Bảng phân loại đất theo phương pháp định lượng bán định tính FAO - UNESCO năm 1996:Bao gồm 19 nhóm và 54 đơn vị đất theo định lượng kèm theo bản đồ đất tỷ lệ 1:1.000.000 (Bảng 5.5).
Bảng 5.5: Bảng phân loại đất Việt Nam năm 1996
TT |
Tên Việt Nam
|
Tên theo FAO - UNESCO
|
Ký hiệu
|
Tên đầy đủ
|
Ký hiệu
|
Tên đầy đủ
|
I
1
2
3
4
5
|
C
Cc
Cđ
C
Cb
Cg
|
Đất cát biển
Đất cồn cát trắng vàng
Đất cồn cát đỏ
Đất cát biển
Đất cát mới biến đổi
Đất cát glây
|
AR
ARl
ARr
ARh
ARb
ARg
|
Arenosols
Luvic arenosols
Rhodic arenosols
Haplic arenosols
Cambic arenosols
Gleyic arenosols
|
II
6
7
8
|
M
Mm
Mn
M
|
Đất mặn
Đất mặn sú vẹt đước
Đất mặn nhiều
Đất mặn trung bình và ít
|
Fls
FLsg
FLsh
FLsm
|
Salic Fluvisols
Gleyi - salic Fluvisols
Hapli - salic Fluvisols
Molli - salic Fluvisols
|
III
9
10
|
S
Sp
Sj
|
Đất phèn
Đất phèn tiềm tàng
Đất phèn hoạt động
|
Flt
GLt
GLtp
FLto
|
Thionic Fluvisols
Thionic Gleysols
Proto - thionic Gleysols
Orthi - thionic Fluvisols
|
IV
11
12
13
14
15
|
P
P
Pc
Pg
Pu
Pb
|
Đất phù sa
Đất phù sa trung tính ít chua
Đất phù sa chua
Đất phù sa glây
Đất phù sa mùn
Đất phù sa có tầng đốm gỉ
|
FL
FLe
FLd
FLg
FLu
FLb
|
Fluvisols
Eutric Fluvisols
Dystric Fluvisols
Gleyic Fluvisols
Umbric Fluvisols
Cambic Fluvisols
|
V
16
17
18
|
GL
GL
GLc
GLu
|
Đất glây
Đất glây trung tính ít chua
Đất glây chua
Đất lầy
|
GL
GLe
GLd
GLu
|
Gleysol
Eutric Gleysols
Dystric Gleysols
Umbric Gleysols
|
VI
19
20
|
T
T
Ts
|
Đất than bùn
Đất than bùn
Đất than bùn phèn tiềm tàng
|
HS
HSf
HSt
|
Histosol
Fibric Histosols
Thionic Histosols
|
TT
|
Tên Việt Nam
|
Tên theo FAO - UNESCO
|
Ký hiệu
|
Tên đầy đủ
|
Ký hiệu
|
Tên đầy đủ
|
VII
21
22
|
MK
MK
MKg
|
Đất mặn kiềm
Đất mặn kiềm
Đất mặn kiềm glây
|
SN
SNh
SNg
|
Solonetz
Haplic Solonetz
Gleyic Solonetz
|
VIII
23
24
|
CM
CM
CMc
|
Đất mới biến đổi
Đất mới biến đổi trung tính ít chua
Đất mới biến đổi chua
|
CM
CMe
CMd
|
Cambisols
Eutric cambisols
Dystric cambisols
|
IX
25
26
|
RK
RK
RKh
|
Đất đá bọt
Đất đá bọt
Đất đá bọt mùn
|
AN
ANh
ANm
|
Andosols
Haplic Andosols
Mollic Andosols
|
X
27
28
29
30
31
|
R
Rf
Rg
Rv
Ru
Rp
|
Đất đen
Đất đen có tầng kết von dày
Đất đen glây
Đất đen cacbonat
Đất nâu thẫm trên bazan
Đất đen tầng mỏng
|
LV
LVf
LVg
LVk
LVx
LVq
|
Luvisols
Ferric Luvisols
Gleyic Luvisols
Calcic Luvisols
Chromic Luvisols
Lithic Luvisols
|
XI
32
33
|
XK
XK
XKđ
|
Đất nâu vùng bán khô hạn
Đất nâu vùng bán khô hạn
Đất đỏ vùng bán khô hạn
|
LX
LXh
LXx
|
Lixisols
Haplic Lixisols
Chromic Lixisols
|
XII
34
35
|
V
V
Vu
|
Đất tích vôi
Đất vàng tích vôi
Đất nâu thẫm tích vôi
|
CL
CLh
CLl
|
Calcisols
Haplic Calcisols
Luvic Calcisols
|
XIII
36
37
38
|
L
Lc
La
Lu
|
Đất có tầng sét loang lổ
Đất có tầng sét loang lổ chua
Đất có tầng sét loang lổ bị rửa trôi mạnh
Đất có tầng sét loang lổ giàu mùn
|
PT
PTd
PTa
PTu
|
Plinthosols
Dystric Plinthosols
Albic Plinthosols
Humic Plinthosols
|
XIV
39
40
|
O
Oc
Og
|
Đất podzolic
Đất podzolic chua
Đất podzolic glây
|
PD
PDd
PDg
|
Podzoluvisols
Dystric Podzoluvisols
Gleyic Podzoluvisols
|
XV
41
42
43
44
45
|
X
X
Xl
Xg
Xf
Xh
|
Đất xám
Đất xám bạc màu
Đất xám có tầng loang lổ
Đất xám glây
Đất xám Feralit
Đất xám mùn trên núi
|
AC
ACh
ACp
ACg
ACf
ACu
|
Acrisols
Haplic Acrisols
Plinthic Acrisols
Gleyic Acrisols
Ferralic Acrisols
Humic Acrisols
|
TT
|
Tên Việt Nam
|
Tên theo FAO - UNESCO
|
Ký hiệu
|
Tên đầy đủ
|
Ký hiệu
|
Ký hiệu
|
XVI
46
47
48
49
|
F
Fd
Fx
Fl
Fh
|
Đất đỏ
Đất nâu đỏ
Đất nâu vàng
Đất đỏ vàng có tầng sét loang lổ
Đất mùn vàng đỏ trên núi
|
FR
FRr
FRx
FRp
FRu
|
Ferralsols
Rhodic Ferralsols
Xanthic Ferralsols
Plinthic Ferralsols
Humic Ferralsols
|
XVII
50
51
52
|
A
A
Ag
At
|
Đất mùn alit núi cao
Đất mùn alit núi cao
Đất mùn alit núi cao glây
Đất mùn thô than bùn núi cao
|
AL
ALu
ALg
Alh
|
Alisols
Humic Alisols
Gleyic Alisols
Histric Alisols
|
XVIII
53
|
E
E
|
Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá
Đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá
|
LP
LPq
|
Leptosols
Lithic Leptosols
|
XIX
54
|
N
N
|
Đất nhân tác
Đất nhân tác
|
AT
AT
|
Anthrosols
Anthrosols
|
5.3. ĐẤT LÚA NƯỚC VIỆT NAM
5.3.1. Đặc điểm hình thành, phân bố và tính chất
5.3.1.1. Đặc điểm hình thành, phân bố
Đất lúa nước của Việt Nam chủ yếu phân bố ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ven biển miền trung và rải rác ở miền núi.
Đất lúa nước được hình thành chủ yếu do sản phẩm bồi tụ thông qua dòng chảy của các sông suối và sóng biển (đất thuỷ thành).
- Địa hình nhìn chung là bằng phẳng, trừ một số bậc thềm phù sa cổ, bậc thềm sông mới và bậc thềm biển. Bản thân đất đồng bằng sau những vận động địa chất trở thành những vùng không bằng phẳng. Sau đó do quá trình bồi tụ, các sản phẩm phù sa bồi lấp những chỗ trũng tạo lên những vùng đất bằng phẳng hơn.
- Khí hậu ôn hoà hơn vùng đồi núi nhưng chịu nhiều gió bão hơn, do gần biển, địa hình bằng phẳng và ít rừng.
- Thực bì vùng này chủ yếu là cây lương thực thực phẩm.
- Một tính chất điển hình của đất lúa nước là hiện tượng glây, đa số đất lúa nước bị glây, có nơi bị nặng như vùng chiêm trũng hay vùng sú vẹt.
Quá trình glây hoá:
Điều kiện để hình thành glây ở tầng tích tụ là đất thừa ẩm do nước ngầm nông hoặc nước bề mặt lưu trữ thường xuyên.
Bản chất của quá trình này thực chất là trong điều kiện ngập nước yếm khí, thiếu O2, các hợp chất khoáng, đặc biệt là Fe2O3 bị khử từ Fe3+ chuyển thành Fe2+. Song song với nó, các hợp chất hữu cơ bị phân giải trong điều kiện khử có sự tham gia của vi sinh vật yếm khí. Khi ngập nước lâu dài hay đất luôn thừa ẩm thì Fe2+ sẽ cùng với silicat và khoáng sét tái tổng hợp ra nhôm silicat thứ sinh, trong đó sắt nằm ở dạng hoá trị 2. Các khoáng mới này có màu xám xanh thép nguội rất đặc trưng, người ta gọi đó là tầng glây. Nếu điều kiện thừa ẩm không kéo dài thì ít hình thành glây mà hình thành các vệt glây trong đất. Như vậy tuỳ điều kiện khác nhau mà hình thành nên tầng lây nông hay sâu khác nhau. Thông thường đất ở vùng chiêm trũng hay đất trồng lúa nước 2 vụ có thành phần cơ giới nặng thì tầng glây rất nông (có khi nằm sát tầng canh tác). Trên những chân đất phù sa trồng lúa nước lâu ngày do hiện tượng glây đã làm cho màu sắc lớp canh tác nhạt dần từ nâu tươi sang nâu nhạt vì Fe2+ và Mn2+ bị rửa trôi. ở những chân đất bậc thang, do hiện tượng rửa trôi các chất này làm đất dưới tầng đế cày chuyển sang màu xám trắng hẳn. Sản phẩm của quá trình glây là đất chứa nhiều H2S, FeS, CH4 v.v... Vì vậy nếu tầng glây nông thì đất thường dính dẻo, chặt, bí, thiếu kết cấu và cây trồng dễ bị ngộ độc. Hiện nay người ta dùng tầng glây làm căn cứ để phân loại đất ruộng vì nó ảnh hưởng mạnh đến các tính chất cơ bản khác của đất.
Trong quá trình trồng lúa nước, các hoạt động trồng trọt của con người như làm đất, bố trí cây trồng, bón phân, tưới tiêu.v.v... đã làm thay đổi những tính chất ban đầu của đất. Tất nhiên các yếu tố phát sinh như mẫu chất, thời gian, địa hình cũng có những ảnh hưởng nhất định.
Đất lúa nước có 3 dạng là:
- Đất phù sa trồng lúa nước
- Đất Feralit biến đổi do trồng lúa nước
- Đất lúa nước vùng trũng.
Đất lúa nước ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc được phân ra:
- Đất phù sa sông suối trồng lúa nước
- Đất dốc tụ thung lũng trồng lúa nước
- Đất Feralit biến đổi do trồng lúa nước.
5.3.1.2.Tính chất đất lúa nước
Trải qua quá trình canh tác trong điều kiện ngập nước, đa số đất lúa nước có phân tầng rõ.
Đất lúa nước có các tầng cơ bản như sau:
* Tầng canh tác - Ac
Tầng canh tác có 2 lớp là:
- Lớp oxy hoá, còn gọi là lớp bùn lỏng dày vài milimet, bao gồm các hạt cơ giới rất nhỏ nên có thể kết thành váng khi cạn nước. Đây là lớp luôn ở trạng thái oxy hoá (Eh: 250 – 400mV), vì vậy chất hữu cơ ở đây được phân giải mạnh.
- Lớp khử oxy, còn gọi là lớp bùn nhão. Do bị ngập nước và xác hữu cơ phân giải trong điều kiện yếm khí nên Eh thấp (xung quanh 200mV).
Tầng Ac có thể dày từ 8 - 20 cm.
* Tầng đế cày - P
Là tầng đất chặt ở dưới tầng canh tác. Tầng P dày khoảng 8 – 10 cm, được hình thành do quá trình trồng lúa lâu đời. Khi làm đất trong điều kiện ngập nước, các hạt sét sẽ lắng xuống cộng với sức nén của công cụ làm đất và đi lại của gia súc và con người. Quá trình trồng lúa nước càng lâu đời thì tầng đến cày càng rõ và mỏng dần đến ổn định khoảng 6 – 10 cm. Đối với đất lầy thụt, đất mới khai phá trồng lúa nước hoặc đất phù sa được bổi đắp thường xuyên có thể không có tầng đế cày.
Sự hình thành tầng đế cày có ý nghĩa quan trọng đối với độ phì đất lúa nước. Vì tầng đế cày ngăn cản sự thấm nước quá nhanh giúp đất giữ nước tốt, ngăn cản sự rửa trôi các chất dinh dưỡng ở tầng canh tác v.v... Nhưng nếu tầng đế cày quá chặt thì nước thấm bị trở ngại, một số hợp chất sản sinh trong quá trình thu hút dinh dưỡng của rễ lúa bị tích đọng lại làm thay đổi môi trường sống của vi sinh vật tầng canh tác, từ đó ảnh hưởng xấu đến sự hoạt động của bộ rễ lúa.
* Tầng tích tụ - B
Tầng tích tụ được hình thành do sự tích tụ các vật chất rửa trôi từ tầng trên xuống. Màu sắc thường loang lổ đỏ, vàng, trắng, đen... do vệt rửa trôi Fe, Mn, và sét.
Tầng tích tụ có quan hệ đến độ phì của đất lúa nước thể hiện ở độ dày và khả năng tích luỹ các vật chất: Càng dày, càng rõ thì mức độ thuần thục của đất lúa càng cao. Tuy nhiên nếu tầng này quá dày thì đồng nghĩa với việc tầng glây ở quá sâu, thể hiện chế độ nước không đảm bảo thường xuyên cho lúa.
* Tầng glây - G: Tầng glây được hình thành do ảnh hưởng thường xuyên của mực nước ngầm. Tầng glây thường có màu sắc xanh xám (xanh thép nguội), xanh lơ. Nếu đất thoát nước tốt có thể xuất hiện thêm vệt đỏ, vàng. Tầng glây có Eh rất thấp, do tích luỹ các hợp chất khử.
Mực nước ngầm càng cao thì tầng glây càng nông, nó có thể lên đến tầng canh tác và như vậy sẽ ảnh hưởng xấu đến đất lúa nước. Ngược lại tầng G mà quá sâu thì ảnh hưởng đến khả năng cung cấp nước. Theo nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy tầng glây ở sâu 60-80cm là tốt nhất.
* Tầng gốc - C: Đây là tầng có trước khi có sự canh tác lúa. Tầng này ít bị ảnh hưởng của canh tác lúa và cũng ít có liên quan với độ phì của đất lúa.
Một số tính chất đất lúa nước:
- Thành phần cơ giới
Trong điều kiện có nước, cây lúa có thể sinh trưởng phát triển trên các loại đất có thành phần cơ giới khác nhau, nhưng thành phần cơ giới đất thích hợp nhất cho lúa nước là thịt (có thể thịt trung bình, thịt nhẹ, thịt nặng). Vì lúa nước cần đất có tính giữ nước nhưng cũng cần có tính thấm nước nhất định (Bảng 5.6).
Tuy nhiên, trong thực tế người ta vẫn có thể đạt năng suất lúa cao trên đất cát, trong điều kiện thâm canh tốt.
- Kết cấu đất
Trong quá trình canh tác ở điều kiện ngập nước các hạt kết lớn sẽ bị phá vỡ thành hạt kết bé có kích thưóc 0,25 - 0,005 mm - đó là vì hạt kết. Nếu đất lúa có kết cấu tốt dù hạt kết bị phá vỡ mạnh thì phần lớn cũng dừng lại ở kích thước vi hạt kết chứ không thể phá vỡ đến kích thước hạt đơn. Vì thế khi đánh giá kết cấu đất lúa nước người ta thường căn cứ vào tỷ lệ vi hạt kết. Các tác giả Trung Quốc cho rằng đất lúa tốt thường chứa trung bình 20 - 27 % vi hạt kết.
Bảng 5.6: Thành phần cơ giới đất một số hạng đất
Hạng đất
|
Sét (%)
|
Limon nhỏ (%)
|
Limon trung bình (%)
|
Cát (%)
|
S1
|
25 - 65
|
20 - 60
|
10 - 25
|
2 - 10
|
S2
|
15 - 30
|
25 - 40
|
15 - 35
|
20 - 40
|
S3
|
5 - 30
|
5 - 20
|
15 - 40
|
35 - 70
|
(Nguyễn Thế Đặng và Cs, 2008)
- Tính thấm nước
Đất lúa cần có tính giữ nước tốt nhưng cũng cần có tính thấm để đổi mới hoàn cảnh dinh dưỡng cho tầng canh tác. Như vậy độ chặt của tầng đế cày có vị trí rất quan trọng, nếu tầng đế cày quá chặt thì đất bị bí, nếu quá xốp thì thấm nước nhanh mất nước nước, mất dinh dưỡng theo tầng sâu. Theo tài liệu của Nhật Bản thì tốc độ thấm nước ở ruộng lúa năng suất cao là 2,3 - 2,5 cm/ngày. Còn Việt Nam một số tác giả cho rằng tốc độ thấm nước 2 - 3 cm/ngày là tốt nhất.
- Trạng thái oxy hoá khử
Đất lúa nước thường ở trạng thái ẩm và có lúc khô vì vậy trạng thái oxy hoá - khử khá phức tạp. Eh của vùng rễ lúa bao giờ cũng cao hơn vùng xa rễ.
Eh còn phụ thuộc vào thời kỳ sinh trưởng của lúa, thông thường càng về thời kỳ cuối Eh càng tăng. Ngoài ra Eh của đất lúa còn chịu ảnh hưởng của biện pháp cày sâu, bón phân, mật độ cấy v.v...
- Trạng thái Fe, Al và Mn
Ở tầng canh tác, do quá trình khử là phổ biến nên các hợp chất Fe, Al và Mn ở dạng khử đã làm thay đổi màu sắc của tầng này. Ở những vùng đất lúa có mực nước ngầm cao thường xuất hiện hiện tượng lúa bị vàng, không đẻ nhánh được, đó là do các chất khử trên có hàm lượng vượt quá ngưỡng, gây độc đối với rễ lúa. Khi ta tháo nước, làm cỏ sục bùn và phơi ruộng thì các chất khử trên bị oxy hoá và làm giảm tính độc cho cây.
Tuy nhiên đất lúa cũng cần một lượng nhất định Fe và Mn, một phần cung cấp cho lúa, phần khác chúng tham gia vào khử độc H2S... ở đất lúa một vụ, Fe và Mn thường leo lên theo mao quản vào lúc không trồng lúa gây nên hiện tượng kết von đá ong.
- Trạng thái pH và các chất dinh dưỡng
Cây lúa nước có thể sống trong môi trường pH biến động từ 4-9, sống bình thường ở pH = 5-8, nhưng sinh trưởng và phát triển thích hợp nhất ở pH = 6-7. Các tác giả Trung Quốc cho rằng pH đất lúa Trung Quốc xung quanh 5,6 sẽ cho năng suất cao nhất. Đất Việt Nam pH xung quanh 5,9 cho năng suất cao nhất, ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
5.3.1.2. Đặc trưng đất lúa nước tốt và có năng suất lúa cao ổn định
Trên cơ sở tổng kết các kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm của nông dân chúng ta có thể nên lên một số đặc trưng cơ bản của đất lúa tốt có năng suất cao và ổn định như sau:
* Về hình thái phẫu diện:
Nếu có 4 tầng, tầng canh tác phải dày 15-18cm, màu xám đen hoặc nâu đen. Tầng đế cày xuất hiện rõ, không quá chặt, quá dày (10cm). Tầng tích tụ có màu nâu, nâu vàng. Tầng glây phải sâu hơn 60cm.
* Về lý tính:
Thành phần cơ giới thích hợp nhất là đất thịt nhẹ đến thịt trung bình (sét vật lý từ 20–60 %), không có tính nổi bùn hoặc lắng quá mạnh, tốc độ thấm nước khoảng 2 cm/ngày hoặc trong điều kiện trời nắng liên tục nếu tưới sâu 20cm phải giữ được nước 7-10 ngày.
* Về hoá tính:
Phản ứng của đất từ chua ít đến gần trung tính, pH từ 5,5 - 7,0; mùn > 1,5 %; N % >0,12; P2O5 %>0,1; K2O %>0,35; CEC >10me/100g đất, V > 50. %
5.3.2. Một số loại đất lúa nước Việt Nam
Trong khuôn khổ giáo trình này chúng tôi chỉ đề cập tới một số loại đất phổ biến và đặc trưng.
5.3.2.1. Đất phù sa (P) - Fluvisols (FL)
Diện tích đất phù sa Việt Nam là 3.400.059 ha.
Do đặc điểm cấu tạo địa chất và địa hình của nước ta, những nhóm đất bồi tụ (trong đó có đất phù sa) hình thành về phía biển, bồi tụ từ sản phẩm xói mòn các khối núi, đồi, do tác động của sông và biển. Nhóm đất phù sa được phân bố chủ yếu ở 2 đồng bằng lớn: Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, cũng như đồng bằng ven biển.
Ở hệ thống sông Hồng từ ngày có đê, toàn bộ vùng đồng bằng không được bồi đắp như trước. Nhiều vùng vỡ đê cũ, nước lụt tràn vào đem theo phù sa với lượng lớn đã làm xáo trộn địa hình và đất đai khu vực bị lụt. Riêng đất ngoài đê năm nào cũng được bồi thêm nên luôn luôn trẻ và màu mỡ và cao hơn hẳn so với đất trong đê. Chính vì vậy, địa hình chung của đồng bằng Bắc Bộ không được bằng phẳng, lồi lõm nhiều. Khối lượng phù sa chính hiện nay chỉ còn tập trung vào một số vùng như Kim Sơn, Tiền Hải nên tốc độ tiến ra biển của các vùng này rất nhanh (ở Kim Sơn trung bình mỗi năm bồi ra biển được từ 80 – 100 m). Huyện Kim Sơn sau 60 năm đã 5 lần quai đê lấn biển nên đất canh tác được mở rộng gấp 3 lần so với trước.
Ở hệ thống sông Cửu Long (sông Mê Kông): Do thuỷ chế điều hoà và hệ thống kênh rạch chằng chịt dài hơn 3000 km trải đều nên đất đồng bằng châu thổ sông Cửu Long được bồi đắp hàng năm, bằng phẳng và giàu dinh dưỡng hơn đất đồng bằng sông Hồng. Do những tác động kiến tạo, quy luật bồi đắp phù sa, môi trường đầm mặn... đã hình thành lớp phủ thổ nhưỡng đồng bằng sông Cửu Long. Đất phù sa ở giữa có xen kẽ đất phèn và bao quanh bởi đất mặn, đất phèn tiềm tàng.
Ở dọc bờ biển miền trung, đất phù sa được hình thành do các sông ngắn chảy từ Tây sang Đông, diện tích hẹp và kéo dài, ít màu mỡ.
Nhóm đất phù sa Việt Nam có 5 đơn vị đất chính là (Phân loại đất Việt Nam theo phương pháp FAO-UNESCO, 1996)
Đất phù sa trung tính ít chua - ký hiệu P (Eutric Fluvisols, FLe)
Có diện tích 225.987 ha.
- Phân bố chủ yếu ở trung tâm 2 châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long.
Tính chất:
Đây là loại đất phù sa màu mỡ (độ phì tốt), dung tích hấp thu và độ bão hoà bazơ cao.
Tính chất vật lý hoá học, độ phì và hình thái phẫu diện đất phụ thuộc nhiều vào đặc điểm mẫu chất của hệ thống sông, điều kiện địa hình, chế độ đê điều
Nhìn chung đất phù sa trung tính ít chua được sử dụng rất đa dạng: lúa 2 vụ, lúa màu 2-3 vụ, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu. Đặc biệt là vùng ngô tập trung thường cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao, cũng như tiềm năng sử dụng cao và đa dạng.
Đất phù sa chua, ký hiệu Pc (Dytric Fluvisols - FLd)
Diện tích 1.665.892 ha.
Là đơn vị đất phổ biến nhất ở Việt Nam trong nhóm đất phù sa, phân bố suốt từ Bắc vào Nam. Phân bố chủ yếu bao quanh đất phù sa trung tính ít chua ở 2 đồng bằng lớn sông Hồng và sông Cửu Long. Chiếm đại đa bộ phận diện tích của đất đồng bằng ven biển miền Trung và hầu hết đất phù sa sông suối ở khu vực trung du miền núi phía Bắc.
Tính chất:
- Là đơn vị đất có độ no bazơ thấp thường < 50 %, không có tầng phèn tiềm tàng hay hoạt động
- Đất thường có màu nâu hơi nhạt
- Đất có phản ứng chua toàn phẫu diện (pH = 4,5 – 5,0), hàm lượng nhôm di động khá cao (8-12 mg/100 g đất)
- Hàm lượng hữu cơ của đất từ trung bình đến khá (OC = 1- 3 %), hàm lượng N tổng số trung bình.
- Lân tổng số và dễ tiêu ở mức trung bình và nghèo (lân dễ tiêu = 1-5 mg/100 g đất theo Oniani)
- Hàm lượng ka li tổng số trung bình và ka li trao đổi từ trung bình đến giàu.
Nhìn chung đất phù sa chua đã và đang được quan tâm cải tạo và sử dụng, đại bộ phận chủ động tưới tiêu, việc đưa giống mới vào thâm canh tăng vụ đã từng bước cho hiệu quả tăng ở vùng đất này.
Do đất phù sa chua thiếu và mất cân đối NPK, cũng như độ no bazơ thấp, vì vậy nên lưu ý hạ dần độ chua của đất, tăng cường bón phân hữu cơ kết hợp với vôi và bón cân đối dinh dưỡng NPK. Đối với vùng đất có địa hình cao thoát nước cần luân canh với cây họ đậu để nâng cao độ phì nhiêu của đất.
5.3.2.2. Đất phèn (S) hay đất chua mặn - Thionic Fluvisols (FLt)
Tổng diện tích 1.863.128 ha.
Đất phèn được phân bố nhiều ở đồng bằng Nam Bộ, tại các tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng... và một số ít ở các tỉnh phía Bắc như Hải Phòng, Thái Bình..
Đất phèn được hình thành ở những vùng như đầm lầy, rừng ngập mặn, cửa sông... Đất được hình thành do sản phẩm bồi tụ phù sa kết hợp với vật liệu sinh phèn (xác sinh vật chứa lưu huỳnh) và muối phèn. Hai quá trình: quá trình mặn hoá và quá trình chua hoá để tạo ra đất phèn được mô tả tóm tắt như sau:
- Quá trình mặn hoá: hình thành do trong đất có chứa một lượng muối tan nhất định như NaCl, Na2SO4. Các muối này có nguồn gốc từ nước biển, và lượng NaCl giảm dần theo thời gian do có tính tan cao, và kết quả là Na2SO4 tích luỹ lại ở đất phèn.
- Quá trình chua hoá: Có nhiều ý kiến khác nhau về nguyên nhân làm đất bị chua và chứa nhiều phèn. Thực tế nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam đã có kết luận sơ bộ về nguyên nhân làm cho đất chua là do lưu huỳnh có nguồn gốc từ nước biển tích luỹ lại theo 2 con đường:
+ Con đường thứ nhất là do những phản ứng hoá học thuần tuý như muối sunphát ít tan khi nồng độ tăng lên kết tủa lại sinh ra nhiều SO4-2 làm đất hoá chua.
+ Con đường thứ 2 qua tích luỹ sinh học từ xác các thực vật rừng ngập mặn (phổ biến là các cây sú, vẹt, đước..). Trong quá trình sống các cây này hấp thụ và tích luỹ S ở dạng hữu cơ, sau khi chết xác của chúng được phân giải trong điều kiện yếm khí, các hợp chất chứa S bị biến đổi từ S2- chủ yếu ở dạng pyrite (FeS2) và sunfua hydro (H2S) để tạo ra gốc SO4-2
Quá trình này có thể minh hoạ như sau:
2FeS2 + 2H2O + 7O2 2FeSO4 + 2H2SO4
2FeSO4 + H2SO4 + 1/2O2 Fe2(SO4)3 + H2O
Fe2(SO4)2 + 6H2O 2Fe(OH)3 + 3H2SO4
Phản ứng này luôn tạo ra H2SO4 làm cho đất bị chua và chính H2SO4 lại tác động với khoáng sét tạo thành alumin sunfat, tức là muối phèn.
Đất phèn có đặc điểm chung như sau: Thành phần cơ giới nặng (sét > 50 %), rất chua (pHKCl = 3,0 – 4,5), hàm lượng chất hữu cơ khá (OC = 2-4 %), nghèo lân tổng số và dễ tiêu, ka li từ giàu đến khá, hàm lượng S cao (S > 0,75 %) và nhôm di động cao nhiều nơi cao đến 50 mg/100 g đất.
Hướng sử dụng và cải tạo đất phèn:
Diện tích đất phèn chưa sử dụng ở nước ta còn khá lớn, có thể khai thác để phục vụ phát triển nông nghiệp. Diện tích đã được khai thác chủ yếu là trồng 2 vụ lúa, năng suất cây trồng phụ thuộc nhiều vào lượng mưa hàng năm. Trên những loại đất này nông dân có kinh nghiệm “ém phèn” để trồng lúa bằng kỹ thuật cày nông, bừa sục giữ nước liên tục và tháo nước định kỳ. Nâng cấp hệ thống thuỷ lợi và sử dụng nhiều các giống cây trồng chống chịu phèn có thể nâng cao năng suất cây trồng trên loại đất này. Một số biện pháp kỹ thuật cải tạo đất phèn thường được áp dụng là:
- Biện pháp thuỷ lợi: Để có thể sản xuất trên đất phèn mới khai phá cần phải thau chua, rửa mặn, do đó biện pháp thuỷ lợi phải được đặc biệt chú trọng. Các kỹ thuật như xây dựng hệ thống kênh tưới tiêu song song, khoan các giếng sâu để bơm nước lên ruộng, tiêu ra mương, hạ thấp mực nước ngầm mặn đã được áp dụng có hiệu quả.
- Bón vôi cho đất: Bón vôi có tác dụng tốt cho việc khử chua và làm ngưng tụ nhôm di động trong đất. Lượng vôi phải dùng nhiều và hiệu quả của chu kỳ bón vôi lại ngắn (2 - 3 vụ thì chua trở lại). Theo một số tác giả thì nên bón vôi hàng năm, mỗi năm chỉ bón một lượng nhỏ (tương đương với 1/4 – 1/3 mức độ chua thuỷ phân) là kinh tế nhất.
- Biện pháp bón phân: Bón cân đối N, P, K cho cây trồng, đặc biệt chú ý đến P vì P là yếu tố hạn chế của đất phèn. Nên sử dụng phân lân tecmophophat thay cho supe phosphat để tăng các cation kiềm, kiềm thổ cho đất, hạn chế đất tích luỹ SO4-2. Chúng ta có thể sử dụng bột apatit hay phosphorit nghiền bón trực tiếp.
- Biện pháp canh tác: Trong đó đặc biệt chú ý là giữ nước thường xuyên trên ruộng, tuyệt đối không cày ải để tránh bốc phèn. Những nơi đất bị phèn mạnh phải “lên líp” rửa phèn trước khi trồng trọt.
Tăng cường sử dụng các bộ giống cây trồng chịu phèn có khả năng cho năng suất cao v.v... Với những nơi trũng có thể trồng cói một số năm để giảm lượng phèn trước khi trồng lúa, với nơi địa hình cao có thể trồng các loại cây chống chịu chua mặn tốt như mía, dứa...
5.3.2.3. Đất xám bạc màu có tầng loang lổ (Xl)- Plinthic Acrisols (ACp)
Diện tích 221.360 ha. Phân bố ở vùng giáp gianh giữa đồng bằng với vùng trung du Bắc Bộ, được hình thành trên phù sa cổ. Tập trung ở các địa phương như Sóc Sơn, Đông Anh (Hà Nội), Mê Linh (Vĩnh Phúc), Việt Yên, Tân Yên, Hiệp Hoà (Bắc Giang)...
Về hình thái, lớp đất mặt có màu xám trắng hoặc xám, tầng B có những vệt loang lổ vàng, vàng đỏ, có đặc tính plinthic điển hình. Thành phần cơ giới thay đổi rất rõ theo chiều sâu phẫu diện, tầng mặt là cát hoặc thịt pha cát, tầng B thường là thịt hay thịt pha sét. Tầng canh tác thường nghèo dinh dưỡng và chua (pHKCl từ 3,5 - 4,5), độ xốp thấp (<50 %), nghèo mùn (<1 %). Tổng cation kiềm trao đổi thấp (< 4 me/100g đất). Dung tích hấp thu thấp (<10 me/100g đất). Thường gặp tầng đá ong ở tầng tích tụ. Do thành phần cơ giới nhẹ ở tầng mặt dung tích hấp thu thấp, hữu cơ nghèo nên giữ nước giữ phân kém. Đất dễ thoát nước nhưng khó giữ nước. Khi mưa hay quá ẩm dễ bị gí chặt, nên nông dân thường gọi là đất “Trâu ra mạ vào” và “đất cày nhiều hơn bừa”.
Sử dụng và cải tạo đất xám có tầng loang lổ:
- Sử dụng: Là loại đất thích nghi cho trồng các cây lấy củ, các cây đậu đỗ cũng có thể trồng một số cây lương thực như lúa, ngô... Nếu trồng cây ăn quả thì cần giữ ẩm trong giai đoạn kiến thiết cơ bản. Là đất nghèo dinh dưỡng nên cần có chế độ phân bón N, P, K hợp lý, đặc biệt là phân hữu cơ cải tạo đất. Khi bón phân vô cơ cần bón thành nhiều đợt. Chú trọng luân canh cây trồng đặc biệt là cây họ đậu cải tạo đất. Do là đất nghèo dinh dưỡng, không nên cày ải, khai thác đất.
- Cải tạo: Tăng keo trong đất bằng bón phân hữu cơ, tưới phù sa mịn. Đối với đất ruộng cần cày sâu dần lật sét. Bón vôi kết hợp với phân hữu cơ là biện pháp rất quan trọng để nâng cao độ phì đất, cải tạo lý tính đất như kết cấu, dung tích hấp thu.... Đối với đất có độ dốc cần có các biện pháp chống xói mòn, giữ ẩm cho đất.
5.3.2.4. Đất lầy (GLu) - Umbric Gleysols (Glu)
Diện tích 43.289 ha.
Đất lầy nằm trong nhóm đất glây (GL), là đơn vị đất phân bố tại những vùng thường xuyên úng nước. Ở Việt Nam đất lầy thường phổ biến ở một số vùng của đồng bằng sông Hồng, khu Bốn cũ, rải rác ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, duyên hải Trung Bộ và một số thung lũng lầy thụt miền núi phía Bắc. Đất được hình thành ở những nơi thấp, trũng, ứ đọng nước và nơi có mực nước ngầm nông. Do úng nước lên các sản phẩm tích đọng bởi xói mòn ở nơi cao xuống cộng với xác các sinh vật thuỷ sinh bị phân huỷ chậm chạp trong điều kiện yếm khí đã sinh ra loại đất này.
Đất lầy thường không có tầng A, không có cấu trúc, đất thường giàu chất hữu cơ và mùn (OC = 3-4 %) nhưng chủ yếu là dạng mùn thô, các xác hữu cơ bán phân giải trong điều kiện yếm khí. Đất có phản ứng chua (pHKCl thường nhỏ hơn 4,4), trong đất chứa nhiều sản phẩm khử tạo ra trong điều kiện yếm khí như CH4, H2S, rượu, Fe+2, Mn2+... Đất nghèo lân và ka li. Nhìn chung đất lầy có độ phì tiềm tàng khá cao, nhưng độ phì hiệu lực thấp.
* Cải tạo và sử dụng đất lầy:
- Cải tạo: Lưu ý đầu tiên là biện pháp thuỷ lợi. Nếu đất lầy có biện pháp tiêu nước hạ mực nước, đồng thời đào mương chặn nước ngầm từ các đồi núi xung quanh xuống thì một vài vụ sau đất lầy sẽ khô dần lớp mặt và canh tác sẽ thuận lợi.
Biện pháp bón phân cũng rất cần thiết cho việc cải tạo đất lầy, nhất là bón vôi. Do đất lầy thiếu lân và kali, nhất là lân, nên bón lân chậm tan cho đất lầy hiệu quả gần bằng bón đạm ở các loại đất khác. Các kết quả nghiên cứu về yếu tố dinh dưỡng hạn chế năng suất lúa ở Bắc Thái (cũ) đã khẳng định hiệu lực của lân cho loại đất này.
- Sử dụng: chủ yếu trồng 1-2 vụ lúa nước. Có thể trồng ngô đông cho năng suất cao bằng biện pháp trồng bầu và lên luống. ở những nơi không có khả năng hạ thấp mực nước ngầm có thể sử dụng nuôi trồng thuỷ sản, vịt, kết hợp cấy lúa chịu chua và úng, v.v...
5.4. ĐẤT ĐỒI NÚI VIỆT NAM
10>1>50>
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |