N.T.X. Sơn / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 228‐239
235
chuẩn Quy chế Rome trước sau đó họ sẽ tranh
thủ khoảng thời gian từ lúc phê chuẩn đến lúc
Quy chế có hiệu lực để dự thảo và thông qua
luật thực thi. Lý do được đưa ra là nhằm thúc
đẩy việc phê chuẩn Quy chế Rome được diễn ra
nhanh hơn thường lệ, làm cơ sở cho Tòa án ICC
sớm đi vào hoạt động .
Đối với các nước phê chuẩn hoặc gia nhập
mới sau khi Quy chế có hiệu lực, hoạt động
đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật quốc gia
với quy định của Quy chế Rome lại diễn ra
trước khi họ chấp nhận hiệu lực của Quy chế
Rome. Quyết định của các nước thuộc nhóm
thứ hai là dễ hiểu: ngay từ thời điểm Quy chế
có hiệu lực đối với họ, ICC đã có thể thực hiện
thẩm quyền đối các hành vi thực hiện trên lãnh
thổ của họ, hoặc do công dân của họ thực hiện.
Để tránh ICC thực hiện thẩm quyền, các quốc
gia cần có cơ sở pháp lý trong nước để các cơ
quan của họ có thể thực hiện thẩm quyền theo
nguyên tắc thẩm quyền bổ sung của Tòa án.
Đồng thời, cũng từ thời điểm Quy chế có hiệu
lực đối với quốc gia, Tòa án có thể yêu cầu sự
hợp tác theo quy định của Quy chế. Để thực
hiện được yêu cầu này, các cơ quan của quốc
gia cũng cần có những cơ sở pháp lý quy định
trong các văn bản trong nước.
3.2. Một số vấn đề cơ bản trong thực thi Quy
chế Rome
a. Vấn đề nội luật hóa các quy định về các tội
phạm theo Quy chế Rôm vào pháp luật quốc gia
Để tạo cơ sở pháp lý cho các tòa án quốc
gia có thẩm quyền điều tra và truy tố các tội
phạm được quy định trong Quy chế Rome, các
quốc gia phải nội luật hóa các quy định liên
quan đến các tội phạm này. Tất cả các quốc gia
thành viên đều thực hiện công việc này trừ khi
một quốc gia nào đó không có ý định thực hiện
quyền tài phán với các tội phạm theo Quy chế
Rome. Việc nội luật hóa các quy định về các tội
phạm của Quy chế Rome vào luật hình sự của
các quốc gia hướng tới các mục đích:
(1) Chứng minh rằng các tội ác quốc tế
nghiêm trọng nhất có thể bị trừng phạt theo
pháp luật quốc gia, trên cơ sở đó cho phép các
tòa án của các quốc gia thực hiện quyền tài
phán đối với các tội phạm thuộc thẩm quyền
của ICC;
(2) Để có thêm sự lựa chọn cho các quốc
gia: hoặc tự mình tiến hành truy tố, xét xử hoặc
để ICC thực hiện thẩm quyền này;
(3) Ngăn chặn việc các quốc gia sẽ trở
thành những nơi ẩn náu an toàn cho các tội ác
đã thực hiện ở các quốc gia khác;
(4) Thúc đẩy sự hoàn thiện của hệ thống tư
pháp hình sự quốc gia để có khả năng điều tra
và truy tố các tội ác nghiêm trọng.
Trên thực tế, các quốc gia có xuất phát điểm
lập pháp và cách thức giải quyết hết sức đa
dạng về vấn đề này. Đối với những quốc gia đã
quy định trong luật hình sự trong nước các tội
phạm này, việc thực thi quy chế Rome sẽ không
quá phức tạp. Trái lại, đối với những nước
khác, hoặc họ phải ban hành một đạo luật riêng,
hoặc bổ sung vào văn bản trong nước các tội
phạm này. Về mặt nội dung, có thể phân các
nước thành ba nhóm khác nhau trong trong việc
nội luật hóa các quy định của Quy chế Rome về
các tội ác quốc tế.
Nhóm thứ nhất, các quốc gia định nghĩa các
tội phạm giống như quy chế Rome. Thông thường
đó là những trường hợp mà pháp luật quốc gia
dẫn chiếu đến Quy chế Rome khi quy định về các
tội ác quốc tế, chẳng hạn trường hợp của New
Zealand và Vương quốc Anh. Cũng trong nhóm
này, một số quốc gia sao chép lại trong luật của
họ các quy định tương đương trong điều 6, điều 7
và điều 8 của Quy chế Rome.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |