MỤc lục trang Lời nói đầu



tải về 5.19 Mb.
trang17/26
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích5.19 Mb.
#36638
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   26

Do không khí đất có độ dẫn nhiệt cực nhỏ, đất có lượng không khí nhiều có độ dẫn nhiệt nhỏ. Như vậy khi đất khô thì đất truyền nhiệt qua các phần rắn và không khí đất nên độ dẫn nhiệt của đất nhỏ. Khi độ ẩm tăng lên, nước thay thế không khí trong khe hở, do vậy độ dẫn nhiệt của đất tăng nhanh.

Độ dẫn nhiệt của đất phụ thuộc rất nhiều vào độ xốp đất. Khi đất có độ xốp cao, đặc biệt là đất khô, độ dẫn nhiệt rất thấp.

Bảng 4.10 cho thấy sự ảnh hưởng của đồng thời về thành phần thể rắn trong đất (cát, sét hay mùn), độ xốp và hàm lượng nước trong đất tới độ dẫn nhiệt của đất.



4.7.3. Biện pháp điều tiết chế độ nhiệt của đất

Chế độ nhiệt của đất là một chỉ tiêu khó điều chỉnh. Mặc dù vậy có thể dùng một số phương pháp sau để điều chỉnh nhiệt độ đất:



4.7.3.1. Che phủ mặt đất

Đây là một biện pháp được đánh giá là thực sự có hiệu quả cho việc điều tiết chế độ nhiệt trong đất. Tác dụng che phủ không những điều tiết chế độ nhiệt mà còn có nhiều vai trò khác như giữ ẩm, bảo vệ đất chống xói mòn, hạn chế cỏ dại...

Che phủ đất có tác dụng làm giảm nhiệt độ đất về mùa hè do hạn chế được lượng ánh sáng mặt trời chiếu thẳng vào đất. Đồng thời che phủ có tác dụng giữ được ấm cho đất về mùa đông do che phủ hạn chế được sự mất nhiệt qua bức xạ nhiệt bởi hơi nước và do gió. Để áp dụng biện pháp kỹ thuật này thì việc tăng cường trồng xen, trồng gối, tận dụng sản phẩm phụ rất cần được quan tâm.

4.7.3.2. Điều tiết chế độ nhiệt của đất

Có thể nói điều tiết chế độ nước cũng chính là điều tiết chế độ nhiệt của đất. Như ta đã biết nhiệt độ đất phụ thuộc rất nhiều vào chế độ ẩm. Nước ảnh hưởng đến nhiệt dung đất, bốc hơi làm mất nhiệt của đất...

Tưới nước cho đất có tác dụng làm giảm nhiệt độ đất về mùa hè do tăng nhiệt dung đất và tăng cường quá trình bốc hơi. Nhưng đất được tưới lại có nhiệt độ cao hơn đất không tưới ở mùa đông. Do đất có nhiệt dung lớn nên nhiệt độ giảm chậm.

Ví dụ: Trong kinh nghiệm chống rét cho mạ xuân của nông dân Việt Nam người ra thay nước vào ruộng mạ lúc chiều tối và tiêu nước ở ruộng mạ vào sáng hôm sau. Đây chính là biện pháp lợi dụng nước để làm tăng nhiệt dung đất. Ban đêm do cần để đất giảm nhiệt độ chậm nên nông dân tháo nước và để tăng nhiệt dung đất. Ngược lại vào ban ngày nông dân tháo nước ra để làm giảm nhiệt dung, giúp cho đất tăng nhanh nhiệt độ khi có chiếu sáng của mặt trời.



4.7.3.3. Sử dụng các biện pháp kỹ thuật khác

Các biện pháp phù hợp và khai thác chế độ nhiệt hiện có, đó là:

- Chọn cơ cấu cây trồng chịu rét cho vụ đông đặc biệt là các loại cây trồng sườn Bắc.

- Bố trí thời vụ gieo trồng sao cho giảm được tác động xấu của nhiệt độ khắc nghiệt như thời gian gieo trồng, thời kỳ cây còn non, cây ra hoa trùng vào thời gian nhiệt độ quá thấp...



CÂU HỎI ÔN TẬP

  1. Hạt cơ giới là gi? Thành phần cơ giới là gì?

  2. Phân chia cấp hạt cơ giới đất như thế nào?

  3. Nêu cách phân loại đất theo thành phần cơ giới của Liên Xô (cũ), Mỹ, Quốc tế

  4. Trình bày tính chất đất theo thành phần cơ giới và biện pháp sử dụng, cải tạo chúng?

  5. Trình bày cách xác định thành phần cơ giới theo phương pháp vê giun?

  6. Kết cấu đất là gì?

  7. Nêu vai trò của kết cấu đất?

  8. Trình bày trạng thái tồn tại của kết cấu đất?

  9. Trình bày quá trình hình thành kết cấu đất?

  10. Phân tích các yếu tố hình thành kết cấu đất?

  11. Nêu các yếu tố làm đất mất kết cấu?

  12. Những phương pháp làm cải thiện kết cấu đất?

  13. Tỷ trọng đất là gì?

  14. Trình bày dung trọng đất, ứng dụng dung trọng đất trong thực tiễn?

  15. Độ xốp của đất là gì?Độ xốp của đất phụ thuộc vào những yếu tố nào?

  16. Nêu vai trò của việc nghiên cứu các tính chất cơ lý đất?

  17. Trình bày tính trương co của đất?

  18. Trình bày tính liên kết của đất?

  19. Trình bày tính dính của đất?

  20. Trình bày tính dẻo của đất?

  21. Trình bày sức cản của đất?Cần làm đất khi nào để đất có sức cản riêng nhỏ nhất?

  22. Nêu vị trí và vai trò của nước trong đất?

  23. Trình bày các dạng nước trong đất?

  24. Trình bày các đại lượng đánh giá ẩm độ của đất?

  25. Trình bày cân bằng nước trong đất?

  26. Trình bày các biện pháp kỹ thuật với chế độ nước trong đất?

  27. Nêu vị trí và vai trò của không khí trong đất?

  28. Trình bày các biện pháp điều tiết chế độ không khí đất ?

  29. Nêu vai trò và nguồn nhiệt cung cấp cho đất?

  30. Trình bày các tính chất nhiệt của đất?

  31. Trình bày các biện pháp điều tiết chế độ nhiệt độ đất ?

CHƯƠNG 5

SỬ DỤNG ĐẤT

5.1. ĐỘ PHÌ ĐẤT


5.1.1. Khái niệm độ phì đất

Trong sản xuất nông lâm nghiệp, đất là tư liệu sản xuất cơ bản, phổ biến và quý báu nhất.Muốn sử dụng đúng từng loại đất phải đánh giá đúng chất lượng của nó. Từ xa xưa nông dân khi canh tác trên mảnh đất của họ đã có nhận xét hết sức giản đơn về độ phì khi thấy năng suất cây trồng tăng hoặc giảm. Về sau này người ta đã đánh giá độ phì nhiêu thông qua việc phân hạng ruộng đất (hạng nhất, nhì, ba v.v...) trên cơ sở thống kê năng suất cây trồng cộng với một số chỉ tiêu đơn giản như chế độ nước, diện tích v.v... Đó cũng là những tư liệu quan trọng trong việc tính thuế đất.

Trên thế giới, trong một thời gian dài người ta đã công nhận định nghĩa về độ phì của Viliam: Viliam đã cho rằng độ phì là khả năng đất cung cấp cho cây không ngừng và cùng một lúc cả nước lẫn thức ăn. Về sau này các tiến bộ về khoa học đất đã cho thấy định nghĩa trên là không đầy đủ, vì nó đã bỏ qua nhiều yếu tố quan trọng khác của đất như kết cấu, chế độ không khí, nhiệt, phản ứng môi trường, khả năng thuận lợi cho canh tác v.v... mà nhiều khi chỉ cần thiếu một yếu tố là cây trồng có thể không cho năng suất được.

Ta đã biết mỗi loại cây trồng có những yêu cầu khác nhau đối với đất. Ví dụ cây chè yêu cầu đất chua, nhưng mía lại cần đất trung tính hơi kiềm, đất ngập nước tốt với cây lúa nước nhưng không tốt với cây sắn. Ngay đối với một loại cây trồng thì giống khác nhau cũng đòi hỏi chế độ dinh dưỡng là khác nhau. Vì vậy khi nhận xét những chỉ tiêu đánh giá độ phì đất phải cụ thể cho từng loại cây trồng. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta không đánh giá chung được độ phì của đất vì đa số cây trồng có những yêu cầu về đất giống nhau.

Trên cơ sở những khái niệm trên, người ta đã đưa ra định nghĩa về độ phì nhiêu của đất như sau: Độ phì nhiêu của đất là khả năng của đất đảm bảo những điều kiện thích hợp cho cây trồng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất.

Khái niệm về độ phì là một khái niệm phức tạp và tương đối, cho nên nếu hiểu một cách máy móc thì rất dễ mắc sai lầm. Vì độ phì chỉ là khả năng (tức là tiềm năng của đất), nên khả năng này không trở thành hiện thực nếu thiếu tác động của con người trên cơ sở những yêu cầu ngoại cảnh của cây trồng. Ví dụ nếu đất tốt (độ phì cao) mà trồng cây không đúng vụ hoặc giống kém v.v... thì chưa chắc đã đạt năng suất cao.

Mặt khác, ta cũng nên hiểu những điều kiện thích hợp cho cây trồng nằm trong giới hạn mà đất có thể đảm bảo được. Đây là cơ sở lý luận cho việc xác định những chỉ tiêu độ phì cơ bản và chỉ tiêu bổ trợ, từ đó đánh giá độ phì của đất.

Khái niệm độ phì cũng là một phân biệt cơ bản giữa đất và đá. Mặc dù khi đá bị phong hoá, vỡ vụn đã có một số tính chất như thấm nước, dinh dưỡng v.v... nhưng nó chưa đủ điều kiện để gọi nó là đất.



5.1.2. Phân loại độ phì đất

Người ta phân độ phì đất thành 5 loại sau:

Độ phì thiên nhiên (độ phì tự nhiên) có trong tất cả các loại đất tự nhiên. Nó xuất hiện trong quá trình hình thành đất dưới ảnh hưởng của đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và thời gian, nó hoàn toàn chưa chịu sự tác động của con người. Độ phì thiên nhiên cao hay thấp phụ thuộc chặt chẽ vào khả năng phong hoá của đá mẹ và sự tích lũy sinh vật. Nếu đá mẹ dễ phong hoá, thảm thực bì tốt thì độ phì thiên thường là cao.

Độ phì tiềm tàng là một phần của độ phì thiên nhiên mà cây trồng tạm thời chưa sử dụng được. Ví dụ trên đất dốc tụ thung lũng, lầy thụt có hàm lượng dinh dưỡng khá cao nhưng nếu ta không có biện pháp thuỷ lợi cải tạo thì cây cũng không sử dụng tốt được.

Độ phì hiệu lực là độ phì tác dụng trực tiếp đến sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Nó chính là thiên nhiên và tiềm tàng dưới tác động của con người làm tạo nên. Độ phì hiệu lực cao hay thấp tuỳ thuộc vào trình độ khoa học kỹ thuật của người sử dụng đất. Vì vậy có thể 2 mảnh đất có cùng độ phì thiên nhiên nhưng lại khác nhau về độ phì hiệu lực.

Độ phì nhân tạo được tạo nên do hoạt động canh tác của con người. Từ xa xưa đến nay nông dân đã biết khai thác độ phì thiên nhiên theo cách bóc lột đất. Chính sự khai thác theo bản năng đó đã biến nhiều vùng trở nên đất trống đồi núi trọc. Nhưng nếu con người khai thác đất có ý thức với sự hỗ trợ của các tiến bộ khoa học kỹ thuật thì nhiều vùng đất xấu trở nên tốt hơn. Có thể nói đa phần đất canh tác nông nghiệp hiện nay có độ phì nhân tạo khá.

Độ phì kinh tế được đưa ra như một khái niệm chỉ khả năng và trình độ nhận thức của con người đối với đất. Nếu con người nhận thức đầy đủ, khai thác đất có ý thức bồi dưỡng và duy trì mảnh đất đó không chỉ cho năng suất cây trồng cao, mà còn cho năng suất lao động cao, đó chính là độ phì kinh tế.

Tóm lại: Cách phân chia thành các loại độ phì khác nhau chỉ là khái niệm và tương đối vì độ phì đất là khả năng của đất và cũng còn tuỳ thuộc mục đích sử dụng đất đó như thế nào. Vì vậy nhiều khi ta cũng rất khó phân biệt đâu là loại độ phì này, đâu là loại kia.



5.1.3. Đánh giá độ phì đất

Để đánh giá độ phì đất có thể sử dụng các khối chỉ tiêu để dùng làm căn cứ sau:



5.1.3.1. Căn cứ vào tình hình sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây

Cây trồng nói riêng hay thảm thực bì nói chung phản ánh khá trung thực tính chất của đất đai. Có thể nói sự sinh trưởng phát triển và năng suất của cây là tấm gương phản ảnh tình trạng độ phì của đất đai. Nếu đất tốt, tức là độ phì nhiêu cao sẽ cho cây mọc khoẻ, chống chịu sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi, cuối cùng sẽ cho năng suất cao. Ngược lại đất xấu cây sẽ mọc kém, sinh trưởng chậm, dễ bị sâu bệnh... và cho năng suất thấp. Như vậy khi căn cứ vào cây ta có thể biết được tình trạng của đất.

Trên cơ sở đó người ta đã sử dụng chỉ tiêu thống kê năng suất kinh tế của cây để làm căn cứ đánh giá độ phì đất. Về cơ bản khi cây tốt, năng suất cao thì độ phì đất cao và ngược lại. Tuy nhiên chúng ta cũng cần lưu ý có thể có một số trường hợp ngoại lệ: Ví dụ đất tốt (độ phì cao) nhưng không đảm bảo kỹ thuật canh tác thì năng suất cũng không cao được. Hoặc cũng có trường hợp năng suất cây trồng của một vụ nào đó cao là do việc bón nhiều phân vô cơ, thì năng suất đó cũng không phản ánh trung thực tính chất của đất được.

Vì vậy, khi dùng năng suất của cây để đánh giá độ phì của đất phải có số liệu của nhiều vụ, thường từ 2 đến 3 vụ. Thực tế trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam người ta dùng biện pháp gặt thống kê năng suất để phân hạng đất đai cho việc tính thuế nông nghiệp.



5.1.3.2. Căn cứ vào hình thái và phẫu diện đất

Đây là một căn cứ quan trọng để đánh giá độ phì đất. Chúng ta có thể sử dụng các chỉ tiêu sau khi quan sát hình thái đất đai và phẫu diện đất.

- Địa hình: Bằng phẳng và ít bị chia cắt thì tốt hơn dốc và gồ ghề.

- Độ dày: Đất càng dày càng tốt, đối với cây dài ngày (cây ăn quả, cây công nghiệp) và rễ ăn sâu thì đất phải dày trên 100 cm. Còn cây ngắn ngày thì tầng canh tác phải đạt trên 15 cm.

- Màu sắc: Xám đen, đen hoặc đỏ sẽ tốt hơn xám sáng, vàng hoặc trắng.

- Độ xốp: Đất xốp thì có kết cấu và ngược lại.

- Mức độ đá lẫn: Nhiều đá lẫn cơ bản là không tốt.

- Khả năng tưới tiêu: Chủ động tốt hơn là không chủ động.

- Kết von đá ong: Càng nhiều và tầng kết von đá ong nông càng không tốt. Tầng glây nông cũng không tốt v.v...

- Đất nhiều phân giun là tốt (đất nhiều giun).



5.1.3.3. Căn cứ vào việc phân tích các chỉ tiêu lý hoá sinh tính đất

Thông thường, nếu chỉ đánh giá một cách tương đối độ phì đất người ta chỉ cần chú trọng 2 căn cứ ở trên. Nhưng muốn đánh giá chính xác độ phì thì cần phải phân tích đất trong phòng. Nhìn chung, đây là khâu đòi hỏi chi phí lớn, vì vậy nên tập trung vào các chỉ tiêu sau:

- Hàm lượng dinh dưỡng: Mùn, đạm, lân, kali và một số nguyên tố trung lượng, vi lượng khác tùy theo đối tượng cây trồng.

- Dung tích hấp thu: Phải có T thích hợp (tốt nhất là trên 15 ldl/100g đất).

- Phản ứng của môi trường: Tùy loại cây trồng mà có phản ứng môi trường thích hợp tương ứng.

- Không chứa các chất độc hại vượt quá ngưỡng cho phép.

- Đất có thành phần cơ giới phù hợp và kết cấu viên đoàn lạp.

- Hệ vi sinh vật: Nhiều vi sinh vật, nhất là vi sinh vật cố định đạm thì tốt v.v...



5.1.3.4. Sử dụng một số thí nghiệm đồng ruộng để kiểm chứng kết quả đánh giá

Trong một số trường hợp cụ thể cần phải có số liệu đánh giá độ phì tuyệt đối chính xác người ta thường bố trí các thí nghiệm đồng ruộng cho những đối tượng cây trồng đang phổ biến trên vùng đất đó. Kết quả thí nghiệm có tác dụng kiểm chứng lại kết quả đánh giá mà ta đã có thông qua 3 khối chỉ tiêu làm căn cứ ở trên.

Tóm lại: Tuỳ theo yêu cầu đánh giá độ phì mà ta sử dụng tổng hợp cả 4 căn cứ trên hoặc chỉ dùng một phần những căn cứ đó.
5.1.4. Các chỉ tiêu quan trọng của độ phì đất

Để có thêm cơ sở cho việc đánh giá độ phì đất, chúng ta có thể tham khảo một số chỉ tiêu quan trọng sau:



5.1.4.1. Một số chỉ tiêu hình thái phẫu diện đất

Độ dày tầng đất: Trong đất đồi núi, người ta thường chú ý tới độ dày tầng đất vì ngay cả trên một quả đồi hay ngọn núi, độ dày dưới chân, sườn và trên đỉnh đồi (núi) là khác nhau rõ rệt. Theo phân cấp của Hội Khoa học đất Việt Nam (2000), tầng dày của đất được phân làm 3 cấp:

> 100 cm: tầng đất dày

50 – 100 cm: tầng dày trung bình

< 50 cm: tầng đất mỏng

Độ dày tầng canh tác :Ở vùng đất đồng bằng, người ta lại quan tâm tới độ dày tầng canh tác. Nó được chia ra 3 mức sau:

> 15 cm: tầng canh tác dày

15 – 10 cm: tầng canh tác trung bình

< 10 cm: tầng canh tác mỏng

Đá lộ đầu: Đá lộ đầu không chỉ làm giảm diện tích gieo trồng trên khu đất tự nhiên nào đó mà đặc biệt gây rất nhiều cản trở trong việc làm đất, bố trí cây trồng, thiết kế và xây dựng đồng ruộng ... Theo tài liệu của Liên hợp quốc, đá lộ đầu được chia ra:

Không có

Ít < 5 % diện tích

Trung bình: 5 – 15 % diện tích

Nhiều: 15 – 40 % diện tích

Rất nhiều: > 40 % diện tích



Đá lẫn: Đá lẫn là phần đá tươi chưa bị phong hoá nằm lẫn trong đất, thường ở dạng các mảnh vụn có kích thước khác nhau từ một vài milimet đến vài chục centimet. Đá lẫn trong đất làm giảm khối lượng đất mịn tức là làm giảm trữ lượng dinh dưỡng, nước, không khí và nhiệt trong đất. Ngoài ra nếu trong đất tỷ lệ đá lẫn cao gây cản trở cho việc làm đất thậm chí làm hỏng dụng cụ máy móc. Liên hợp quốc phân tỷ lệ đá lẫn trong đất thành 6 mức (theo % thể tích chung của đất) như sau:

Không có :<0,5 % Rất ít: = 0,5 - 5 %

Ít: 5 – 10 % Trung bình: 10 -15 %

Nhiều: 15 – 40 % Rất nhiều: 40 – 80 %

Chủ yếu: > 80%

5.1.4.2. Một số chỉ tiêu vật lý

Các chỉ tiêu vật lý đất (Thành phần cơ giới, kết cấu, dung trọng, tỷ trọng và độ xốp đất); các chỉ tiêu vật lý nước, không khí và nhiệt độ đất; các chỉ tiêu cơ lý đất đã được trình bày ở phần vật lý đất)


5.1.4.3. Các chỉ tiêu hóa học

Các chỉ tiêu đặc tính dung dịch đất (Phản ứng của đất, tính đệm và oxi hóa - khử) đã được trình bày và phân loại ở chương hoá học đất



Hàm lượng tổng số của chất hữu cơ và nitơ trong đất:

Bảng 5.1: Hàm lượng tổng số của chất hữu cơ và nitơ trong đất

Mức độ

OM tổng số (%)

OC tổng số (%)

N tổng số

(%)

C/N

Rất cao

> 6,0

> 3,50

> 0,300

> 25

Cao

4,3 – 6,0

2,51 – 3,50

0,226 - 0,300

16 – 25

Trung bình

2,1 – 4,2

1,26 - 2,50

0,126 – 0,225

11 – 15

Thấp

1,0 – 2,0

0,60 - 1,25

0,050 – 0,125

8 – 10

Rất thấp

< 1,0

< 0,60

< 0,050

< 8

(Agricultural Compendium, 1989)

Hàm lượng lân tổng số (P2O5 %):

Theo Lê Văn Căn (1968) thì phân loại hàm lượng lân tổng số được phân loại:

Giàu: > 0,10 %

Trung bình: 0,06 – 0,10 %

Nghèo: < 0,06 %

Hàm lượng đạm dễ tiêu (N thuỷ phân mg/100g đất):

Theo Tiurin và Kononova, hàm lượng đạm dễ tiêu được phân loại:

Giàu: 8 mg/100g đất

Trung bình: 4 – 8 mg/100g đất

Nghèo: < 4 mg/100g đất



Hàm lượng lân dễ tiêu trong đất:

Bảng 5.2: Lân dễ tiêu trong đất được chiết rút bằng các dung dịch khác nhau

Mức độ

P2O5 dễ tiêu (mg/100g đất)

Oniani

Kirxanôp

Matrigin

Olsen

Giàu

> 15

> 15

> 6,0

> 9,0

Khá giàu

-

8 – 15

4,5 – 6,0

5,0 – 9,0

Trung bình

10 – 15

3 – 8

3,0 – 4,5

2,5 -5,0

Nghèo

5 – 10

< 3

< 3,0

< 2,5


Hàm lượng kali dễ tiêu trong đất (mg/kg đất):

(Theo Agricultural Compendium, 1989)

Rất cao: > 200 mg/kg đất

Cao: 175 – 200 mg/kg đất

Trung bình: 150 – 175 mg/kg đất

Thấp: < 150 mg/kg đất

Hàm lượng cation kiềm trao đổi trong đất:

Bảng 5.3: Hàm lượng cation kiềm trao đổi trong đất (lđl/100g đất)

(Phương pháp amonaxetat)


Mức độ

Ca++

Mg++

K+

Na+

Rất cao

> 20

> 8,0

> 1,2

> 2,0

Cao

10 – 20

3,0 – 8,0

0,6 – 1,2

0,7 – 2,0

Trung bình

5 – 10

1,5 – 3,0

0,3 – 0,6

0,3 – 0,7

Thấp

2 – 5

0,5 – 1,5

0,1 – 0,3

0,1 – 0,3

Rất thấp

< 2

> 0,5

< 0,1

< 0,1

(Agricultural Compendium, 1989)
5.1.4.4. Các chỉ tiêu sinh học đất

Các chỉ tiêu sinh học đất được phân ra:

- Số lượng các động vật đất (như giun, kiến, mối…) và thực vật đất.

- Số lượng và cường độ hoạt động của vi sinh vật đất.



5.1.5. Biện pháp nâng cao độ phì đất

Nâng cao độ phì nhiêu của đất được coi như là cơ sở bắt buộc để phát triển nông nghiệp bền vững. Muốn nâng cao độ phì đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp nhiều biện pháp:



- Thuỷ lợi: Bao gồm công tác tưới tiêu hợp lý, thau chua, rửa mặn, tưới nước phù sa cho ruộng v.v... Đối với đất đồi núi cần sử dụng các biện pháp hạn chế xói mòn, rửa trôi, che phủ mặt đất giữ ẩm qua mùa khô và những nơi có điều kiện có thể tưới ẩm cho cây vào mùa khô như nhiều nơi trồng chè, cây ăn quả hiện nay đang làm v.v...

- Bón phân: Là biện pháp hiệu quả nhất trong việc nâng cao độ phì đất, trong đó đáng lưu ý là trong điều kiện nhiệt đới ẩm thì phân hữu cơ được coi như là loại phân quyết định nâng cao độ phì. Vì vậy đối với đất dốc cần có các biện pháp sử dụng phân bón tại chỗ bằng việc gieo trồng cây phân xanh và để lại đất những sản phẩm phụ của cây trồng. Đối với đất chua nên bón vôi.

- Làm đất: Cần làm đất đúng kỹ thuật để đất có điều kiện điều hoà chế độ nhiệt, không khí và nước cho cây trồng và làm cho rễ cây phát triển tốt. Thực tế nếu làm đất quá kỹ hoặc không đúng kỹ thuật thì lại phá vỡ kết cấu đất, phá vỡ môi trường thích nghi của khu hệ vi sinh vật đất gây bất lợi cho việc tăng độ phì. Vì vậy hiện nay người ta đang rất quan tâm đến biện pháp làm đất tối thiểu, tức là làm đất vừa đủ yêu cầu để trồng cây thôi.

- Chế độ canh tác: Trong chế độ canh tác có 2 khía cạnh, đó là chế độ luân canh, xen canh và hệ thống cây trồng. Trong sản xuất thì tăng năng suất, nói cách khác là thu nhập trên một đơn vị diện tích là một mục tiêu được chú trọng hàng đầu. Tuy vậy, nếu ta không chú ý khía cạnh duy trì và tăng cường độ phì đất thì sớm muộn mục tiêu chính sẽ bị thất bại. Vì thế cần phải chọn hệ thống cấy trồng hợp lý để đạt được cả 2 mục tiêu trên. Ví dụ ở Đức, Hà Lan hay Canađa, trong hệ thống cây trồng bao giờ cũng có cây thuộc họ đậu để cải tạo đất.

Tăng độ phì nhiêu của đất là biện pháp tổng hợp và đòi hỏi phải thường xuyên quan tâm. Biết sử dụng tổng hợp các biện pháp trên thì chắn chắn đất đai sẽ ngày càng tốt hơn.



5.2. PHÂN LOẠI ĐẤT

Phân loại đất là một nội dung quan trọng của ngành khoa học đất. Trước khi ngành khoa học đất ra đời, do yêu cầu của sản xuất, người ta đã phân loại đất để sử dụng. Có khá nhiều kiểu phân loại tuy giản đơn nhưng khá sát với yêu cầu của sản xuất như:

- Phân loại theo cây trồng: Đất lúa, đất cây ăn quả, đất chè, đất rừng, đất màu, đất 1 vụ, 2 vụ...

- Phân loại theo địa hình: Đất cao, đất vàn, đất trũng, đất đồi, đất núi, đất soi bãi...

- Phân loại theo độ phì: Đất bạc điền, đất nhất đẳng điền, nhị đẳng điền...

- Phân loại theo màu sắc: Đất đen, đất đỏ, đất vàng, đất cát gio...

- Phân loại theo thành phần cơ giới: Đất cát, đất thịt, đất sét...

- Phân loại theo phản ứng môi trường: Đất chua, đất mặn, đất chua mặn.

Phân loại đất là gì? Phân loại đất là phân chia đất ra thành những loại đất khác nhau, có tính chất khác nhau.

Mục đích của phân loại đất là để sử dụng đất cho phù hợp trong sản xuất nông lâm nghiệp. Ngoài ra, phân loại đất còn là cơ sở để tiến hành các nghiên cứu tiếp theo như biện pháp cải tạo đất, bồi dưỡng đất, đánh giá đất, qui hoạch phân bổ sử dụng đất

5.2.1. Phân loại đất trên Thế giới

Trong hơn một thế kỷ qua, khoa học đất thế giới có nhiều phương pháp phân loại đất khác nhau (còn gọi là trường phái phân loại đất). Trong phạm vi tài liệu này chúng tôi chỉ trình bày một số trường phái lớn, là những bảng phân loại mà nhiều quốc gia trên Thế giới đã và đang sử dụng.



5.2.1.1. Phân loại đất của Liên Xô (cũ)- (Phân loại đất theo phát sinh)

Cơ sở khoa học của phương pháp:

Là học thuyết phát sinh học đất. Học thuyết này do nhà khoa học đất người Nga V.V. Đôcutraiep đưa ra năm 1883. Ông cho rằng: "Đất là một vật thể có lịch sử tự nhiên hoàn toàn độc lập, nó là sản phẩm hoạt động tổng hợp của mẫu chất và đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và tuổi địa phương”.

Học thuyết này đã được các nhà khoa học đất ở Nga và các nước khác trên thế giới tiếp thu, hoàn thiện dần và bổ sung thêm một số yếu tố nữa, đó là tác động của con người trong quá trình hình thành đất trồng trọt. Sự tác động tổng hợp của các yếu tố trên sẽ quyết định các quá trình hình thành đất chính. Các vùng địa lý tự nhiên khác nhau, các yếu tố hình thành đất không giống nhau sẽ diễn ra các quá trình hình thành đất khác nhau. Kết quả hoạt động của các quá trình hình thành đất sẽ được biểu hiện rõ trong cấu tạo phẫu diện đất. Mỗi tầng đất trong phẫu diện là sản phẩm đặc trưng của một hay nhiều quá trình phát sinh nào đấy nên được gọi là "tầng phát sinh". V.V. Đôcutraiep cũng là người đầu tiên đưa ra nguyên tắc phân chia phẫu diện ra thành các tầng, dùng các chữ cái A, B, C, D để ký hiệu cho các tầng đất.



Nội dung của phương pháp:

  • Nghiên cứu các yếu tố hình thành đất: Điều tra thu thập các yếu tố hình thành đất là đá mẹ, sinh vật, địa hình, khí hậu, sự tác động của con người.

  • Xác định các quá trình hình thành đất chính: Từ những kết quả nghiên cứu 6 yếu tố hình thành đất, kết hợp với nghiên cứu các phẫu diện đất và số liệu phân tích lý hoá học của đất sẽ biết được quá trình hình thành đất. Vì vậy việc nghiên cứu ngoài thực địa, mô tả phẫu diện, phân tích mẫu chất là những căn cứ quan trọng để phân loại đất theo phát sinh (người ta gọi phân loại phát sinh là phân loại bán định lượng là vì vậy).

  • Xây dựng bản đồ phân loại đất: Cần xác định được các loại đất có trong khu vực theo một hệ thống phân vị chặt chẽ với các tên đất rõ ràng. Hệ thống phân loại theo phát sinh của Liên xô (cũ) gồm các cấp từ lớn đến nhỏ là:

Lớp → Lớp phụ → Loại → loại phụ → chủng

Phân loại đất theo phát sinh đã giải thích được sự hình thành đất, chiều hướng biến đổi và phát triển, tính chất của các loại đất. Việc đặt tên đất gắn với các yếu tố và quá trình hình thành đất, dễ tiếp nhận và sử dụng.

Tồn tại của phân loại đất theo phát sinh là chưa thể hiện đầy đủ tính hiện tại của đất. Nhiều vùng đất rộng lớn đã có sự tác động của con người như bố trí hệ thống cây trồng nông lâm nghiệp, bón các loại phân vào đất, xây dựng các công trình thuỷ lợi, phá rừng… thì các tính chất đất không còn phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố tự nhiên mà phụ thuộc vào yếu tố nội tại, yếu tố địa phương do tác động sâu sắc của con người.

5.2.1.2. Phân loại đất của Mỹ (Soil taxonomy)

Cơ sở khoa học của phương pháp: Các tác giả của Soil taxonomy cũng dựa vào các yếu tố hình thành đất của học thuyết phát sinh, nhưng cơ sở chính để phân loại đất lại là những tính chất hiện tại của đất.

Các tính chất hiện tại của đất có liên quan mật thiết đến hình thái phẫu diện. Định lượng các tầng phát sinh theo các chỉ tiêu chặt chẽ về hình thái và tính chất để xác định tên của tầng đất là cơ sở để tiến hành phân loại đất, vì vậy người ta còn gọi phương pháp này là phương pháp phân loại định lượng.

Ví dụ: Một vùng đất ven biển thì yếu tố hình thành có thể là quá trình mặn hoá. Song để khẳng định và đặt tên cho đất phải xác định nồng độ muối tan trong đất.

Nội dung của phương pháp:


  • Nghiên cứu các yếu tố hình thành đất: điều tra thu thập các yếu tố hình thành đất như phân loại theo phát sinh học. Tuy nhiên việc mô tả tuân thủ theo những quy định chặt chẽ để dễ dàng quản lý số liệu bằng hệ thống máy tính hiện đại.

  • Xác định và định lượng các tầng chẩn đoán: chia các tầng chẩn đoán thành 2 nhóm chính: Nhóm tầng mặt và nhóm tầng dưới tầng mặt.

- Nhóm các tầng chẩn đoán trên mặt (surface horizons): Các tầng chẩn đoán chính là H. Hisstic (chất hữu cơ ướt - Dùng để xác định có phải đất than bùn không); A. Mollic (dùng để xác định đất giầu bazơ); A. Umbric (dùng để xác định đất nghèo Bazơ); A. Ochric (dùng để xác định đất phèn hoạt động)….

- Nhóm các tầng dưới tầng mặt (subsurface horizons): Các tầng chẩn đoán chính là: B. Argic (dùng để xác định hàm lượng sét trong các đất xám bạc màu; đất đỏ và đất xám nâu vùng bán khô hạn ; đất đen và đất đỏ vàng); B. Natric (xác định hàm lượng Na trong đất mặn, kiềm); B. Calcic (xác định hàm lượng can xi trong đất tích vôi).

Tầng chẩn đoán là cơ sở để định tên các đơn vị đất.


  • Hệ thống phân vị: Soil taxanomy có hệ thống danh pháp riêng, hệ thống phân vị từ lớn đến nhỏ như sau:

Lớp, bộ (Order) → Lớp phụ hay bộ phụ (suborder) → Nhóm lớn (great group) → Nhóm phụ (subgroup) → Họ (family) → Dãy (series) → Đơn vị (soil unit).

Điểm khác nhau cơ bản của phân loại đất theo Soil taxonomy so với phân loại theo phát sinh học là: Soil taxanomy dùng những chỉ tiêu định lượng các dấu hiệu đặc trưng của tầng đất và các tính chất hiện tại để phân loại đất. Đất được xác định sắp xếp trên cơ sở chẩn đoán và định lượng tầng phát sinh, định lượng các tính chất của đất. Nhìn chung đây là phương pháp phân loại tốt, tuy nhiên khá phức tạp và khi tiến hành phân loại đòi hỏi chi phí cao.



5.2.1.3. Phân loại đất theo FAO - UNESCO

Năm 1961, hai tổ chức FAO và UNESCO của Liên hiệp quốc bắt đầu thực hiện dự án nghiên cứu phân loại và biên vẽ bản đồ đất cho toàn thế giới tỉ lệ 1:5.000.000. Dự án đã huy động hơn 300 nhà khoa học đất của nhiều quốc gia trên thế giới tập trung làm việc tại Trung tâm Khoa học Đất quốc tế tại Amsterđam. Sau 20 năm làm việc khẩn trương bản đồ đất thế giới tỉ lệ 1:5.000.000 đã hoàn thành (1980) và đến nay ngày càng được hoàn thiện.



Cơ sở của phương pháp: Giống như Soil taxonomy, các tác giả của hệ thống phân loại theo FAO - UNESCO cũng dựa vào nguồn gốc phát sinh và tính chất hiện tại của đất để tiến hành phân loại đất và sử dụng nguyên tắc định lượng của Soil taxanomy, nhưng hệ thống phân loại này có chú dẫn bản đồ đất thế giới và hệ thống phân vị đơn giản, một số thuật ngữ tên đất mang tính chất hòa hợp giữa các trường phái.

Nội dung của phương pháp:

  • Nghiên cứu quá trình hình thành đất: thu thập và nghiên cứu các tư liệu có liên quan tới các yếu tố hình thành đất như đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình, thời gian và tác động của con người. Việc đánh giá các điều kiện tự nhiên theo một hệ thống chặt chẽ để xử lý bằng hệ thống máy tính hiện đại.

  • Định lượng tầng chẩn đoán:

- Tầng chẩn đoán: Là tầng đất có đặc tính hình thái và tính chất cần định lượng, kết quả định lượng sẽ cho phép định tên tầng chẩn đoán. Tầng chẩn đoán là cơ sở để định tên đơn vị đất đai. Ví dụ: Có tầng B.Argic ở tầng chẩn đoán đất sẽ ở nhóm Acrisols.

- Các đặc tính chẩn đoán: Một số đặc tính được dùng để phân chia các đơn vị đất không thể coi như các tầng, chúng là đặc tính của chẩn đoán của các tầng đất hoặc vật liệu đất, các đặc tính đùng để phân loại nhất thiết phải là các chỉ tiêu định lượng.

Các đặc tính được qui định dùng trong phân loại đất có đặc tính Fulvic, đặc tính salic, đặc tính gleyic stagnic, sự thay đổi đột ngột về thành phần cơ giới...


  • Định tên đất: Kết quả định lượng tầng chẩn đoán, đặc tính tầng chẩn đoán sẽ xác định được tên tầng chẩn đoán từ đó xác định được tên đất của vùng cần xác định. Tên đất gắn liền với tính chất đất. Ví dụ: Đất có tầng B. Argic: Có V < 50%…nằm ở nhóm đất có tên là acrisols (từ chữ Acer có nghĩa là rất chua).

Hệ thống phân vị của FAO - UNESCO gồm 4 cấp từ lớn đến nhỏ là:

Nhóm chính (major group) → Đơn vị (units) → Đơn vị phụ (subunits) → Pha (phase).

FAO - UNESCO chia đất thế giới thành 28 nhóm đất chính với 153 đơn vị đất.

Ngoài ra, hệ thống phân loại của FAO - UNESCO còn sử dụng một số thuật ngữ có tính chất hoà hợp hoặc kế thừa truyền thống của các nước tiên tiến. Sự cải tiến tên gọi đã giúp cho phương pháp phân loại đất theo FAO - UNESCO được nhiều nước áp dụng vì đã xây dựng được tiếng nói chung cho ngành khoa học đất.

Sau khi bản đồ đất thế giới được công bố, nhiều nước trên thế giới đã áp dụng phương pháp phân loại đất của FAO - UNESCO để tiến hành phân loại, đánh giá nguồn tài nguyên đất đai của đất nước mình. Điều này thể hiện tính đúng đắn, khoa học và ý nghĩa thực tiễn của phương pháp phân loại đất theo hệ thống FAO - UNESCO. Cũng dựa vào nguồn gốc phát sinh nhưng hệ thống phân loại của FAO - UNESCO căn cứ vào tính chất hiện tại để phân loại đất, điều này cho phép đánh giá sát thực chất đất để sử dụng đất hợp lý nhất.

5.2.2. Phân loại đất ở Việt Nam

5.2.2.1. Tình hình chung

Công tác phân loại đất ở Việt Nam được bắt đầu sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng (1954). Năm 1958 đã bắt đầu triển khai nghiên cứu phân loại đất Việt Nam. Năm 1959, sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỉ lệ 1:1.000.000 với chú giải kèm theo đã được công bố. Bảng phân loại đất của sơ đồ này chia miền Bắc Việt Nam thành 5 nhóm đất với 18 loại đất. Năm 1964 được V.M.Fritland chỉnh lý và bổ sung rồi đưa ra bảng phân loại mới gồm 5 nhóm với 27 loại đất. Các nhà khoa học đất Việt Nam ở miền Bắc đã nắm bắt được phương pháp phân loại đất theo phát sinh học của Liên xô (cũ). Sau năm 1964, hàng loạt công trình nghiên cứu phân loại đất cho các vùng, tỉnh, huyện, xã…được triển khai trên các bản đồ tỉ lệ trung bình và lớn.

Ở Miền Nam, năm 1960 chuyên gia khoa học đất Moorman đã xây dựng bảng phân loại đất cho miền Nam theo Soil taxonomy tỉ lệ 1:1.000.000. Bảng này chia đất miền Nam thành 25 đơn vị đất.

Năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Bộ Nông nghiệp đã thành lập Ban Biên tập Bản đồ Đất Việt Nam. Ban này đã tập hợp các công trình nghiên cứu đất Việt Nam và xây dựng bản đồ đất Việt Nam tỉ lệ 1:1.000.000 kèm theo chú giải. Đất Việt Nam được chia thành 13 nhóm với 31 loại đất phát sinh.

Năm 1996 đã đưa ra bảng phân loại đất Việt Nam theo FAO - UNESCO với bản đồ đất tỉ lệ 1:1.000.000 kèm theo chú dẫn. Đây là bảng phân loại dùng cho toàn quốc và có tỉ lệ nhỏ với 19 nhóm và 54 đơn vị đất và tất nhiên mới dừng ở việc chuyển đổi danh pháp từ phân loại cách đây hơn 20 năm. Vì vậy để sử dụng có hiệu quả thì cần tiến hành xác định lại ranh giới các loại đất cho từng vùng và địa phương cũng như giám định lại tính chất trên cơ sở đưa ra tiêu chuẩn và căn cứ phân loại theo nguyên tắc FAO - UNESCO để xây dựng bản đồ phân loại tỉ lệ lớn hơn cho từng vùng. Chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ có một bảng phân loại đất hoàn chỉnh chính xác và thống nhất với quốc tế trong những năm gần đây.

5.2.2.2. Một số bảng phân loại


  • Bảng phân loại đất năm 1976: Bao gồm 13 nhóm với 31 loại đất theo phát sinh kèm theo bản đồ đất tỷ lệ 1:1.000.000 (Bảng 5.4).

Bảng 5.4: Bảng phân loại đất Việt Nam năm 1976

TT

Nhóm

Loại đất chính

1

Đất cát biển

1. Đất cồn cát trắng vàng

2. Đất cồn cát đỏ

3. Đất cát biển


2

Đất mặn

4. Đất mặn sú, vẹt, đước

5. Đất mặn nhiều

6. Đất mặn trung bình và ít

7. Đất mặn kiềm



3

Đất phèn (chua mặn)


8. Đất phèn nhiều

9. Đất phèn trung bình và ít



4

Đất lầy

10. Đất lầy

11. Đất than bùn



5

Đất phù sa

12. Đất phù sa hệ thống sông Hồng

13. Đất phù sa hệ thông sông Cửu Long

14. Đất phù sa hệ thống sông khác


6

Đất xám bạc màu

15. Đất xám bạc màu trên phù sa cổ

16. Đất xám bạc màu glây trên phù sa cổ

17. Đất xám bạc màu trên sản phẩm phá huỷ của đá cát và macma axit


7

Đất xám nâu vùng bán khô hạn

18. Đất xám nâu vùng bán khô hạn

8

Đất đen

19. Đất đen

9

Đất đỏ vàng

(Feralit)



20. Đất nâu tím trên đá macma trung tính và bazơ

21. Đất nâu đỏ trên đá macma trung tính và bazơ

22. Đất nâu vàng trên đá macma trung tính và bazơ

23. Đất nâu vàng trên đá vôi

34. Đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất

25. Đất vàng đỏ trên đá macma axit

26. Đất vàng nhạt trên đá cát

27. Đất vàng nâu trên phù sa cổ



10

Đất mùn vàng đỏ trên núi

28. Đất mùn vàng đỏ trên núi

TT

Nhóm

Loại đất chính

11

Đất mùn trên núi cao

29. Đất mùn trên núi cao

12

Đất potzol

30. Đất potzol

13

Đất xói mòn trơ sỏi đá

31. Đất xói mòn trơ sỏi đá


tải về 5.19 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   ...   26




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương