảng, thảm kịch, hay chỉ là sự nhàm chán hàng ngày trùm lấp chúng ta, là một chỗ bình an, êm đềm và thanh thản, là nơi Chúa ngự, mà từ đó chúng ta có niềm hy vọng. Sự cầu nguyện hàng ngày, Thánh Lễ, lòng đạo đức, linh hướng, kinh nhật tụng, và các bí tích-sự điều dưỡng này cốt để nuôi "tâm bão" bên trong mà từ đó chúng ta có được niềm hy vọng để đi qua cuộc sống.
Bạn có thể thấy điều đó, tỉ như, nơi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Những ai trong các bạn được vinh dự tham dự Thánh Lễ riêng của ngài thì thật xúc động khi thấy ngài chìm đắm trong sự cầu nguyện trước khi, trong khi, và sau khi dâng lễ. Những ai tìm kiếm lý do cho một sức mạnh vô biên, xác quyết và sự hy vọng của ngài thì không cần tìm đâu xa.
Tôi nhận thấy điều này nơi anh Tom Mucha, một chủng sinh đang điều trị bệnh ung thư máu, khi tôi nói chuyện điện thoại với anh một vài năm trước đây. Giữa những đau đớn cùng cực, với cơ hội sống sót mong manh, anh cho thấy một sự bình thản nội tâm, một ý nghĩa của đức cậy, mà điều đó chỉ phát sinh từ một đời sống nội tâm mạnh mẽ được tôi luyện bằng sự thử thách gắt gao của đau khổ.
Bạn thấy điều đó được chứng tỏ nơi đời sống các thánh, như Thánh Maximilian Kolbe, là người, khi chịu đau khổ cùng với chín tù nhân khác đang bị chết dần mòn vì đói khát trong xà lim, thì ngài vẫn chứng tỏ một sự điềm tĩnh, một sự bình an, một đức cậy mà đức tính ấy đã phấn khích các bạn đồng tù trong khi các lính canh điên tiết vì thất bại.
Điều này lệ thuộc ở đời sống nội tâm, mà từ đó "tâm bão" được phát xuất từ đức tin mà chúng ta đã đề cập đến trước đây, chúng ta tin như con trẻ rằng mọi sự đều trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, mọi sự đều có thể đối với Người, và dù rằng thánh ý Người bị nhiều người coi thường nhưng vương quốc của Người không ai có thể ngăn cản được, và sau cùng mọi sự sẽ có ý nghĩa vì, như Thánh Phalô viết, "với những ai có đức tin thì mọi sự đều ăn khớp với nhau."
Những người Duy Phúc Âm (Fundamentalist) có thể dạy chúng ta một vài điều về vấn đề này. Lướt qua các đài truyền hình hay phát thanh hôm Chúa Nhật, chắc chắn bạn sẽ nghe một vài mục sư lớn tiếng nói rằng, "Sự chiến thắng đã giành được! Cuộc chiến đã chấm dứt! Chỉ còn một số giao tranh nhỏ mà chúng ta phải đụng độ, nhưng đó chỉ là những tàn lực của kẻ thù! Alleluia."
Những gì họ nói là điều Thánh Bernard đã nói: "Nếu Đức Kitô ở với chúng ta, ai có thể chống nổi chúng ta? Nếu bạn tin là sẽ thắng thì bạn sẽ chiến đấu với sự tin tưởng. Với Đức Kitô và cho Đức Kitô, chắc chắn sẽ chiến thắng."
"Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng" (TV 62).
Tôi rất thích câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII mà Đức Ông Loris Capovilla kể lại, ngài là thư ký riêng của đức giáo hoàng. Hàng đêm, khoảng nửa khuya, trước khi đi ngủ, Đức Giáo Hoàng quỳ trước Thánh Thể. Ngài duyệt qua tất cả những khó khăn đã gặp trong ngày: một đức giám mục đến nói với ngài về việc các linh mục bị thảm sát và các nữ tu bị hãm hiếp ở Congo; một vị lãnh đạo quốc gia nói với ngài về cuộc chiến ở trong nước và xin ngài giúp đỡ; những người bệnh tật đến xin ngài chúc lành; những người tị nạn viết thư xin giúp đỡ; các cuộc bách hại mới xảy ra bên kia bức Màn Sắt. Khi ngài duyệt qua các khó khăn, kiểm điểm lại lương tâm xem ngài đã đáp ứng thế nào, và sau cùng, ngài hít một hơi thật dài và nói, "Lạy Chúa, con đã làm tất cả những gì con có thể... Đây là Giáo Hội của Chúa! Con đi ngủ. Tạm biệt Chúa."
Đó là một con người hy vọng! Thánh Gioan Vianney nói: "Khi bị cám dỗ mất đức cậy, tôi chỉ còn một cách duy nhất: phủ phục dưới chân nhà tạm như một con chó nhỏ dưới chân ông chủ."
"Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng" (TV 62).
Tôi xin đưa ra đây một vài nhận xét thực tế về đức cậy, hy vọng có thể giúp ích cho sự đào luyện linh mục.
1. Đức cậy có thể là một cố gắng đặc biệt cho các linh mục vì thường chúng ta không thấy được các kết quả nhãn tiền, ngay lập tức của công việc chúng ta làm. Một bác sĩ có thể thấy bệnh nhân mình lành bệnh, ngay cả người thợ ống nước cũng có thể thấy là nước không còn rò rỉ, nhưng ít khi chúng ta thấy các kết quả ngay lập tức, hiển nhiên của công việc một linh mục.
Có ai biết bài giảng của chúng ta có ảnh hưởng như thế nào?
Có ai biết lời khuyên nhủ của chúng ta trong toà giải tội có giúp ích gì không?
Có ai biết những đôi hôn nhân mà chúng ta giúp chuẩn bị có tốt đẹp không?
Có ai biết những em mà chúng ta giúp Rước Lễ Lần Đầu, bây giờ có còn giữ đức tin không?
Bây giờ, đừng vội cho là tôi sai, cuộc đời linh mục là một cuộc đời đem lại nhiều phần thưởng, nhiều niềm vui, nhiều thoả mãn nhất. Nhưng có nhiều khi chúng ta băn khoăn không biết những gì chúng ta thi hành có đem lại ý nghĩa gì không, hay có tốt đẹp không, vì công việc của chúng ta là trong sự cộng tác với ơn sủng của Thiên Chúa, mà ơn sủng ấy tác động một cách âm thầm, vô hình, nhẹ nhàng, từ từ, và ít khi tạo nên những kết quả rực rỡ, màu mè.
Vậy, bạn phải làm gì sau khi bỏ nhiều thì giờ bóp đầu bóp trán để soạn bài nói chuyện cho giáo dân mà chẳng ai xuất hiện?

Bạn phải làm gì khi ngồi hàng giờ trong tòa giải tội và không ai đến, mà chỉ có một vài ông bà lão quen thuộc từng giặt giũ khăn thánh nhà xứ?


Bạn phải làm gì khi bỏ nhiều thời giờ chuẩn bị cho cha mẹ các em rước lễ lần đầu, và tất cả những gì họ muốn thảo luận là không biết con gái có nên đội voan và con trai có nên khoác áo vét?
Bạn phải làm gì khi hăng hái chuẩn bị cho đôi nam nữ bước vào đời sống hôn nhân, trong khi điều họ lưu tâm là lối lên cung thánh có đủ dài cho bản nhạc?
Điều tôi muốn nói là nếu hạnh phúc của chúng ta khi làm linh mục, ý nghĩa chúng ta tìm thấy trong thừa tác vụ, được dựa trên việc nhìn thấy các kết quả hiển nhiên, ngay lập tức, thì chúng ta sẽ thất vọng khủng khiếp. Đó là khi đức cậy xuất hiện: chúng ta tin rằng trong một phương cách bí ẩn nào đó, Thiên Chúa sẽ hoạt động qua chúng ta, ngay cả khi chúng ta không thấy các hiệu quả.
Điều này đặc biệt đúng trong những năm đầu sau khi bạn chịu chức, khi bạn thật hăng say và lý tưởng, náo nức bắt đầu, và bỗng dưng phải đối diện với đời sống buồn tẻ của giáo xứ. Đó là khi bạn cần đến đức cậy, Thiên Chúa đang hoạt động cách mạnh mẽ trong chúng ta, qua chúng ta, bất kể con người chúng ta, ngay cả khi chúng ta không thể thấy được các kết quả.
Mùa Chay đầu tiên khi tôi ra giúp xứ, ông chủ tịch của Hội LMTT nói: "Thưa cha. Tối hôm ấy cha phải giúp chúng con hồi tưởng lại quá khứ khi bước vào mùa Chay." Lẽ ra tôi phải biết rằng vì ông này không hăng say lắm nên bãi đậu xe lúc nào cũng còn dư chỗ. Nhưng tôi dành thật nhiều giờ để chuẩn bị bài nói chuyện về các nhân vật trong các chặng Đàng Thánh Giá. Khi đến đêm quan trọng ấy, chỉ có hai ông xuất hiện! Dĩ nhiên tôi không cần đến "microphone". Chỉ có hai người! Thật não lòng. Tôi cũng không được an ủi gì nhiều khi trở về nhà xứ, gặp cha sở và ngài phán một câu, "ồ, phải chi tôi dặn cha là kiểu cách ấy không bao giờ hiệu quả."
Mười hai năm sau, tôi đến thăm một bà trong giáo xứ ấy bị bệnh Lou Gehrig (liệt tủy sống). Ông chồng thật dịu dàng, chăm sóc bà, không bao giờ rời bà. Khi ông tiễn tôi ra cửa, tôi bày tỏ sự thán phục về sự tận tụy của ông đối với bà. Ông nói, "Ô, thưa cha có gì đâu. Con chỉ cố gắng bắt chước ông Simon mà cha đã dạy." Tôi nhìn ông, bối rối. "Phải, cha có nhớ là đêm mùa Chay năm ấy khi cha nói với chúng con là cũng như ông Simon vác đỡ thánh giá Chúa thì chúng ta cũng phải như vậy khi giúp người khác vác thập giá. Con chỉ cố gắng giúp nhà con vác thập giá của bà ấy mà thôi."
Thật xứng với sự chờ đợi... và đức cậy giúp chúng ta chờ đợi.
Điều đó cũng đúng với việc đào luyện trong đại chủng viện, vì nó đòi hỏi một đức cậy đích thực để tin tưởng rằng mọi việc mà các chủng sinh đang thi hành sẽ thực sự giúp ích cho họ sau này khi làm linh mục. Các môn học, các buổi huấn luyện, sự trông đợi của thầy cô, thật dễ hiểu là lúc ấy họ có thể hỏi rằng, "Sao vậy? Điều này có ích gì cho tôi? Điều này giúp tôi trở nên một linh mục tốt lành như thế nào?" Nhưng, sự chờ đợi có giá trị, và đức cậy giúp chúng ta chờ đợi và kiên nhẫn tin tưởng rằng các hạt mầm được gieo bây giờ chắc chắc sẽ mang lại hoa quả sau này.
2. Trong những năm gần đây, một trong những hiểu biết sâu sắc về thừa tác vụ linh mục là chúng ta cần được xác nhận. Các linh mục cần sự xác nhận: từ anh em linh mục, từ giám mục, cha sở, giáo dân, gia đình và bạn hữu. Chắc chắn là chúng ta cần, và tạ ơn Chúa vì những phát triển trong đời sống Giáo Hội trong những năm gần đây đã đem lại sự xác nhận mà các linh mục cần. Tuy nhiên, và tôi không muốn bi thảm hóa, đừng trông mong vào điều đó! Khi điều đó xảy đến, tạ ơn Chúa, nhưng, hãy tin tôi đi, rất nhiều khi bạn không nghe những câu "cám ơn," không nghe ai khen "cha giảng hay quá," hoặc "giáo xứ này thật có phước khi cha về." Và nếu chúng ta lệ thuộc vào những xác nhận ấy, nếu chúng ta trông đợi vào sự ưa thích của quần chúng, tiếng hoan hô, và sự mãn nguyện bên ngoài, hãy coi chừng!
Tôi thường nghe từ các linh mục trẻ: "Cha sở của con không bao giờ nói rằng con làm việc được." "Khi con được nghe từ Đức giám mục là khi ngài gửi thư dặn xin tiền lần thứ hai."
Trong một giáo xứ mà tôi đi giúp, cha sở nhờ tôi khởi sự một chương trình giáo lý cho thiếu niên. Ngài khuyến cáo rằng đã nhiều người khởi sự và đã thất bại. Tôi thực sự lo lắng cho một chương trình mà cứ hai tối Chúa Nhật một lần với những đôi vợ chồng trẻ giúp tôi giảng dạy giáo lý, sau đó là ăn pizza hoặc chơi thể thao. Đêm khai mạc có đến năm mươi tám phần trăm giới trẻ hiện diện. Tôi trở về nhà xứ và hồ hởi phúc trình sự thành công cho cha sở, ngài đang xem truyền hình và chỉ nói rằng: "Cha có nhớ tắt đèn trong 'gym' và khóa cửa không?"
Thật sự là các cha sở, các giám mục phải xác nhận công việc chúng ta, nhưng thường thì không. Đức cậy, dĩ nhiên, dạy chúng ta rằng sự xác nhận đích thực, sự xác nhận mà chúng ta khao khát và thực sự trông nhờ vào, chỉ đến từ Thiên Chúa. Nếu đến từ người khác, alleluia! Đừng trông chờ vào đó hay để sự hăng say của bạn tiếp tục lệ thuộc vào đó!
"Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn, ơn cứu độ tôi bởi Người mà đến. Người là núi đá, là ơn cứu độ, là thành lũy chở che, tôi chẳng hề nao núng" (TV 62).
3. Chúng ta bị cám dỗ đặt hy vọng vào nhiều thứ, và chúng bắt đầu tiêu hủy chúng ta. Một số là những điều tốt: chúng ta đặt tin tưởng vào bạn hữu, vào các giám mục, vào Tòa Thánh, vào tiếng tốt của chúng ta, và sự thoả mãn khi thi hành công việc tốt đẹp. Nhưng bạn phải biết, ngày ấy sẽ đến khi ngay cả những đối tượng tốt lành, chính đáng để tin tưởng cũng sẽ bỏ rơi chúng ta; do đó nếu chúng ta đặt hết tin tưởng vào những điều chính đáng ấy, một ngày kia chúng ta sẽ thất vọng.
Có ai buồn hơn là một linh mục đặt hết tin tưởng vào hy vọng được thăng quan tiến chức trong giáo hội nhưng lại kết thúc bằng những cay đắng và phẫn uất?
Nếu bạn biết về cuộc đời Đức Tổng Giám Mục John Ireland, một trong những nhân vật nổi tiếng của lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ, bạn sẽ thấy ngài chấm dứt một sự nghiệp sáng chói trong tuyệt vọng chỉ vì "mũ đỏ" (chức hồng y) không bao giờ đến.
Ngay cả các bạn hữu chúng ta cũng sẽ bị thuyên chuyển, hay lạc hướng, hay bỏ rơi chúng ta... chúng ta yêu thương họ và cần đến họ, nhưng chúng ta không thể đặt hy vọng nơi họ.
Trong cuộc đời linh mục, chúng ta không thể hy vọng được lương cao, được Đức giám mục hậu đãi, được bài sai chỗ tốt, được đề bạt trong giáo hội, được mọi người hoan hô. Nếu có, chúng ta chấp nhận chúng với sự lãnh đạm, biết ơn theo kiểu của Thánh Y Nhã, nhưng chúng ta cũng có thể sống mà không có những thứ đó, vì "chúng ta không đặt hy vọng nơi các hoàng tử."
Tôi nói với các chủng sinh năm thứ nhất của North American College khi họ đến đây ngày đầu tiên, "Các bạn vừa từ bỏ gia đình, bạn hữu, sự an toàn, những dự đoán... Mọi sự đều thay đổi ngoại trừ một điều: đức tin của bạn và sự tương giao với Chúa Giêsu Kitô, Người không thay đổi dù hôm qua, hôm nay hay ngày mai! Và có lẽ việc học hỏi đích thực ở đây ngay tại Rôma, xa cách mọi thứ quen thuộc và xác thực, là để dạy chúng ta rằng Người, và chỉ có Người, là nguồn hy vọng đích thực của chúng ta; trông mong vào bất cứ gì hay bất cứ ai khác trong cuộc đời này sẽ dẫn đến sự tuyệt vọng."
"Đừng đặt tin tưởng vào quyền lực, hay hy vọng hão huyền vào địa vị. Đừng để tâm đến người giầu sang, ngay cả khi họ đang thịnh vượng" (TV 62).
4. Một đức tính quan trọng phát sinh từ đức cậy, và đó là sự bền chí. "Hãy trung thành... luôn luôn trung thành!" Tôi nhớ Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói với lớp chúng tôi trong buổi lễ truyền chức sáu, "Khi một người chấp nhận đời sống linh mục, sự chấp nhận đó là mãi mãi!" Để giữ được điều đó, không bị nhạt nhẽo, để tiếp tục chiến đấu can trường, để vẫn trung thành, để luôn bền chí, ngay cả khi hồ nghi, hoang mang, chán nản, tất cả là từ đức cậy.
"Xin Thiên Chúa là Đấng đã khởi sự công việc tốt lành nơi bạn, giờ đây sẽ hoàn tất điều ấy cách tuyệt hảo!" Giáo Hội đã cầu xin như thế trong ngày phong chức, và chúng ta hy vọng rằng lời cầu nguyện ấy được nhận lời hàng ngày trong đời sống linh mục chúng ta. Nguyên tắc cổ điển là Thiên Chúa không bao giờ đòi hỏi chúng ta phải làm việc gì đó mà không ban những ơn cần thiết để hoàn thành việc ấy. Điều đó đem lại hy vọng; điều đó khích động chúng ta kiên trì trong ơn gọi linh mục.
5. Đức cậy thì đặc biệt cần thiết trong lời nguyện của chúng ta. Sự kiên nhẫn, bền bỉ, kiên trì mà Thầy căn dặn chúng ta, những điều đó là nhờ ở sự cầu nguyện hiệu quả được phát sinh từ đức cậy. Lỗi lầm lớn nhất mà chúng ta có thể phạm khi chúng ta gặp khó khăn trong việc cầu nguyện là bỏ cuộc, mất đức cậy. Đừng từ chối rằng cũng có khi sự cầu nguyện thì chán chường, không hữu ích, nhạt nhẽo, nhiều chia trí, và khô khan. Đây là những khi cần đến đức cậy:


  • để tin rằng Chúa đang lắng nghe ngay khi không thấy sự trả lời;

  • để hy vọng Người ở đó khi dường như Người bỏ rơi chúng ta;

  • để tin tưởng rằng các nỗ lực của chúng ta khi cầu nguyện đang sinh hoa trái dù các dấu hiệu thành công không thấy ở đó;

  • để hy vọng rằng "phí thời giờ với Chúa"-như Merton định nghĩa sự cầu nguyện-thì thực sự có kết quả hơn là thi hành các công việc thực tiễn.

Hãy nhớ đến Thánh Gioan Thánh Giá. Ngài có thói quen ghi lại những gì xảy ra trong sự cầu nguyện hàng ngày. Trong một giai đoạn dài của cuộc đời, có lẽ giai đoạn "đêm tối của một linh hồn," ngài ghi nhận một chữ: nada. Không có gì cả! Điều gì xảy ra trong lời cầu nguyện của tôi hôm nay? Nada! Không chỉ một ngày, mà nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, nada! Nhưng ngài giữ hy vọng, tin tưởng rằng điều gì đó sẽ xảy ra. Và chúng ta, dĩ nhiên, biết "câu chuyện kết thúc thế nào," ngài được coi là một trong rất ít người thực sự đạt được tầm mức của sự cầu nguyện thần bí.



Đồng thời, đức cậy giúp chúng ta chiến đấu với tội lỗi. Tất cả những gì có khuynh hướng xấu, chúng ta chống trả: thiếu kiên nhẫn, ngồi lê đôi mách, lười biếng, không trong sạch, nóng nẩy, thiên kiến, lời nói nham hiểm, bất cứ gì chúng ta đạt được chút tiến bộ rồi lại thất bại, và có những lúc bị cám dỗ tuyệt vọng muốn từ bỏ hành trình tiến đến sự tuyệt hảo. Đừng bao giờ! Một cha giải tội khôn ngoan từng nói với tôi, "Sau cùng, điều đáng kể không phải là bao nhiêu lần chúng ta thành công hay thất bại, nhưng là chúng ta khởi sự thế nào sau khi thất bại." Điều đó cần đến đức cậy! Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen nhắc nhở chúng ta rằng trong đời sống tâm linh không có đồng bằng, mà chỉ có đồi núi và thung lũng, và chìa khóa để thăng tiến trong việc nên thánh là đừng mất hy vọng khi ở thung lũng.
6. Trong thư thứ nhất của Thánh Phêrô, chúng ta đọc, "Hãy luôn sẵn sàng để giải thích cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng nơi anh chị em" (1 Phêrô 3:15).
Bạn thấy không, một đức cậy sống động thì hay lây và sẽ thu hút người khác. Kết quả của nó là bình thản, hân hoan, điềm tĩnh, hóm hỉnh, không bị lo lâu và những đặc tính này rất lôi cuốn người khác. Như thế, dân chúng được thu hút đến Chúa Giêsu và Giáo Hội của Người qua các linh mục đầy hy vọng. Nhưng đó không phải là loại lạc quan tếu, nông cạn, hồ hởi bên ngoài. Đó là một sự tín thác có thật, kiên quyết nơi Thiên Chúa dựa trên một đức tin sâu đậm, phát sinh từ cảm nghiệm, và được hỗ trợ bởi lý lẽ.
Đó là lý do mà Giáo Hội mong đợi bạn hiểu biết sâu xa về thần học, để bạn có thể, như Thánh Phêrô đã nói, "giải thích lý do cho niềm hy vọng của bạn."
Không vì thế mà chúng ta "phải biết tất cả." Dân chúng không mong đợi câu trả lời của chúng ta, mà chỉ muốn một đảm bảo là thực sự có câu trả lời, một lý lẽ mà ngày nào đó, một chỗ nào đó câu trả lời ấy sẽ tỏ hiện, ngay cả bây giờ còn giấu kín. Điều đó đem cho họ niềm hy vọng.
Tôi nhớ có lần tham dự tang lễ của một em bé mới một tuổi chết bất thình lình vì cảm cúm thường, em là con của hai người rất tích cực hoạt động và họ phải vất vả trên sáu năm thì mới mang thai em. Nhà thờ đầy chật người, các cha mẹ đều mủi lòng. Cha sở cũng xúc động đến độ phải mất một thời gian lâu sau Phúc Âm thì ngài mới giảng được, và sau cùng ngài nói, "Nếu tất cả quý ông bà anh chị em nghĩ rằng tôi sẽ giải thích lý do tại sao em từ trần, thì quý ông bà sẽ thất vọng. Thực sự tôi cũng không hiểu tại sao em chết. Ngay cả với niềm trông cậy nơi Thiên Chúa, điều đó dường như không có ý nghĩa lắm. Nhưng nếu không có sự trông cậy đó, cái chết của em thật sự vô nghĩa."
Cha mẹ em cho tôi biết, đó là những lời mang lại cho họ nhiều ý nghĩa nhất trong thời gian tăm tối.
"Kinh Tin Kính đẹp nhất là khi chúng ta tuyên xưng vào lúc tăm tối," Cha Padre Piô đã nói như thế.
7. Thiên đàng là nơi mà mọi hy vọng của chúng ta sẽ được no thoả, và chúng ta không bao giờ sợ hãi để nói về thiên đàng.
Khi tôi sống ở Hoa Thịnh Đốn, tôi thường đến giúp trung tâm "Gift of Peace" do các nữ tu dòng Bác ái Truyền Giáo trông coi những người đang chết vì bệnh AIDS. Thỉnh thoảng tôi rửa tội, xức dầu, cầu nguyện hay giải tội cho những người sắp chết. Các chị thì luôn luôn phấn khởi kể cho tôi biết khi có người từ trần mà họ đã tuyên xưng đức tin, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, vì các chị tin tưởng là họ sẽ lên thiên đàng. "Lý do tại sao chúng con thi hành công việc này," một chị giải thích rằng, "là để đưa các linh hồn lên thiên đàng."
Phải, họ lau chùi những người sắp chết trong tuyệt vọng, băng bó các vết thương của họ, thay tã cho họ, đút cho họ ăn, và chăm sóc những người mà không ai muốn để ý. Nhưng động lực của họ là giúp các linh hồn lên thiên đàng.
Chúng ta bối rối khi nói với dân chúng về thiên đàng, có lẽ chúng ta sợ người ta cho rằng chúng ta quá đạo đức, quá ở thế giới bên kia, hay không lo lắng gì đến những vấn đề đời này. Nhưng đôi khi gánh nặng cuộc đời này có thể nghiền nát dân chúng đến độ họ khao khát muốn nghe ai đó nói về một nơi chốn "mà mọi nước mắt sẽ được lau khô," và, nếu linh mục chúng ta không nói hay không thể thi hành điều đó, thì còn ai nữa?
Như chúng ta cầu xin trong bài tụng ca "Benedictus" trong ngày lễ kính Thánh Agnes: "Điều tôi mong ước, giờ tôi đã thấy; điều tôi hy vọng, giờ tôi đã được; nơi thiên đàng tôi được liên kết với Người mà nơi trần thế tôi hằng yêu mến với tất cả tâm hồn."
"Chúng ta không dám thốt nên lời cầu nguyện hay đem một lối thoát cho sự đau khổ của chúng ta! Điều gì đó đã chết trong mỗi người chúng ta, và điều đã chết đó là Hy Vọng," Oscar Wilde đã viết như thế, và dường như điều này mô tả đặc điểm của chúng ta ngày nay. Người Công Giáo nhìn đến các linh mục như những con người đầy hy vọng để hướng dẫn họ, theo như lời của Đức Thánh Cha, "đi qua ngưỡng cửa hy vọng."

Tôi nhớ có theo dõi cuộc phỏng vấn của Đức Hồng Y Law trên truyền hình ở bên ngoài Tòa Bạch ốc mà ngài vừa mới gặp Tổng Thống Bush nhằm ngăn cản một cuộc chiến có thể xảy ra với Iraq, một đặc phái viên hỏi: "Thưa Hồng Y, ngài có mất hy vọng không?"


Đức hồng y trả lời: "Tôi đang trong công tác hy vọng!"
Phải, chúng ta "đang trong công tác hy vọng." Chúng ta là những người mà, trong con thuyền sắp sửa chìm giữa cơn phong ba, vẫn tiếp tục tiến bước dù Chúa Giêsu dường như đang ngủ.
Chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, tin tưởng vào lời hứa vô cùng của Ngài, con hy vọng sẽ được tha thứ mọi tội lỗi, được ơn sủng của Ngài trợ giúp, và được sự sống đời đời qua công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, là Chúa và là Đấng Cứu Độ của con. Amen.

Chương 3
ĐỨC ÁI

(Đoạn Kinh Thánh: Gioan 21:15-17)

Có câu chuyện nói về người Môn Đệ Yêu Dấu trong những năm gần vào cuối đời của ngài khi ở đảo Patmos. Ở đó ngài sống cô quạnh trong một cái hang, quanh đó là một vài môn đệ thân quý. Vì ngài là người sau cùng trong Nhóm Mười Hai, nên mỗi Chúa Nhật, hàng trăm Kitô Hữu đến Patmos để tham dự Thánh Lễ và để nhìn thấy Thánh Gioan. Cứ đến ngày Chúa Nhật, các môn đệ lại khiêng vị tông đồ già yếu này xuống với đám đông. Đến lúc rao giảng, mọi người như nín thở, lắng tai để nghe tiếng nói thều thào của ngài. Nhưng từ Chúa Nhật này sang Chúa Nhật khác ngài vẫn chỉ nói có một điều: "Các con yêu dấu, hãy thương yêu nhau! Các con hãy thương yêu nhau!"
Sau cùng, một môn đệ khi khiêng ngài về hang, lên tiếng hỏi: "Thưa thầy, tại sao thầy chỉ lập đi lập lại có một điều là 'Các con hãy thương yêu nhau'?"
Thánh nhân trả lời: "Bởi vì Thầy của chúng ta luôn luôn lập đi lập lại điều ấy."
Tôi muốn chia sẻ về tình yêu như một động lực hợp nhất quy tụ lại và đem lại mục đích cho bất cứ gì chúng ta thi hành. Đời sống linh mục đầy những đòi hỏi và mong đợi; hàng ngày chúng ta có bổn phận phải cầu nguyện, học hỏi, chuẩn bị phụng vụ, thừa tác vụ, biết bao buổi hội họp, và vân vân. Sự nguy hiểm là đời sống chúng ta có thể trở nên rời rạc, bị lôi kéo theo các chiều hướng khác nhau, như chiếc xe trật đường rầy. Do đó, chúng ta tìm kiếm một giá trị để đem lại sự hài hòa, một nguyên tắc để đem lại sự hợp nhất, một sức mạnh để nối kết lại, một động lực để cung cấp cho chúng ta đường hướng mà trong đó, những gì chúng ta nói hay làm có thể xuất phát từ tình yêu.
Trong tự truyện của Thánh Têrêsa Lisieux, chúng ta biết hình như ngài cũng có những khó khăn đó. Thánh nữ kể lại phương cách ngài tìm câu trả lời cho sự hoang mang nội tâm, và ngài viết:
Tôi không thoả mãn và không tìm thấy bình an. Tôi kiên trì… cho đến khi tôi tìm thấy một chủ đề thật khích lệ: "Hãy khao khát những ơn sủng cao cả hơn. Và tôi sẽ chỉ cho anh chị em thấy một con đường vượt trên mọi thứ khác" (1 Cor. 12:31). Vì vị Tông Đồ này nhấn mạnh rằng các ơn sủng cao trọng hơn thì chẳng là gì cả nếu không có đức ái, và chính tình yêu này chắc chắn là con đường tốt nhất dẫn đến Thiên Chúa. Sau cùng tôi đã tìm thấy bình an! Đức ái đối với tôi như một tâm điểm cho ơn gọi của tôi! Tôi biết rằng Giáo Hội có một con tim và con tim ấy dường như bừng cháy vì yêu. . . Tôi đã nhìn thấy và nhận thức rằng tình yêu ấy đặt giới hạn cho mọi ơn gọi, tình yêu ấy là tất cả, tình yêu ấy ôm ấp mọi nơi và mọi lúc, tình yêu ấy thì đời đời. Và rồi, hầu như ngây ngất vì vui sướng, tôi thốt lên: Ôi Giêsu, tình yêu của con, sau cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con! ơn gọi của con là tình yêu. Con đã tìm thấy vai trò của con trong Giáo Hội…Trong trái tim của Giáo Hội, con sẽ là tình yêu!
Kinh Nhật Tụng, Lễ Thánh Têrêsa
Hầu hết những lần chúng ta nghĩ đến tình yêu, chúng ta suy nghĩ về tình yêu cho Chúa và cho dân Người. Thật tự nhiên và thật quan trọng. Tuy nhiên, cái gì trước phải đến trước. Khởi điểm của sự thăng tiến tâm linh, bước đầu tiên trong tinh thần môn đệ đích thực, là khiêm tốn thú nhận và biết ơn Chúa vì tình yêu Người dành cho chúng ta. Như người Môn Đệ Yêu Dấu giảng dạy, "Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta được tỏ lộ khi Người sai Con duy nhất của Người đến thế gian. . . đây là tình yêu tôi muốn nói đến: không phải là tình yêu chúng ta dành cho Thiên Chúa, mà là tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta!" (1 Gioan 4:9-10).
Những bạn đã quen với Rèn Luyện Tâm Linh của Thánh Y-Nhã biết rằng thánh nhân luôn khởi đầu bằng sự nhận biết tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Bạn sẽ thấy rằng khi làm linh mục, một trong những điều thường chán nản là giúp dân chúng chấp nhận sự hiểu biết thâm thuý này, đó là Thiên Chúa yêu thương họ một cách say đắm. Đó là "Tin Mừng", có phải không? Thảm kịch của đời sống là hầu hết mọi người chúng ta đều cảm thấy điều đó quá tuyệt diệu đến nỗi khó có thể là sự thật, và chúng ta sống thờ ơ hay quên đi điều đó. Nhiều người trong chúng ta có thể nhớ lại một đoạn văn đáng nhớ trong cuốn Tự Thú của Thánh Augustine:
"Con biết yêu mến Người cách muộn màng. Ôi Đấng Tuyệt Mỹ của ngày xa xưa ấy, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết!... Người kêu lớn và gào thét vào sự ngơ điếc của con. Người lấp lánh và chiếu sáng vào sự mù quáng của con. Người thở hương thơm và con bị lôi cuốn và con khao khát Người. Con đã nếm thử, và con đói khát. Người chạm đến con, và con đã bừng cháy vì sự bình an của Người”.
- Kinh Nhật Tụng Lễ Thánh Augustine
Tôi nhớ có lần một chuyên gia tâm lý nói với tôi, "Thưa Cha, hãy luôn luôn nói với dân chúng là Thiên Chúa yêu thương họ. Hầu hết những khó khăn của những người đến với con là họ tin rằng không có ai yêu thương họ, họ không đáng thương, và do đó, họ không yêu quý và tôn trọng ngay cả chính họ. "
Mỗi một người được Thiên Chúa yêu thương và được mời gọi hãy yêu thương lại; nhất là những người tin vào sự mặc khải của Thiên Chúa nơi Con của Người là hãy nhận ra tình yêu ấy và nhiệm vụ của họ là đáp trả tình yêu Thiên Chúa. Tuy nhiên, nói cho đúng, linh mục là người được mời gọi để ý thức sâu xa về tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, hãy chấp nhận tình yêu ấy với lòng biết ơn chân thành, và đáp trả tình yêu ấy với một sức mạnh được phản ánh nơi cộng đồng dân Chúa. Không những thế; linh mục chúng ta được mời gọi đến một tình yêu mật thiết với Chúa Giêsu đến nỗi, chúng ta thực sự đồng hình dạng với Người trong tình yêu nồng cháy cho Hôn Thê của Người là Giáo Hội. Những lời ấy thật nặng nề, và tôi cũng chưa thể hiểu hết ý nghĩa của nó. Nhưng sự đồng hình dạng với Chúa Giêsu trong tình yêu dành cho Giáo Hội, là điểm cốt lõi của căn tính linh mục và thừa tác vụ của chúng ta.
Có lẽ, tốt hơn tôi nên dựa vào lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tông thư Pastores Dabo Vobis (số 22): "Món quà tự hiến của Đức Kitô dành cho Giáo Hội, kết quả tình yêu của Người, được diễn tả như một món quà độc đáo do chính Tân Lang thực hiện để trao cho Tân Nương… Linh mục được mời gọi để trở nên hình ảnh sống động của Đức Kitô Giêsu, vị Hôn Phu của Giáo Hội… Chính vì sự đồng hình dạng với Đức Kitô, là đầu và là mục tử, vị linh mục đại diện cho tương giao phu phụ này với cộng đồng dân Chúa… Do đó, trong đời sống tâm linh, ngài được mời gọi thể hiện tình yêu phu phụ của Đức Kitô đối với Giáo Hội, Hôn Thê của Chúa. Bởi đó, đời sống của linh mục phải chiếu tỏa đặc tính phu phụ này mà nó đòi hỏi người phải trở nên một nhân chứng cho tình yêu phu phụ của Đức Kitô. "

Anh em thân mến, đó chính là tình yêu mà chúng ta được mời gọi để chấp nhận, đáp trả và chiếu toả. Đó là ơn gọi cao quý của chúng ta. Đó là động lực kết hợp của bất cứ gì chúng ta thực hiện nơi đây. Làm thế nào để chấp nhận, để đáp trả và để chiếu tỏa tình yêu ấy thì đó chính là mục đích của chương trình đào tạo linh mục lâu dài.


Bây giờ, tôi xin hỏi anh em về phương cách. Làm thế nào để chúng ta lớn lên trong tình yêu Đức Kitô và Giáo Hội của Người? Đơn giản hóa một cách liều lĩnh, tôi đề nghị chúng ta "rơi vào cuộc tình" với Đức Kitô và Hôn Thê của Người, là Giáo Hội. Trong nhiều phương cách tương tự như khi chúng ta phát triển tình bạn một cách tự nhiên, tôi cũng xin anh em hãy nhớ đến các mối tình chân thật và thực sự bằng hữu. Hay, nếu chưa bao giờ yêu ai, hãy nghĩ đến những người thân thuộc với anh em, hoặc đơn giản tự hỏi mình phải cần những gì để lớn lên trong tình cảm với ai đó, hoặc để kiên cường hay làm sâu đậm thêm tình bằng hữu.
Để lớn lên trong cuộc tình với Chúa Giêsu và Giáo Hội, chẳng lẽ chúng ta không mong muốn thi hành một số điều gì đó hay sao?
1. Để ngày càng yêu mến ai đó, trước hết chúng ta phải dành thời giờ với người ấy. Chúng ta chuyện trò, lắng nghe và vui thích khi ở với họ.
Điều này cũng đúng với tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giêsu, phải không? Ở với Chúa, lắng nghe Người và sau đó trò chuyện với Người, đó là sự cầu nguyện. Như thế, cầu nguyện hàng ngày là điều cần thiết cho cuộc đời chúng ta, a sine qua non. Hàng ngày, chúng ta dành thời giờ cho người bạn chí thân, Chúa Tình Yêu, nói chuyện với Người, lắng nghe Người. Cầu nguyện. Chúng ta không thể ngày càng yêu Chúa hơn nếu không có sự cầu nguyện.
Bố mẹ tôi rất thương yêu nhau. Tôi nghe người ta nói hai ông bà vẫn yêu nhau như hồi còn trẻ. Bố tôi đi làm lúc 5g sáng, trước khi mọi người trong nhà thức giấc, kể cả mẹ tôi, nhưng ông luôn luôn để lại vài câu ghi chú cho mẹ tôi. Lúc ông nghỉ xả hơi, ông điện thoại về nhà; và khi đi làm về, khoảng 4:45, hai ông bà ngồi trong bếp uống trà và chuyện vãn cả giờ đồng hồ. Mấy đứa chúng tôi phải biết đừng quấy rầy. Đôi khi hai người tán gẫu, đôi khi không nói nhiều. Có lúc bố tôi nói, mẹ tôi nghe hay ngược lại. Giây phút ở với nhau hàng ngày là bí quyết tình yêu của hai người.
Cũng giống như tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giêsu. Chúng ta phải dành thời giờ hàng ngày để ở với Người nếu muốn tình cảm của chúng ta dành cho Người vẫn còn mạnh. Với các linh mục, kinh nhật tụng là phương cách giữ chúng ta "tiếp xúc với người yêu của chúng ta" trong một ngày bận rộn. Do đó, chúng tôi cũng mong đợi bạn trung thành với các buổi cầu nguyện chung sáng tối hàng ngày. Việc cầu nguyện cá nhân cũng tương tự. Một số bạn cầu nguyện riêng vào buổi sáng; một số vào buổi tối khuya, một số dựa vào Kinh Thánh; một số thích theo giờ giấc; một số gọi đó là chiêm niệm; một số gọi đó là "tập trung". Tuy nhiên, dù bất cứ gì, bất cứ khi nào nếu bạn muốn yêu mến Chúa Giêsu, và luôn sống trong tình yêu với Người. Số phận của một trong các linh mục của Người là bạn phải ở với Người, nói với Người, và lắng nghe Người hàng ngày. Đó gọi là cầu nguyện.
2. Một phương cách để gia tăng tình bạn hay tương giao dấu ái là ăn chung với nhau. Trong xã hội, bạn biết ai đó muốn làm quen với bạn khi họ mời bạn đi ăn. Và, một lần nữa, xin tha lỗi cho sự đơn giản hóa, chúng ta gia tăng tình yêu Chúa Giêsu qua việc chia sẻ Thánh Thể hằng ngày với Người. Thánh Lễ hàng ngày là thực phẩm chủ yếu trong việc đào tào linh mục. Khi chúng ta ngày càng chểnh mảng, tình bạn của chúng ta với Thầy sẽ bị thiệt hại. Nhưng nếu chúng ta tận tình vui thích khi ở trước mặt Chúa, thực sự hiện diện trong Bánh Sự Sống, Thánh Thể thì "Ai ăn Mình Ta và Uống Máu Ta thì sẽ ở trong Ta và Ta ở trong người ấy!" (Gioan 6:56). Thánh Giáo Hoàng Piô X đã viết rằng phương cách hữu hiệu nhất để gia tăng lòng yêu mến Đức Kitô là tiếp nhận Người hàng ngày qua bí tích Thánh Thể.
3. Khi chúng ta yêu ai, chúng ta muốn biết cả gia đình, bạn hữu của người ấy, có phải không? Bạn có thể biết mối tình của đôi nam nữ đến lúc quan trọng là khi họ giới thiệu nhau với người trong gia đình, khi họ bắt đầu giới thiệu bạn của nhau.
Vậy, nếu chúng ta muốn Chúa Giêsu và Giáo Hội Người trở nên tình yêu trong cuộc đời chúng ta thì chúng ta phải biết về bạn hữu và gia đình của Chúa!
Điều này rất đúng với Mẹ của Người. Vì quá gần gũi với chúng ta đến độ Mẹ Người trở thành Mẹ của chúng ta. Do đó, việc sùng kính Đức Mẹ trở nên một chuẩn mực cho đời sống tâm linh của linh mục. Chúng ta cần nhận thức rằng có nhiều phương cách khác nhau để yêu mến Mẹ Maria. Yêu mến như thế nào thì đó là một vấn đề còn mở ngỏ, nhưng chắc chắn là phải yêu mến Mẹ. Sự sùng kính của người con đối với người Mẹ của vị Linh Mục Đầu Tiên thì cũng là một phần thiết yếu của đời sống tâm linh chúng ta và là một phương cách thực tế để gia tăng lòng yêu mến Chúa. Sự sùng kính đó đã trở thành truyền thống của trường North American College ở Rôma ngay từ tháng Mười Hai, 1859; và tôi vui mừng là truyền thống ấy vẫn còn.

Chúng ta cũng không thể quên Thánh Giuse, Thánh Gioan Tẩy Giả-người nhà của Chúa Giêsu-và các tông đồ, các người bạn của Chúa. Thành phố này, thấm đỏ máu của hai người bạn Chúa, là Thánh Phêrô và Phaolô, và đã đem lại cho chúng ta một cơ hội đặc biệt để biết về các tông đồ này khi chúng ta đến đây.


Một vài năm trước đây, một chủng sinh đến với tôi trong thời kỳ đặc biệt thử thách, khi anh đặt vấn đề về sự tương giao với Chúa Giêsu và Giáo Hội Người. Anh quá nặng nề đến độ gần đi đến một quyết định mà tôi cho là thiếu suy nghĩ. Tôi khuyên anh tối thiểu cũng phải dành ít thời giờ cho chính mình trước khi quyết định. Ngày hôm sau, anh trở lại, vui vẻ hơn, tự tin hơn về tình yêu của anh dành cho Đức Kitô và Giáo Hội. Điều gì đã thay đổi? Anh cho biết anh dành một vài giờ trước mộ Thánh Phêrô, và anh thấy nếu Chúa Giêsu có thể yêu mến Thánh Phêrô, với tất cả những khuyết điểm, tội lỗi, và sai lầm, thì chắc chắc Chúa cũng có thể yêu mến anh! Chắc chắn có lợi khi chúng ta biết về bạn hữu của Chúa để chúng ta có thể biết và yêu Chúa nhiều hơn.
Tất cả các thánh kể từ thời Thánh Phêrô và Phaolô cho đến nay là những người mà chúng ta phải cố để biết và noi gương họ--biết đến những bạn hữu của Chúa là một phương cách thực tiễn để lớn lên trong tình yêu mến Chúa.
Nhưng những người mà chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu thì không buộc phải là thánh! Rất nhiều người gần gũi với Chúa Giêsu, và họ có thể giúp chúng ta triển nở mối thân tình với Chúa.


  • Do đó, chúng ta giãi bầy tâm sự với cha linh hướng, một người khôn ngoan hơn và đằm thắm hơn trong sự tương giao với Chúa Kitô. Ở trường North American College, mỗi chủng sinh buộc phải có vị linh hướng và phải gặp ngài hai tuần một lần. Điều này phải trở nên khuôn mẫu cho đời sống mỗi linh mục.

  • Các văn sĩ khổ hạnh đã để lại cho chúng ta một kho tàng tâm linh nhằm giúp chúng ta thăng tiến trong sự tương giao với Đức Kitô. Nhờ đó, chúng ta có được các văn bản của Thánh Augustine, Thánh Phanxicô "de Sales", Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, hay của cha Thomas Merton.

  • Các mục tử, các giám mục, thì gần với Chúa Giêsu, nhất là Đức Giám Mục Rôma, là người dẫn dắt chúng ta trong giáo huấn của các ngài. Tất cả những người bạn của Chúa Giêsu đều có thể giúp chúng ta trở nên bạn của Chúa.

4. Khi chúng ta muốn ngày càng thân thiết với ai, tự nhiên chúng ta muốn khám phá mọi thứ về người ấy nếu có thể. Điều này cũng đúng với Chúa. Đó là lý do tại sao việc học hỏi thần học là môn học mà Giáo Hội đòi buộc nơi những ai muốn sống cả đời yêu mến Chúa và Giáo Hội. Thánh Aquinas viết: "Thần học xứng đáng được gọi là sự khôn ngoan cao nhất, vì tất cả mọi sự được nhìn dưới ánh sáng của nguyên nhân đầu tiên. "


Hồi xưa Giáo Hội gọi các chủng sinh ở bốn năm cuối là "thần học gia". Theo đuổi thần học, dùi mài Kinh Thánh, đọc, suy niệm, nghiên cứu, bàn thảo, đi học đều đặn-đó là những gì giúp một chủng sinh ngày càng thân mật với Chúa Giêsu, và ngoài ra chẳng còn ý nghĩa gì cả. Như vậy, học hỏi hàng ngày không phải là gánh nặng cho việc đào tạo linh mục, nhưng là bản chất của việc đào tạo. Kế ngay sau việc nuôi dưỡng đời sống tâm linh là học hỏi thần học trong khi chuẩn bị chức thánh.

Một trong những lý do của việc nghiên cứu thần học thì hiển nhiên là, khi chúng ta yêu ai, chúng ta muốn khoe khoang về người mình yêu, giới thiệu người khác với người yêu, nói với cả thế giới về người ấy. Đó, quả thật, là điều mà linh mục chúng ta phải dành cả cuộc đời để thi hành-giới thiệu Chúa Giêsu cho cả thế giới. Vậy, chúng ta cần biết Người, hiểu giáo huấn của Người, và sẵn sàng bảo vệ Người với lý lẽ mạch lạc, trong sáng. Và đó là thần học.


5. Khi yêu ai, chúng ta muốn loại bỏ những gì khiến người yêu đau lòng. Như thế, một trong những đặc tính căn bản của sự tương giao với Chúa là hằng ngày chúng ta phải chết đi cho tội lỗi và lớn lên trong nhân đức.
Thomas Merton diễn tả tình yêu Thiên Chúa như một tia sáng mặt trời mạnh mẽ chiếu qua cửa sổ. Ánh sáng này sẽ cho thấy những vết bẩn, vết mờ hay bụi bặm trên tấm kính cửa. Càng để ánh sáng vào nhiều bao nhiêu, chúng ta càng làm sạch tấm kính ấy bấy nhiêu.

Như thế, một phương cách để nhận được nhiều ánh sáng tình yêu Đức Kitô là liên lỉ thanh tẩy tội lỗi chúng ta. Đó là lời cổ vũ được thấy trong từng trang Phúc Âm: hoán cải, ăn năn sám hối, metanoia, hay bất cứ gì bạn muốn gọi; vật lộn hàng ngày với phần tăm tối của chính mình đã kềm hãm chúng ta không được tự do và không muốn tự hiến mà cuộc tình với Chúa và với Giáo Hội đòi hỏi phải giữ tình bằng hữu bền bỉ với Chúa Giêsu.


Có những phương cách thực tiễn để giúp chúng ta:


  • Thường xuyên kiểm điểm lương tâm khi chúng ta thẳng thắn nhìn lại đời sống trong ngày, trong tuần, khi so sánh với thập giới, tám mối phúc, và các nhân đức thích hợp cho ơn gọi của chúng ta. Cảm tạ Thiên Chúa vì những tiến bộ và tìm kiếm lòng thương xót của Người để vượt thắng tội lỗi.

  • Thành thật cởi mở với cha linh hướng.

  • Lời khuyên bảo thành thật của một người bạn là người chúng ta tin tưởng đủ để có thể nói lên những gì chúng ta cần sửa đổi. Một trong những ơn lành lớn lao là có được người bạn không sợ nói lên sự thật dù làm chúng ta đau lòng. Và một trong những công việc vĩ đại mà chúng ta có thể đem lại cho người bạn là thành thật cho họ biết sự lưu tâm của chúng ta về họ. Một trong những khó khăn nhất tôi đã phải trải qua là nói lên cảm tưởng của tôi về sự tương giao của một người bạn mà sự tương giao ấy đe dọa đến đức khiết tịnh của anh. Và anh đã mắng tôi là đồ quỷ.

  • Các tình bạn lành mạnh với anh em linh mục cũng giống như một nền tảng hữu hiệu cho thừa tác vụ. Một ơn lành đặc biệt của cuộc đời chủng sinh là triển nở được các tình bạn chắc chắn và lâu dài. Người bạn tốt là người mà chúng ta có thể nói thẳng với họ và ngược lại.

  • Nếu cần, phải tin tưởng vào chuyên gia như tâm lý gia hay người chuyên môn được huấn luyện để giúp người ta đối phó với những đau thương, những bứt rứt, hay những khuynh hướng trói buộc họ khỏi sự tự do cần thiết để yêu mến Chúa, Giáo Hội và dân của Người.

  • Sự chấn chỉnh, sửa đổi mà chúng ta nhận được từ người khác.

  • Và, rất thực tế và rất hữu hiệu, hãy trông nhờ vào bí tích hòa giải. Vị cha sở đầu tiên tôi phụ giúp luôn khuyên nhủ các đôi tân hôn rằng: "Những chữ quan trọng nhất trong một hôn nhân tốt đẹp là 'tôi yêu bạn' và 'tôi xin lỗi. ' Nói những chữ này thường xuyên sẽ giúp tình yêu thêm vững bền. "

Chính trong bí tích hòa giải mà chúng ta nói lời xin lỗi với Chúa và với Giáo Hội. Do đó, thường xuyên cử hành bí tích này phải là một đặc tính của cuộc tình chúng ta với Chúa. Tính cách thường xuyên của việc xưng tội là vấn đề cần được thảo luận giữa bạn và cha linh hướng, ít nhất là mỗi tháng một lần.


6. Khi yêu ai, chúng ta sẵn sàng chết cho người ấy. Có lần tôi thấy một đứa bé rời khỏi tay mẹ nó và chạy bổ vào con đường xe cộ đang di chuyển. Không chút do dự, người mẹ lao đến, quên cả dòng xe cộ như nước chảy để nắm lấy đứa con. Cám ơn Chúa là chiếc xe tải kịp thời thắng lại, chỉ cách hai mẹ con chừng nửa thước. Không ai ngạc nhiên về hành động của người mẹ. Tình yêu đích thực khiến chúng ta sẵn sàng chết vì người mình yêu.
Nếu chúng ta muốn lớn lên trong cuộc tình với Chúa Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng không những chết cho Người mà còn chết với Người. Phải, thập giá sẽ là một phần của đời sống chúng ta. Vậy sao chúng ta ngạc nhiên khi thập giá xảy đến? Sao vị linh mục lại sửng sốt khi bị cô đơn, chán chường, thất bại, bị bài sai trái ý muốn, gặp các cha sở gắt gỏng, giáo dân đòi hỏi, bị giáo đoàn chỉ trích, gặp các giám mục lạnh nhạt? Sao các linh mục lại nghĩ rằng có lẽ có gì sai trái khi muộn phiền và thất bại xảy đến? Chúng ta được trở nên đồng hình dạng với con người trên thập giá, được mời gọi trút bỏ hết tất cả đến độ chết trên thập giá vì yêu và vì Hôn Thê của Người. Chúa nói với chúng ta, "Nếu muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình và vác thập giá mình." Một người bình thường còn phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày chỉ vì tình yêu vợ con, không lẽ chúng ta, các linh mục không thể chịu đựng mệt mỏi, đau khổ, đè nén vì Chúa và vì Giáo Hội hay sao?
Trong giáo xứ của tôi có một đôi vợ chồng tuyệt vời, họ là bậc cha mẹ thực tế, vui vẻ và kiên cường với năm con. Bà ấy bị tàn tận vì bệnh sưng khớp khi ba mươi bốn tuổi. Bây giờ bà không thể rời khỏi giường. Ông chồng thật tốt với bà bế bà lên xuống, đi tắm, luôn ở với bà hàng giờ, đút cho bà ăn. Một vài năm trước đây, tôi ghé ngang để thăm họ và khi ra về, ông ấy tiễn tôi ra tận xe. Tôi nói, "Ông Bình ơi, tôi rất cảm kích trước mối tình của ông dành cho bà."
Ông trả lời: "Thưa Cha. Càng ngày con càng yêu nhà con hơn khi mới lấy nhau. "
Tình yêu của chúng ta dành cho Chúa Giêsu và Giáo Hội cũng được chứng tỏ qua những thử thách. Khi cô đơn, bị ruồng bỏ, đau khổ, căng thẳng, đó là khi tình yêu trở nên tinh tuyền. Khi mà người bạn chí thân của chúng ta, Đức Giêsu, dường như xa cách; khi mà Hôn Thê của Người, là Giáo Hội, dường như thối nát, sai lầm, yếu đuối, đầy tiếng xấu, đó là khi chúng ta càng phải yêu Chúa Giêsu và Giáo Hội hơn nữa! Đó là khi tình yêu tự chứng tỏ!
Tình yêu mà chúng ta dành cho Chúa Giêsu và Giáo Hội không luôn luôn thảnh thơi, thoải mái, luôn hài lòng, và tràn đầy thân mật. Không, tình yêu ấy sẽ dẫn đến sự hy sinh, mồ hôi, máu, nước mắt, đau khổ; nó sẽ dẫn đến thập giá. Như Đức Thánh Cha nói với các chủng sinh ở Nữu Ước, "Sự khôn ngoan của thập giá là tâm điểm của đời sống và thừa tác vụ của mỗi linh mục." Điều đó rất đúng với đời sống ở chủng viện đây và đời sống trong giáo xứ. Nhiều khi, "hoàn cảnh này" xảy đến cho chúng ta, và chúng ta muốn khước từ nó. Đó là gánh nặng của thập giá mà nó sẽ luôn tái diễn trong suốt cuộc đời linh mục. Hãy sẵn sàng chấp nhận!
Như thế, ngay bây giờ hãy yêu quý thập giá qua các hành động từ bỏ mình, hành xác, và sám hối là một phương cách tốt đẹp để sâu đậm thêm tình yêu của chúng ta với Đấng bị đóng đinh. Một số luyện tập, tỉ như cầu nguyện và ăn chay hàng tuần, là một thí dụ tốt đẹp của sự hy sinh đó.
7. Sau cùng, nếu chúng ta muốn tỏ lòng yêu ai, chúng ta phải học cách chăm sóc những người cũng như các hoạt động mà người ấy ưa thích. Tỉ như, khi hai bạn trẻ yêu nhau, cô nàng cố hiểu biết về môn chơi bóng rổ, trong khi chàng lại cố tìm hiểu về nghệ thuật để họ có thể nói cho nhau nghe những ích lợi của các sinh hoạt này. Khi chúng ta nói về Chúa Giêsu, điều đó có lợi cho những người khát khao muốn tìm hiểu, những người nghèo nàn về mặt tinh thần, tâm trí cũng như thể xác. Điều này chỉ có thể phát xuất từ một tâm hồn nhạy cảm về mục vụ, và đó là nguyên do của các chương trình mục vụ trong việc đào tạo linh mục của trường North American College.
Như Đức Thánh Cha nói với các linh mục ở Newark: "Cũng như Đức Kitô, là đầu và là mục tử của Giáo Hội, các con cũng phải biết, phải chăm sóc và phải hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Việc tấn phong giúp các con đồng hình dạng với Đức Kitô, Người Tôi Tớ, khiêm tốn rửa chân cho các tông đồ vì Người đến giữa chúng ta không để được hầu hạ mà để phục vụ. " Nếu chúng ta muốn thăng tiến trong việc yêu mến Chúa Giêsu, thì chúng ta phải thích thú với những gì mà Người lưu tâm đến và đó là phục vụ những người có nhu cầu.
Thánh Phaolô viết: "Lòng yêu mến Đức Kitô thúc giục tôi. " Tôi không biết là tôi có thành công hay chưa, nhưng điều tôi cố gắng là chứng tỏ rằng tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa vừa là tình yêu Thiên Chúa ban cho chúng ta và cũng là tình yêu chúng ta đáp trả, là hơi nóng giúp bộ máy linh mục của chúng ta hoạt động, là yếu tố cơ bản quy tụ mọi góc cạnh của những đòi hỏi trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta hiện diện là vì tình yêu; hy vọng rằng linh mục chúng ta, là những người thực sự tin tưởng vào tình yêu của Chúa cho chúng ta và hăng say đáp trả lại tình yêu ấy, là những người cương quyết trở nên đồng hình dạng với Người và chia sẻ trong tình yêu phu phụ của Đức Kitô dành cho Hôn Thê, là Giáo Hội.
Những gì chúng ta thi hành phải kiên cường, triển nở, nuôi dưỡng và gia tăng tình yêu này: cầu nguyện và Thánh Lễ hàng ngày, sự sùng kính Đức Maria và các thánh, đối thoại với cha linh hướng, học hỏi thần học, cố gắng chống trả tội lỗi và gia tăng nhân đức, sẵn sàng hy sinh và chịu đau khổ, và phục vụ dân Người. Tất cả chúng ta làm vì tình yêu.
Có lẽ bạn cũng nghe biết về Nam Tước Catherine de Hueck Doherty, sáng lập Phong Trào Nhà Hữu Nghị, mà ngài đang trong tiến trình phong thánh. Có lần ngài được mời đến trung tâm phục vụ người nghèo hiện đang có xung đột nội bộ. Ban giám đốc cãi nhau, và ngài được mời đến để giải hòa.
Sau vài giờ đồng hồ nghe đôi bên đốp chát, sau cùng ngài kết thúc buổi họp với câu: "Tôi đi đến quyết định là đóng cửa trung tâm này!"
Cả một chấn động lan tràn. "Nhưng thưa Nam Tước Phu Nhân, ai sẽ cho người nghèo ăn uống và người vô gia cư chỗ trú ngụ?"

"Chính phủ có thể múc thức ăn, và sửa soạn chỗ ngủ cho họ không khác gì chúng ta! Chúng ta được mời gọi để thi hành điều đó với tình yêu, và nếu chúng ta không thể thi hành điều ấy với tình yêu, chúng ta sẽ không làm!"


Chúng ta được mời gọi để trở nên những người yêu thương và chia sẻ tình yêu ấy với những người mà chúng ta phục vụ, và nếu chúng ta không thể thi hành với tình yêu, điều đó chẳng còn ích lợi gì. Tất cả mọi thần học, tất cả mọi khả năng mục vụ, tất cả mọi khả năng rao giảng, tất cả mọi kiểu cách phụng vụ, tất cả mọi huấn luyện sẽ không cao hơn đĩa cơm nếu chúng ta không có tình yêu khi thi hành điều đó. Bạn đã từng thấy các linh mục, những con người của tình yêu, họ yêu thương Chúa Giêsu và Hôn Thê của Người một cách say đắm, và họ chiếu tỏa niềm vui, lòng thương người, sức thuyết phục như tuôn chảy từ lò lửa tình yêu. Nếu không có những tấm gương ấy, có lẽ chúng ta không được như ngày nay.
Và bạn cũng đã từng thấy các linh mục chưa bao giờ có tình yêu hay đã bước ra ngoài cuộc tình lạnh nhạt, hung dữ, gắt gỏng, nhỏ mọn, lười biếng, ích kỷ. Ô, thì ngài cũng yêu mến đấy chứ, ngài yêu chính mình, không phải trong ý nghĩa tự trọng mà Chúa Giêsu muốn nói đến, nhưng trong một phương cách bệnh hoạn, ích kỷ. Thời giờ thuận tiện của ngài, tương lai của ngài, bộ mặt của ngài, những gì ngài muốn tất cả những thứ ấy trở nên quan trọng nhất trong đời ngài. Điều sau cùng mà Giáo Hội cần là tốt hơn nên có một linh mục khác.
Mới đây, Đức Thánh Cha có khuyên các chủng sinh cầu xin hàng ngày, "Ôi lạy Chúa Giêsu nhân hậu, xin biến con trở nên một linh mục như Chúa muốn. "
Vào năm 1994, chúng tôi có đặt tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu ngay cổng vào trường. Thánh Tâm Chúa, bừng cháy vì tình yêu và lòng thương xót chúng ta, là một dấu hiệu mạnh mẽ về tình yêu mà Đức Kitô dành cho chúng ta. Đó là một động lực hợp nhất, một sức đẩy của đời sống linh mục; đó là điều duy nhất đem lại ý nghĩa và mục đích cho bất cứ gì chúng ta thi hành.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu

Con đặt hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa!

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu

Con tin ở tình yêu Người dành cho con!

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu

Xin cho nước Chúa trị đến!



Chương 4
KHIÊM TỐN

(Đoạn trích Kinh Thánh - Philip 2:5-11)
Một trong những nghị hội về tĩnh tâm mà tôi có thể nhớ được là do học giả Kinh Thánh dòng Passionist nay đã qua đời là Cha Barnabas Ahern diễn giảng. Ngài mở đầu bằng cách nêu ra những câu hỏi, "Đức tính nào mà Chúa ưa thích nhất?"
Đức tin? - chắc chắn là quá cao vời-

Đức cậy? - cũng gần ở trên đỉnh-

Đức ái? - đã bao lần Thầy chúng ta đã nói về tình yêu-

Đức công bình? - trường hợp có thể xảy ra-


Nhưng tất cả những đức tính này đều mờ nhạt, được coi là thứ yếu so với đức tính mà Cha Ahern cho rằng được Chúa ưa thích nhất - đức khiêm tốn.
Khiêm tốn là nhân đức cột trụ của đời sống nội tâm, được Chúa Giêsu ưa thích, được các thánh và các vị thần học khổ hạnh cho rằng sine qua non (không thể thiếu) trong mọi tiến trình trên đường trọn lành. Trong câu nói đơn sơ của Bông Hoa Nhỏ, "Bước đầu của mọi sự thánh thiện là khiêm tốn thú nhận rằng không có Chúa chúng ta không thể làm được gì, nhưng với Người, trong Người, và nhờ Người, mọi sự đều có thể!"
Dĩ nhiên, Phúc Âm ca ngợi sự khiêm tốn như chúng ta thấy trong biết bao trang khi Chúa ưu đãi người hèn mọn:


  • người đau yếu hơn người mạnh khoẻ

  • người thiếu thốn hơn người có nhiều

  • người trinh khiết thấp kém hơn người có địa vị trong xã hội

  • người đánh cá ít học hơn là các luật sĩ sành điệu

  • người nghèo hơn người giầu

  • người cù lần hơn "dân chơi"

  • trẻ em hơn người lớn

"Lạy Ngài, xin cho tôi được thấy!" người ăn xin mù lòa kêu van

"Ước chi tôi được chạm đến vạt áo của Ngài!" người phụ nữ bệnh hoạn thì thầm

"Thưa Ngài, tôi không xứng đáng, " viên sĩ quan thú nhận

"Chỉ cần các mẩu vụn trên bàn ăn, " người phụ nữ Canaan nài xin

"Lạy Ngài, xin nhớ đến tôi khi ngài vào nước trời, " người trộm lành bày tỏ


Tất cả những lời van xin khiêm tốn này đã làm mủi lòng Thánh Tâm, là trái tim mà chính Người đã diễn tả là dịu dàng và khiêm tốn.
Tại sao sự khiêm tốn lại có giá trị đối với Chúa Giêsu?
Có lẽ vì sứ mệnh của Người khi cứu chuộc chúng ta chính là để cứu chúng ta khỏi thái độ ngược với sự khiêm tốn, là sự kiêu ngạo, là tội lỗi đầu tiên mà nguyên tổ đã nghĩ rằng họ có thể sống không cần Chúa. Như Thánh Augustine nhận xét, "Chính vì sự kiêu ngạo đã đưa đến sự Sa Ngã. Nếu bạn hỏi tôi đường nào đến với Thiên Chúa, tôi sẽ bảo bạn đường thứ nhất là khiêm tốn, đường thứ hai là khiêm tốn, đường thứ ba là khiêm tốn"
Có lẽ vì sự Nhập Thể của Người là hành động khiêm tốn tuyệt vời chưa từng có, khi Con Thiên Chúa, Ngôi Lời Vĩnh Cửu, Ngôi Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đã mặc lấy xác phàm và trở thành một con người. Thánh Bernard viết, "Khiêm tốn là mẹ của sự cứu độ. "
Có lẽ đức khiêm tốn được Chúa Kitô ưa chuộng chính vì định nghĩa của nó. Thánh Tôma Aquino trong Tổng Luận Thần Học nói rằng, khiêm tốn có nghĩa hãy nhìn chúng ta như Thiên Chúa thấy chúng ta: hãy biết rằng mọi sự tốt lành chúng ta có là do Người ban cho như các món quà thuần tuý, và chúng ta tùy thuộc nơi Người mọi sự. Không phải là "tinh thần nghèo khó" được đứng đầu trong tám mối phúc hay sao? Và, vì Chúa Giêsu thực sự nhìn với con mắt của Thiên Chúa, nên Người đặc biệt yêu quý những ai hành động giống như vậy. Thánh Vinhsơn Phaolô đã diễn tả điều này thật tuyệt: "Lý do tại sao Thiên Chúa quá yêu chuộng sự khiêm tốn là vì Người yêu chuộng sự thật. Khiêm tốn thì không gì khác hơn là sự thật, trong khi kiêu ngạo không gì khác hơn là dối trá. Ngay khi Thiên Chúa nhìn thấy chúng ta thực sự chẳng có gì cả, Người đưa tay giúp đỡ chúng ta."
Một trong những phát triển tinh thần ngày nay được mọi người đón nhận là chương trình mười hai bước của tổ chức Alcoholics Anonymous. Không ai có thể chừa được bệnh nghiện rượu cho đến khi họ thú nhận với sự thành thật và khiêm tốn là họ tuyệt đối cần đến sự giúp đỡ của Ơn Trên. Áp dụng điều này vào tất cả những tội lỗi, tăm tối, nghiện ngập, chiến đấu, đồi bại, xấu xa, và những yếu đuối, những khởi đầu để sống, để thăng tiến, nhưng để thi hành điều đó cần có sự khiêm tốn.
Trong sự hiểu biết của Kitô Giáo, phải có sự khiêm tốn trước Thiên Chúa và sau đó là khiêm tốn trước người khác, nghĩ đến tha nhân trước, để chiến đấu với tính ích kỷ, để tránh được vinh danh, được hoan hô, được chú ý, để vui mừng khi thấy người khác được hơn mình. Sự khiêm tốn trước Thiên Chúa và tha nhân là một trong những đức tính khó khăn nhất để trau dồi nhưng tối cần thiết cho các linh mục.
Xin phép để tôi kể ra những gì tôi cảm thấy đặc biệt nguy hiểm, và sau đó là những trợ giúp thực tiễn, để trau dồi đức khiêm tốn.
Trước hết, một vài cạm bẫy trên con đường khiêm tốn.
Thuyết Pelagius lan tràn trong đạo Công Giáo, đó là nghĩ rằng chúng ta có thể thành đạt, hay xứng đáng để được cứu độ, nghĩ rằng sự cứu độ là tùy thuộc chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta biết rằng sự thánh thiện, thiên đàng, không thể giành được nhưng chỉ được ban cho những ai khiêm tốn thú nhận rằng họ tuyệt đối cần đến Chúa và không thể nào chiếm được sự yêu quý của Chúa bằng chính công trạng của mình.
Dĩ nhiên thuyết Pelagius phát xuất từ sự kiêu ngạo, trái với sự khiêm tốn, đề cao khả năng con người. Đó là sự nguy hiểm trong đời sống chủng sinh và linh mục vì chúng ta được kêu gọi để thi hành nhiều thứ: Thánh Lễ hàng ngày, đọc kinh hàng ngày, chiêm niệm, xưng tội, đọc sách thiêng liêng, sám hối, luyện tập nhân đức, thi hành việc đạo đức, và đúng là các bổn phận này cần thiết cho lương thực tâm linh của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thi hành các điều ấy không để giành được hay đem lại sự thánh thiện, đó là thuyết Pelagius, nhưng để phơi bầy con người chúng ta một cách khiêm tốn cho sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Một hình thức tinh vi của thuyết Pelagius ngày nay được thấy trong Giáo Hội: tin tưởng rằng sự hăng hái, sự chính thống, sự cứu độ của Giáo Hội tùy thuộc nơi tôi. Trong một cuộc họp của các cha sở mà tôi tham dự ở Anh hồi 1995, rất nhiều linh mục bạn của tôi đều nhớ lại cuộc gặp gỡ hữu ích hàng năm với vị trưởng Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, Đức Hồng Y Pio Laghi. Một trong các cha nhận xét rằng ngài lo ngại khi thấy một số chủng sinh và các linh mục trẻ cảm thấy rằng chính họ được Chúa ủy thác việc gìn giữ Giáo Hội khỏi tà thuyết đang lan tràn và duy tân thuyết (modernism).
Đức Hồng Y Laghi trả lời, "Đúng vậy, tôi luôn luôn lo sợ rằng các người trẻ cảm thấy họ là người cứu vớt Giáo Hội. Nhưng thực ra trong Giáo Hội cũng đã có những người như vậy!"
Điều đó không chỉ giới hạn nơi linh mục trẻ. Tôi có một cha sở già ở St. Louis là người thực sự tin rằng giáo xứ, giáo phận, nếu không muốn nói là toàn thể Giáo Hội, sẽ đổ nát nếu ngài không tiếp tục công việc như bây giờ. Vì lý do đó, ngài không bao giờ đi nghỉ hè, và nếu có, ngài trở về rất sớm, rồi điên cuồng hỏi cha phó, "Mọi sự êm đẹp chứ? Có gì xảy ra không?" và ngài cảm thấy khó chịu khi giáo xứ, giáo phận, và Giáo Hội hoàn vũ vẫn tiếp tục tồn tại trong thời gian ngài đi vắng. Một năm kia, khi cha sở đi vắng, cha phó để bảng bán nhà ngay đằng trước nhà thờ, nhà xứ, và trường học, và khi trở về, cha sở như muốn điên!
Hãy nhớ điều này khi bạn đến một giáo xứ. Có những điều làm bạn không vui, những kiểu cách hay phương cách thi hành mà có lẽ không giống như bạn muốn, hãy khiêm tốn chấp nhận. Tôi không nói về các vấn đề đức tin hay luân lý, nhưng kiểu cách, thói quen, thủ tục. Hãy khiêm tốn, từ từ, kiên nhẫn, nhẹ nhàng đưa bạn vào đời sống giáo xứ. Hãy thú nhận là bạn có thể học hỏi thêm. Hãy tự nhắc nhở mình rằng giáo xứ này đã có từ lâu trước khi bạn đến, và nó vẫn tiếp tục sau khi bạn đi, và như thế, dù Đấng Cứu Thế sẽ làm việc một cách độc đáo qua bạn là một linh mục, bạn không phải là Đấng Cứu Thế.
Một linh mục mà tôi rất tôn trọng cho biết một trong những vấn đề có liên can đến các linh mục trẻ của giáo phận ngài là điều mà ngài gọi là "kiểu cách giữ đồ thờ" của họ. Ngài nói một số linh mục này đến giáo xứ và chỉ trong một vài Chúa Nhật họ đã làm cho các thừa tác viên, ca trưởng, ban phụng vụ, và giáo lý viên phải khóc vì họ tuyên bố một cách trắng trợn rằng tất cả mọi thứ trong giáo xứ đều sai lầm, và họ phải dạy bảo mọi người làm thế nào cho đúng. Thật là não trạng Pelagius, ngạo mạn! Một giám mục cho tôi biết về một linh mục cựu chủng sinh của trường này, "Anh ta rất chịu khó học, bản thân thánh thiện, hăng say, giảng giỏi. Tôi thán phục sự trung thành của anh ta đối với huấn quyền và Đức Thánh Cha. Tôi cần anh và tài năng của anh để giúp tôi trông coi giáo phận này theo đường hướng mà tôi thấy cần phải theo. Nhưng hãy nhìn kiểu cách của anh! Và đây là lần thứ ba anh được bài sai chứ đâu phải lần đầu! Anh xa cách với mọi người! Anh đến và làm mọi người chán ngán vì kiểu cách kiêu căng, ưa phán đoán, như cứu chúa! Anh đã gây thiệt hại cho sự trung thực và chính thống hơn là làm lợi!"
Phải khiêm tốn! Giáo Hội đã có một Chúa Cứu Thế và tôi không phải là Người!
Một cạm bẫy thứ hai trên con đường khiêm tốn là chủ nghĩa thực dụng. Đặc biệt là đối với người Hoa Kỳ chúng ta về vấn đề thực tiễn, muốn hoàn tất công việc; chúng ta là những người thiên về nhiệm vụ và nghĩ rằng mọi sự đều có thể hoàn tất qua hành động, nỗ lực và mồ hôi. Chiều hướng thực dụng quá đáng có thể làm chết nghẹt đức khiêm tốn. Phải, Thiên Chúa muốn chúng ta làm việc, nỗ lực, nhưng, "Nếu Chúa không dựng nên căn nhà, người thợ nề đâu có đổ mồ hôi. "
Chúng ta không được xác định bởi những gì chúng ta làm, số tiền chúng ta kiếm được hay làm ra được, hay những gì chúng ta thành đạt, nhưng bởi chính con người chúng ta, và chúng ta thường gần Chúa khi chúng ta yếu đuối, trống rỗng, và thấp kém nhất. Để thú nhận điều đó, cần có đức khiêm tốn, và có thể làm cho người thực dụng điên tiết.
Tôi yêu cầu các chủng sinh áp dụng điều đó vào ơn gọi của họ ngay bây giờ: bốn hay năm năm chờ đợi và chuẩn bị, bồn chồn, thiếu kiên nhẫn, hăng hái tiến bước, để sản xuất, để thành đạt. Chúa và Giáo Hội lại nói: Hãy từ từ! Hãy chuẩn bị! Hãy sẵn sàng! Những năm chuẩn bị là điều hiển nhiên nếu bạn muốn trở nên một tông đồ hữu hiệu. Phải, chúng ta thích máy "microwave" cho thực phẩm vào, nhấn nút; chỉ vài phút là có ăn. Chúa, Giáo Hội lại thích cái nồi đất; nấu từ từ, thêm mắm muối, thật chín, và sau đó mới lấy ra ăn. Và thực phẩm từ cái nồi đất luôn luôn ngon hơn thức ăn từ máy "microwave" (vi sóng).
Còn thí dụ nào tốt hơn là gương của chính Thầy chúng ta? Ba mươi năm âm thầm chuẩn bị cho ba năm hoạt động. Không người thực dụng nào lại hoạch định như thế cả! Tháng Hai là tháng dành riêng để kính nhớ "Cuộc Đời Ẩn Giấu của Chúa Giêsu", ba mươi năm âm thầm, cầu nguyện, đón chờ, lắng nghe, phát triển, vâng phục Đức Mẹ và Thánh Giuse, thật khiêm tốn là dường nào! Với chủng sinh nào bị chán nản với đời sống chậm chạp của chủng viện tôi đề nghị chiêm niệm về "Cuộc Đời Ẩn Giấu của Chúa Giêsu".
Sự khiêm tốn kiên nhẫn, trái với chủ thuyết thực dụng năng nổ, thì được thấy hiển nhiên trong cuộc đời của các linh mục vui vẻ và bình an bất cứ đâu ngài đến. Vì sự quyến dũ của chủ thuyết thực dụng có thể làm cho một người bồn chồn trong chủng viện thì cũng làm họ bất an trong đời sống linh mục. Do đó, nhiều linh mục sắp sẵn sự nghiệp của mình; chưa chấm dứt ở giáo xứ này đã muốn nhảy sang giáo xứ khác. Họ hoạch định và in sẵn lý lịch và rồi những bài sai ngớ ngẩn cản mũi kỳ đà. Phải như đức giám mục nghe lời tôi và đưa tôi đến… có thực tiễn không? Đúng! Có khiêm tốn không? Không!
Hãy nhớ đến đức tính khiêm tốn trong lời hứa vâng phục mà chúng ta long trọng tuyên bố trong lễ phong chức phó tế và linh mục. Quỳ gối, một vị thế của sự yếu đuối, với đôi tay bạn trong tay đức giám mục, hứa vâng lời trong suốt cuộc đời: tham vọng của bạn, chương trình của bạn, ưu tiên của bạn được coi là thứ yếu so với Giáo Hội.
Bạn sẽ nghe các linh mục khôn ngoan nói rằng: "Đừng bao giờ xin công việc gì, cũng đừng bao giờ xin ra khỏi công việc đó". Lời khuyên không đến nỗi tệ nhưng thật khó cho những ai không nắm vững sự khiêm tốn.
Cái bẫy thứ ba trên con đường khiêm tốn: áp lực bất thường trên các quyền lợi cá nhân. Người Hoa Kỳ chúng ta thật sung sướng khi là công dân của một quốc gia mà nó phát xuất từ sự chú trọng đến các quyền lợi của con người, và thật đúng như vậy: chúng ta thuộc về một Giáo Hội vô địch về nhân quyền, được chăn dắt bởi một chủ chăn nổi tiếng thế giới là người bảo vệ nhân quyền, tạ ơn Chúa! Tôi không muốn nói về điều này, nhưng về sự phức tạp đưa đẩy chúng ta đến sự tin tưởng rằng chúng ta phải có được những gì xảy đến với chúng ta, chúng ta đáng được hưởng những lối đối xử và ưu tiên đặc biệt. Do đó, chúng ta chán nản khi không được giao cho các công việc mà chúng ta nghĩ là đáng được, hay không được nhận biết mà chúng ta cảm thấy phải như thế. Đức giám mục không quý trọng tôi, cha xứ không nhận biết những công việc tôi đã làm, dân chúng không biết rằng họ thật may mắn khi có tôi!
Chúng tôi có một linh mục tốt lành ở St. Louis, ngài nổi tiếng hăng hái và khiêm tốn. Ngài làm cha xứ một họ đạo nghèo, chật vật. Có một chỗ béo bở trong giáo phận mở ra và hầu hết các linh mục đều chờ Đức Hồng Y Carberry gọi điện thoại để đưa họ về chỗ béo bở ấy.
Vị linh mục khiêm tốn này nhận được điện thoại. Đức hồng y nói: "Tôi muốn cha làm cha sở của giáo xứ Thánh Clement. "
"Cám ơn Đức hồng y, nhưng con sung sướng khi ở được ở đây, và còn có nhiều người giỏi hơn con. "
"Nhưng tôi muốn cha, " Đức hồng y trả lời. "Trước mặt tôi là hai mươi ba lá thư từ những người muốn về đó; cha nghĩ là không xứng đáng, bây giờ cha là cha sở ở đó. "
Những linh mục buồn thảm là những người cảm thấy họ không được nhìn đến. Họ khao khát được thăng tiến trong Giáo Hội và những vinh dự của hàng giáo sĩ. "Cơn sốt đỏ" là tên thường được gọi, và đó là vi trùng nguy hiểm trong đời sống giáo sĩ.
Những chú trọng quá đáng đến "quyền lợi của tôi, đặc quyền của tôi" thường dẫn đến sự nguy hiểm tâm linh và bệnh hoạn về cảm xúc, đó là cảm thấy tội nghiệp cho chính mình. Tính vị kỷ gặm nhấm vết thương lòng, nhớ lại những lần mà chúng ta cho là bị coi thường, bị lợi dụng, không được biết ơn. Hãy coi chừng! Đó là khi chúng ta sắp sửa gieo mình xuống vực thẳm của tình dục; nghiện ngập; giao tiếp một cách bất lợi với những người cùng chúng ta cay đắng soi mói và điều đó ảnh hưởng đến các giáo sĩ nghĩ rằng quyền lợi của họ đã bị vi phạm.
Đức khiêm tốn dạy chúng ta phải lánh xa những điều ấy, khi chúng ta thú nhận rằng thực sự chúng ta không đáng được gì cả, và như thế, rốt cục là, các vinh dự, sự chú trọng, và thanh danh thì nguy hiểm và tốt hơn chúng ta nên tránh. Theo lời của Thánh Phaolô, "Nếu tôi kiêu hãnh, tôi kiêu hãnh trong thập giá của Chúa Giêsu Kitô. "
Sự chú trọng quá đáng đến quyền lợi cá nhân là một nhấn mạnh quá đáng đến cái tôi, là sự trái ngược với đường hướng phải có. Mẹ Têrêsa, với tính tình đơn giản của ngài, nói rằng thứ tự thích hợp của quyền ưu tiên là J-O-Y:
J - Jesus (Chúa Giêsu)

O - Others (Tha nhân)



Y - You (chính bạn)
Trở ngại thứ bốn trên đường khiêm tốn là tính anh hùng rơm. Là đàn ông thì không cần sự giúp đỡ! Là đàn ông thì không thể thú nhận sự yếu đuối của mình! Là đàn ông thì có thể thi hành bất cứ gì ở trong đầu! Là đàn ông thì không khóc! Là đàn ông thì không có giới hạn!
Chỉ có người khiêm tốn mới có tất cả những điều vừa kể! Sự khiêm tốn giúp chúng ta ý thức về sự yếu đuối, sự mỏng dòn, những lỗi lầm của chúng ta, giúp nhận thức rằng chúng ta cần mọi sự giúp đỡ từ Thiên Chúa, từ tha nhân. Như thế, chúng ta không sợ khi phải quỳ xuống và cầu nguyện, khi tâm sự với người bạn, khi mở lòng cho vị linh hướng, khi tìm sự hỗ trợ của người khác, ngay cả khi tìm kiếm sự giúp đỡ của các nhà chuyên môn trong lãnh vực y khoa hay cố vấn.
Tôi vừa nghe một trường hợp đáng buồn của một linh mục nổi tiếng, ngài mất giáo xứ, mất địa vị trong giáo phận, và bây giờ mất cả chức linh mục chỉ vì ngài từ chối không thú nhận rằng ngài cần sự giúp đỡ của các người chuyên môn để đối phó với vấn đề tình dục và nghiện rượu, và ngài khước từ thái độ hòa nhã nhưng cương quyết của đức giám mục khi nói rằng ngài cần được sự giúp đỡ hoặc bị ngưng chức. Đây có thể là một anh hùng rơm, nhưng không phải là một người khiêm tốn.
Và đây là cạm bẫy sau cùng mà tôi muốn nhắc đến: một não trạng duy lý tự đắc khiến chúng ta nghĩ là mình phải hiểu biết mọi sự, cho rằng Thiên Chúa cần sự giải thích của chúng ta, và cho rằng bộ não của chúng ta có thể hiểu biết tất cả, do đó đời sống không còn gì phải lo sợ hay còn có những bí ẩn.
Hãy so sánh điều này với lời cầu xin khiêm tốn trong Thánh Vịnh 131:
Lòng con chẳng dám tự cao,

mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi!

Đường cao vọng, chẳng đời nào bước,

việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu;

hồn con, con vẫn trước sau

giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình.

Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ,

trong con, hồn lặng lẽ an vui.
Bởi đó, Thánh Tôma Aquinô, nhà thần học vĩ đại, khi nhìn lại toàn bộ công trình của cuộc đời ngài và nói: "Tất cả chỉ là rơm rác so với mầu nhiệm chập chùng và sự vĩ đại cũng như lòng thương xót của Thiên Chúa. "
Có lẽ đã nói đủ về những nguy hiểm, còn những giúp đỡ cho sự khiêm tốn thì sao?
Điều đầu tiên, không ngạc nhiên gì, đó là cầu nguyện. Như Đức Giám Mục Sheen đã nói: "Chỉ người khiêm tốn mới cầu nguyện, vì sự cầu nguyện có nghĩa chúng ta cần người nào đó và điều gì đó." Có câu tục ngữ về hai bài học quan trọng trong đời là, thứ nhất, có một Thiên Chúa; thứ hai, tôi không phải là Người!
Tôi thấy hữu ích khi vừa cầu nguyện và vừa suy tưởng về đôi mắt của Đức Kitô đang nhìn đến tôi, xuyên thấu con người của tôi: như khi Người "nhìn kỹ" đến chàng thanh niên giầu có, khi Người nhìn đến một phụ nữ ở giếng nước, khi Người nhìn đến Phêrô sau ba lần chối từ, con mắt của Đức Kitô xuyên thấu chúng ta. Không một tư tưởng, lời nói hay hành động nào có thể giấu được: Người biết chúng ta rõ hơn chúng ta biết chính mình. Chúng ta trở nên rỗng tuếch, nghèo nàn, lộ liễu, yếu ớt, tan nát trước cái nhìn đó, tuy vậy đó là đôi mắt đầy thương yêu, đón nhận. Sự suy tưởng đó giúp chúng ta khiêm tốn.
Trong lần đầu tiên đi coi xứ, một trong những lần cho kẻ liệt rước lễ là một phụ nữ rất thế giá ở St. Louis mà cha xứ cho biết bà đang bị ung thư. Khi tôi gọi để hẹn, bà rất cẩn thận cho biết tôi không thể đến trước 11g30 sáng thứ Sáu. Khi đến, tôi thấy bà trông rất mạnh khỏe. Mỗi sáng thứ Sáu đều giống nhau.
Một ngày kia, khi lái xe đến gần nhà bà, tôi quyết định bất ngờ ghé thăm. Người y tá ra mở cửa, và khi tôi bước vào, tôi thấy bà thở hổn hển vội vã đẩy chiếc xe lăn lánh mặt không cho tôi nhìn thấy. Bà không còn phấn son, không còn một chút tóc, vàng vọt bệnh hoạn, hiển nhiên là sắp chết. Tôi mới hiểu mỗi sáng Thứ Sáu bà phải mất hàng giờ để chuẩn bị, và giờ đây tôi ngạc nhiên khi trông thấy con người thật của bà yếu đuối, xấu xa, trọc lóc, vàng vọt, già nua và sắp chết. Bà khóc lóc, "Ôi cha ơi, con không bao giờ muốn bất cứ ai thấy con như thế này. Con xấu hổ quá!"
Những gì tôi có thể làm là ôm lấy bà và trấn an bà là tôi vẫn đối xử với bà như trước, tôi yêu quý và chăm sóc linh hồn bà. Sau đó chúng tôi nói chuyện về cái chết, về sự đau khổ, và về Thiên Chúa.
Đó là thái độ khiêm tốn phải có của chúng ta khi cầu nguyện. Chúa nhìn thấy chúng ta mà không có gì giả mạo được, đầy khuyết điểm và đủ mọi thứ, yếu ớt, bệnh hoạn, bơ vơ và sợ hãi. Không có gì làm Người kinh ngạc. Đôi mắt Người xuyên thấu chúng ta.
Thánh Julian Norwich có viết: "Đối với Đức Kitô, Ngài thật mãn nguyện khi có một linh hồn đơn sơ đến với Ngài, linh hồn ấy trơ trụi, mộc mạc, và không khoe khoang. "
Đối với tôi, một trong những giây phút cảm động trong nghi thức đặt tay truyền chức là các ứng viên nằm phủ phục trên sàn. Đó là một tư thế thực sự khiêm tốn! Trước mặt Thiên Chúa, trước mặt Giáo Hội, họ bất lực, trống rỗng, vì chỉ như vậy ơn của Chúa mới có thể bén rễ. Thỉnh thoảng hãy dùng tư thế ấy để cầu nguyện cũng là một điều tốt.
Có lần tôi nghe Đức Tổng Giám Mục Emory Kabongo, cựu thư ký riêng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết, có lần khoảng 3 giờ sáng một có cú điện thoại của Thứ Trưởng Tòa Thánh gọi đến văn phòng để cho đức giáo hoàng biết về một tình hình khẩn trương trên thế giới.
Đức Tổng Kabongo điện thoại vào phòng ngủ của đức giáo hoàng, không ai trả lời. Lo lắng, ngài đích thân đến phòng ngủ, gõ cửa và đi vào, không thấy đức giáo hoàng. Ngài liếc mắt qua nhà nguyện, cũng không có ai. Ngài vào bếp, phòng ăn, thư viện riêng, cũng không có ai. Ngài lên khu vườn trên sân thượng, cũng không ai ở đó. Lần này, ngài thận trọng trở về tất cả những chỗ đã ghé qua, và trong nhà nguyện, ngài thấy Đức Gioan Phaolô II đang phủ phục trên sàn để cầu nguyện.
Một sự giúp đỡ thứ hai cho sự khiêm tốn đó là thường xuyên, thành khẩn xưng tội. Cựu giám mục của Springfield, Illinois, Đức Cha Giuse McNicholas, có lần nói trong buổi tĩnh tâm: "Nếu các bạn trung thành với việc xưng tội thành thật, khiêm tốn, tối thiểu mỗi tháng một lần, các bạn sẽ là linh mục tốt." Lúc ấy, tôi nghĩ điều ấy quá đơn giản, nhưng giờ đây, càng ngày tôi càng thấy đó là sự thật. Việc xưng tội thường xuyên, tỉ mỉ, có giá trị thì tự nó là sự khiêm tốn khi chúng ta thành thật kể ra tội lỗi của mình; và chính khi đó là nguồn mạch của ơn sủng và nhân đức!
Sẵn sàng nghe chỉ trích. Người ta nói rằng Tổng Thống Lyndon Johnson luôn luôn chỉ định một thành viên trong bộ tham mưu để gặp ông ta hàng tuần chỉ để phê bình những sai trái của tổng thống. Tổng Thống Johnson còn cảnh cáo là nếu nhẹ lời phê bình, họ sẽ bị sa thải. Thật đáng hoan nghênh! Sẵn sàng nghe chỉ trích là một bước nhảy vọt đến sự khiêm tốn. Chúng ta đón nhận sự chỉ trích từ các cha giải tội, các vị linh hướng, giáo dân, các cộng tác viên, anh em linh mục, các bề trên.
Dấu hiệu của một người bạn tốt là người dám tin tưởng vào sức mạnh của tình bạn để có thể nói cho chúng ta nghe những gì chúng ta cần nghe, dù nhiều khi chúng ta không muốn.
Lời khuyên mà tôi muốn gửi đến các linh mục trẻ, đúng hơn, cho bất cứ linh mục nào, là thỉnh thoảng ngồi xuống với cha xứ để xin nghe lời phê bình. "Cha thấy con làm việc thế nào?" "Con làm có đúng không?" "Cha có nhận xét gì về bài giảng, thừa tác vụ, và kiểu cách của con không?" "Cha có nhận thấy lỗi lầm nào của con không?"
Không ai trong chúng ta muốn nghe phê bình hay điều xấu về chính mình, vì chúng ta tự đắc. Nhưng sẵn sàng nghe chỉ trích là một sự trợ giúp lớn lao cho đức khiêm tốn.
"Ai là người không có khuyết điểm?" Thánh Bernard đã hỏi như thế. "Người nào nghĩ mình không thiếu sót gì, đó là người thiếu sót mọi sự. "
Cảm giác bình an khi nghĩ mình là một linh mục trong suốt cuộc đời ở giáo xứ có thể không phải là điều quá đáng. Chủng viện là để chuẩn bị cho các ứng viên trở thành các linh mục hăng say, trung thành, đắc lực: thật đúng là một số sẽ dạy học, một số làm việc ở tòa giám mục, ngay cả một số khác làm việc với Tòa Thánh; cũng có người trở thành tuyên uý quân đội hay làm việc trong chủng viện, nhưng nếu bạn không đủ khiêm tốn để quyết tâm trở thành một linh mục giáo xứ suốt đời, bạn phải nghĩ lại ơn gọi làm linh mục của mình.
Hãy thành thật: Các linh mục được huấn luyện theo truyền thống La Mã đôi khi bị chỉ trích là tâm hồn họ để ở bên ngoài việc mục vụ giáo xứ, và một số giám mục cũng như cha giám đốc, cám ơn Chúa là không nhiều, nói với tôi rằng họ do dự gửi các linh mục sang đây chỉ vì họ cảm thấy sau này các linh mục ấy không vui khi phải làm việc trong một giáo xứ bình thường, sau năm năm quen với mùi hương đền Thánh Phêrô và quen đi mua sắm ở Gammerelli. Làm thế nào mà bạn có thể cầm chân họ ở nông trại sau khi họ được thấy Thánh Phêrô?" Thật không công bằng, tôi tin như thế, nhưng điều phê bình này đáng cho chúng ta suy nghĩ khi phải gạt bỏ khỏi tâm hồn bất cứ tham vọng nào mà nó cản trở chúng ta không muốn trở thành một mục tử chăn dắt các linh hồn.
Sẵn sàng thú nhận là rất có thể chúng ta không được mời gọi để trở thành linh mục, đó cũng là một hành động khiêm tốn cho một chủng sinh. Không bao giờ chúng ta bị trượt chân vào chức linh mục, làm linh mục chỉ vì đó là bước kế tiếp không thể tránh khỏi. Chén lễ của thầy ấy đã được đặt mua rồi. Sự khiêm tốn đích thực thúc giục chúng ta phải thú nhận là rất có thể chúng ta không được mời gọi đến chức linh mục. Chúng ta không thể chấp nhận lời mời gọi ấy một cách tự do, phải lẽ và trưởng thành ngoại trừ chúng ta có đủ khiêm tốn để thú nhận rằng rất có thể chúng ta không có ơn gọi ấy.
Bây giờ, điều này nghe có vẻ quá hiển nhiên, nhưng tất cả những gì bạn cần là lắng nghe câu chuyện thú vị của những người vừa từ bỏ chức linh mục khi họ nói: "Tôi lỡ bước vào, tôi không bao giờ thực sự tự do nhận chức linh mục. Khi tôi đến Rôma thì nhiều điều bỗng dưng xảy đến, và kế đó là tôi thấy mình được mặc áo. " Làm thế nào điều này có thể xảy ra được, tôi cũng không biết, nhưng nó thường xảy ra, và đừng để nó xảy ra cho bạn. Hãy khiêm tốn thú nhận là rất có thể bạn không được mời gọi làm linh mục.
Hãy biết mình! Có người khen Thánh Gioan Vianney là một cha giải tội nổi tiếng, ngài trả lời: "Nếu tôi là một cha giải tội nổi tiếng, đó chỉ vì tôi là một người tội lỗi đầy mình!" Chúng ta biết rõ về chính mình; chúng ta rất ý thức về yếu điểm của mình để đừng bao giờ đưa mình đến các dịp dễ sa ngã phạm tội.
Một linh mục tôi quen biết, quý mến và tôn trọng, là người ảnh hưởng rất nhiều đến ơn gọi của tôi, mời tôi đi nghỉ hè với ngài ở Las Vegas. Ngài thích chơi "golf", coi văn nghệ (show), ngay cả đánh bài chút đỉnh. Khoảng hai tuần trước khi đi, tôi phải bỏ chương trình vì cha phụ tá phải vào nhà thương gấp. Khi tôi gọi ngài cho biết điều ấy, ngài rất thất vọng, và tôi nói: "Nhưng cha vẫn có thể đi một mình chứ sao đâu." Tôi không bao giờ quên được câu trả lời của ngài: "Tôi không bao giờ tin vào chính mình khi ở Las Vegas." Đây là một con người gương mẫu của đức khiêm tốn, ngài biết rõ chính mình nên không đưa mình vào các dịp dễ sa ngã phạm tội. Đó là sự khiêm tốn.
Bạn từng nghe về Matt Talbot, một giáo dân Ái Nhĩ Lan, nghiện rượu khi mười hai tuổi, và nhờ sự cầu nguyện, sám hối và biết mình nên đã trở nên điều độ và thánh thiện. Khi ngài từ sở về nhà hàng đêm, ngài đi sang bên kia đường chứ không đi ngang các quán rượu, vì ngài biết rõ chính mình và khiêm tốn thú nhận là chỉ cần ngửi thấy mùi rượu không thôi cũng có thể làm ngài sa ngã. Đó là loại biết mình mà nhờ đó có thể triển nở đức khiêm tốn.
Đức Hồng Y Newman nói: "Làm thế nào để chúng ta cảm thấy cần sự trợ giúp của Chúa, hoặc trông nhờ vào Người, hoặc mắc nợ với Người nếu chúng ta không biết chính mình?"
Khiêm tốn, một nhân đức được Chúa ưa thích, một viên đá nền móng của sự thăng tiến trong đời sống Thiên Chúa, một đức tính chủ yếu cho sự trung thành và hiệu lực của linh mục: có những cản trở sự khiêm tốn, có những trợ giúp cho sự khiêm tốn; nhưng không thể có sự thay thế cho đức khiêm tốn.
Chúng ta hãy đọc Kinh Khiêm Tốn của Đức Hồng Y Raphael Merry del Val:
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng,

Xin lắng nghe con.

Xin giải thoát con

Khỏi ao ước được yêu thương,

Khỏi ao ước được tán dương,

Khỏi ao ước được vinh dự,

Khỏi ao ước được chúc tụng,

Khỏi ao ước được quý trọng hơn người khác,

Khỏi ao ước được hỏi ý kiến,

Khỏi ao ước được công nhận,

Khỏi ao ước được nổi tiếng,

Khỏi sợ hãi bị lăng nhục,

Khỏi sợ hãi bị khinh miệt,

Khỏi sợ hãi bị đau khổ vì khiển trách,

Khỏi sợ hãi bị vu oan,

Khỏi sợ hãi bị quên lãng,

Khỏi sợ hãi bị sai lầm,

Khỏi sợ hãi bị nhạo cười,

Khỏi sợ hãi bị hồ nghi.
Xin ban cho con ơn sủng để ao ước rằng

Người khác được yêu thương hơn con,

Người khác được quý trọng hơn con,

Người khác lớn lên, con lại nhỏ đi theo quan điểm của thế gian.

Người khác được chọn và con bị loại bỏ,

Người khác được ca tụng và con bị lãng quên.

Người khác được ưa chuộng đủ mọi điều hơn con.

Người khác được thánh thiện hơn con,

miễn là con được thánh thiện đúng với bổn phận của con.
Lạy Đức Bà Khiêm Tốn

Cầu cho chúng con.




tải về 2.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương