MỤc lục danh mục các bảNG



tải về 0.6 Mb.
trang1/5
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích0.6 Mb.
#13364
  1   2   3   4   5

B¸o c¸o tèt nghiÖp

Hà Nội, ngày 25 tháng 08 năm 2010

Sinh viên



MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC BẢNG

Mô tả cây: 25


CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG BÁO CÁO
MIC : Nồng độ ức chế tối thiểu

IC50 : Nồng độ chất thử ức chế 50% sự phát triển của vi sinh vật

MBC : Nồng độ diệt khuẩn tối thiểu

LD50 : Liều giết chết 50% của động vật thí nghiệm



L.fermentum  : Lactobacillus fermentum

S. aureusa  : Staphylococcus aureus

B. subtilis : Bacillus subtilis

S. enterica : Salmonella enterica

E. coli : Escherichia coli

P.aeruginoa : Pseudomonas aeruginosa

C.albicans : Candida albicans

Phần I

MỞ ĐẦU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ

Thế giới thực vật xung quanh chúng ta vô cùng đa dạng và phong phú. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới, sự đa dạng của dược thảo đã lên đến hơn 20.000 loài. Việt Nam cũng như một số nước Đông Nam Á khác có truyền thống chữa bệnh theo lối y học cổ truyền từ lâu đời, vì vậy dược thảo có một vị trí rất quan trọng. Nhiều hoạt chất quan trọng như quinin, morphin… chưa thể đi bằng con đường tổng hợp mà phải chiết ra từ dược thảo. Thành tựu nghiên cứu của các ngành sinh dược học, đông y học đã cho ta biết tiềm năng kháng khuẩn của nhiều loại dược thảo, giúp chúng ta chủ động sử dụng nguồn kháng sinh thực vật để chữa một số bệnh nhiễm khuẩn một cách có hiệu quả. Trong bối cảnh dịch bệnh ở gia súc, gia cầm diễn biến ngày càng phức tạp như hiện nay do nhiều loại vi khuẩn lớn và kháng nhiều loại thuốc kháng sinh hoá dược, các bệnh virus đang có xu hướng gia tăng thì việc khai thác tiềm năng chữa bệnh của dược thảo để dập tắt dịch bệnh, giảm tổn thất kinh tế… ngày càng trở lên bức thiết.

Đối với chăn nuôi thú y, có thể nói lịch sử của quá trình sử dụng thuốc thảo mộc trong thú y trước đây còn do kinh nghiệm mang tính truyền miệng hoặc áp dụng tương tự như ở người (Lê Thị Ngọc Diệp, 1999). Ngoài ra, việc dùng các loại thuốc kháng sinh tuy mang lại hiệu quả cao nhưng lại gây nhiều tác dụng phụ, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng, sức khỏe vật nuôi, gây ô nhiễm môi trường v,v, Trong khi đó, nguồn thuốc thảo mộc lại rất phong phú, dễ kiếm, dễ sử dụng; ít độc hoặc không độc, hiệu quả sử dụng cao, giá thành rẻ và đặc biệt không gây tồn dư trong sản phẩm động vật, ít gây ảnh hưởng hoặc không gây ảnh hưởng đến môi trường.

Trong vấn đề phòng trị bệnh do vi khuẩn ở vật nuôi, đã có một số lượng khá nhiều các bài thuốc, chất thuốc dân gian dùng cho kết quả tốt mặc dù không bào chế hoặc bào chế còn thô sơ. Trên thực tế hiện nay, chúng ta đã có các nghiên cứu về tác dụng của các loại thảo dược dựa trên cơ sở thực tiễn là kinh nghiệm của ông cha và cơ sở khoa học hiện đại. Tuy nhiên, việc nghiên cứu thuốc không đơn giản và nhanh chóng. Khó khăn này không chỉ đối với nước ta do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế mà còn là tình hình chung đối với nhiều nước có nền khoa học tiên tiến vì đối tượng nghiên cứu là cây thuốc, động vật làm thuốc là những sinh vật còn chứa nhiều bí ẩn chưa khám phá ra được (Đỗ Tất Lợi, 1999). Do đó, việc đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu khai thác sử dụng thế mạnh của thảo dược là hướng đi hết sức đúng đắn, cần thiết hiện nay và trong tương lai. Xuất phát từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành:



"Nghiên cứu sàng lọc và tìm kiếm một số loài thảo dược Việt Nam có hoạt tính kháng sinh nhằm chữa trị bệnh cho gia súc".

1.2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

- Tìm kiếm các loại thảo dược Việt Nam có hoạt tính kháng sinh tốt có khả năng sử dụng trong thực tế để chữa trị bệnh nhiễm khuẩn cho gia súc.




Phần II

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CÁC CHỦNG VI SINH VẬT ĐƯỢC NGHIÊN CỨU TRONG ĐỂ TÀI

- Bacillus subtilis (ATCC 6633): Là trực khuẩn gram (+), sinh bào tử và thường không gây bệnh.

- Staphylococus aureus (ATCC 13709): Cầu khuẩn gram (+)

Theo Nguyễn Như Thanh và cộng sự (2001): Thì ở người khoẻ mạnh mang khoảng 30% Staphylococus aureu ở trên da và niêm mạc, khi có những tổn thương ở da và niêm mạc hoặc những rối loạn về chức năng thì các nhiễm trùng do Staphylococus aureus dễ dàng xuất hiện.



Staphylococus aureus gây mủ các vết thương, vết bỏng, gây viêm họng, nhiễm trùng có mủ trên da và các cơ quan nội tạng. Staphylococus aureus còn có khả năng hình thành độc tố ruột trong thực phẩm, do đó nó có thể hình thành nên chứng nhiễm độc.

- Escherichia coli (ATCC 25922):

Trực khuẩn E.coli là một loại trực khuẩn đường ruột sống ở ruột già, xuất hiện và sinh sống ở động vật chỉ sau khi sinh 2h và tồn tại đến khi cơ thể động vật chết.

E.coli là một trực khuẩn hình gậy ngắn, kích thước 2 – 3 x 0,6 µm.

Phần lớn E.coli di động do có lông ở xung quanh thân, nhưng một số không thấy di động.

Vi khuẩn không sinh nha bào, có thể có giáp mô. Vi khuẩn bắt màu Gram (-), có thể bắt màu đều hoặc sẫm ở hai đầu, khoảng giữa nhạt hơn.

Theo Nguyễn Như Thanh và cộng sự (1997): Bình thường E.coli cư trú ở phần sau của ruột, ít khi có ở dạ dày hay phía trước của ruột non. Khi sức đề kháng của con vật giảm, E.coli mới phát triển mạnh, tăng cường độc lực và gây bệnh cho cơ thể. Các tác giả cũng cho biết cấu trúc kháng nguyên của E.coli rất phức tạp, có đủ ba loại kháng nguyên O, H, K. Kháng nguyên K có 3 loại: L, A, B nên E.coli có nhiều typ huyết thanh khác nhau, có ít nhất 130 kháng nguyên O, 80 kháng nguyên K, 56 kháng nguyên H.

- Pseudomonas aeruginosa (ATCC 15442): Hay còn gọi là trực khuẩn mủ xanh, bắt màu gram (-), gây nhiễm trùng huyết, các nhiễm trùng ở da và niêm mạc, gây viêm đường tiết niệu, viêm màng não, màng trong tim, viêm ruột.

- Canđia albicans (ATCC10231): Là nấm men, thường gây bệnh tưa lưỡi ở trẻ em và các bệnh phụ khoa.

- Lactobacilus fermentum: Bắt màu gram (+), là loại vi khuẩn đường ruột lên men có ích, thường có mặt trong hệ tiêu hoá của người và động vật.

- Salmonella enterica: Bắt màu gram (-), vi khuẩn gây bệnh thương hàn, nhiễm trùng đường ruột ở người và động vật.

2.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC DÙNG THUỐC THẢO MỘC TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH CHO GIA SÚC

Từ thủa sơ khai loài người đã biết tìm kiếm các loại cây cỏ trong thiên nhiên dùng làm thức ăn và để chữa bệnh. Những hiểu biết về các loại cây cỏ chỉ được truyền miệng, ghi chép đúc kết thành kinh nghiệm chứ chưa được nghiên cứu tỷ mỉ, khoa học.

Ngày nay, nhiều loại cây thuốc đã được sử dụng, mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt trong phòng trị bệnh cho người và gia súc. Có nhiều bài thuốc gia truyền vẫn chưa được giải thích về cơ chế. Xu thế chung hiện nay là kết hợp giữa Đông y và Tây y với phương châm áp dụng những kinh nghiệm của ông, cha ta bằng thuốc Nam, vừa nghiên cứu khảo sát tính năng, tác dụng cây thuốc bằng cơ sở khoa học hiện đại (Đỗ Tất Lợi, Ngô Xuân Thu, 1970).

Có thể nói lịch sử của quá trình sử dụng thuốc thảo mộc trong thú y trước đây còn do kinh nghiệm mang tính truyền miệng hoặc áp dụng tương tự như ở người (Lê Thị Ngọc Diệp, 1999).

Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thuốc Đông dược để phòng bệnh cho vật nuôi. Thuốc có nguồn gốc thảo mộc có giá thành rẻ, dễ kiếm, dễ sử dụng tránh được các quy trình bào chế phức tạp, ít gây độc mà hiệu quả lại cao. Thêm nữa các loại thuốc này hoặc không có hoặc tồn tại dư lượng rất nhỏ. Chính vì vậy thảo dược ngày càng trở nên quan trọng trong phòng trị bệnh cho gia súc, gia cầm.

Trong đề tài này chúng tôi mong muốn nghiên cứu sàng lọc nhằm tìm kiếm một số loại cây thảo dược có hoạt tính kháng sinh để chữa bệnh cho gia súc.



2.2.1.Cơ sở khoa học để nghiên cứu tác dụng của dược liệu

Khi xét tác dụng của một vị thuốc theo khoa học hiện đại chủ yếu căn cứ vào thành phần hoá học của vị thuốc, nghĩa là tìm trong vị thuốc có những hoạt chất gì, tác dụng của những hoạt chất ấy trên in vitro, in vivo và trên cơ thể động vật cũng như trên người như thế nào?

Các chất chứa trong vị thuốc, hay thành phần hoá học của cây có thể chia thành hai nhóm chính: nhóm chất vô cơ và nhóm chất hữu cơ. Những chất vô cơ tương đối ít và tác dụng dược lý không phức tạp. Trái lại, các chất hữu cơ có rất nhiều loại và tác dụng dược lý hết sức phức tạp. Hiện nay khoa học vẫn chưa phân tích được hết các chất có trong cây do đó chưa giải thích được đầy đủ tác dụng dược lý của thuốc mà ông cha ta đã dùng.

Việc nghiên cứu tác dụng chữa bệnh của một số vị thuốc không đơn giản, vì trong một vị thuốc đôi khi chứa rất nhiều hoạt chất, những hoạt chất đó có lúc phối hợp hiệp đồng với nhau làm tăng cường và kéo dài tác dụng, nhưng đôi khi giữa chúng lại có tác dụng đối kháng. Vì vậy, tác dụng của một dược liệu không quy hẳn về một thành phần chính. Sự thay đổi liều lượng cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả chữa bệnh. Trong đông y thường sử dụng phối hợp nhiều vị thuốc, hoạt chất của các vị thuốc sẽ tác động với nhau làm cho việc nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị càng khó khăn (Phạm Khắc Hiếu, Bùi Thị Tho, 1995).

Nghiên cứu tác dụng dược lý của thuốc trên động vật thí nghiệm là một khâu hết sức quan trọng. Khi kết quả tác dụng dược lý phù hợp với những kinh nghiệm của nhân dân, chúng ta có thể yên tâm sử dụng những loại thuốc đó. Trong trường hợp nghiên cứu một vị thuốc nhưng không có kết quả, chưa nên kết luận vị thuốc ấy không có tác dụng điều trị vì phản ứng của các cơ thể sinh vật là khác nhau. Chính vì thế, những kết quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm phải được xác định trên lâm sàng, mà những kinh nghiệm chữa bệnh của ông cha đã có từ hàng ngàn năm trở về trước là những kết quả thực tiễn có giá trị. Nhiệm vụ của chúng ta là tìm ra cơ sở khoa học hiện đại của những kinh nghiệm đó (Đỗ Tất Lợi, 1991).

Mặt khác, trong thời gian gần đây trên thế giới tình trạng vi sinh vật gây bệnh kháng thuốc xảy ra khá phổ biến do việc sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi với mục đích kích thích tăng trọng và phòng bệnh. Vì vậy ngày 23/07/2003, Ủy ban an toàn thực phẩm EU chính thức khẳng định việc ban bố lệnh cấm sử dụng tất cả các loại kháng sinh như chất kích thích sinh trưởng trong thức ăn chăn nuôi và lệnh cấm này đã có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Tại Việt Nam, tình trạng này cũng diễn ra ngày càng phổ biến gây ra những tổn thất về kinh tế trong chăn nuôi, khó khăn cho công tác phòng chống dịch. Cụ thể, theo kết quả nghiên cứu của Phạm Khắc Hiếu và Bùi Thị Tho trong 20 năm, từ 1975- 1995, vi khuẩn E.coli phân lập từ phân của lợn con phân trắng ở một số tỉnh phía Bắc đã kháng thuốc rất nhanh, tính đa kháng cũng cho một hình ảnh tương tự. Cụ thể năm 1975 có 6% số chủng kháng với 3 loại thuốc, 17% kháng với 2 loại thuốc, không có chủng nào kháng với 4, 5, 6 hoặc 7 loại thuốc. Năm 1995 có 5% số chủng kháng với 7 loại thuốc kiểm tra, 6% kháng với 6 loại, đại bộ phận các chủng kháng thuốc đều kháng từ 2- 5 loại thuốc. Đây thực sự là mối quan tâm lớn của chúng ta.

Với xu hướng “Quay về với tự nhiên”, những năm gần đây, một số nước phát triển Châu Âu cũng đã bắt đầu xem xét đến việc đưa đông dược vào chữa bệnh. Hiện nay, mức tiêu thụ hàng năm trên thị trường đông dược quốc tế trị giá khoảng 16 tỷ USD. Các nước bán đông dược (dưới dạng thô và thành phẩm) nhiều nhất là Nhật Bản, chiếm 80%; Ấn Độ, Xing-ga-po chiếm 7% (theo vietnamnet).

Trong lĩnh vực thú y, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đông dược và sử dụng thuốc nam trong phòng, trị bệnh cho vật nuôi. Thuốc có nguồn gốc từ dược liệu thường dễ kiếm, quy trình bào chế đơn giản, giá thành rẻ dễ sử dụng, ít gây độc hại lại có hiệu quả cao. Ưu điểm nổi bật của thảo dược là không để lại với hàm lượng rất nhỏ chất tồn dư độc hại trong sản phẩm động vật. Vì vậy dược liệu thảo mộc trở thành nguồn thuốc quan trọng, góp phần vào việc phòng, trị bệnh cho gia súc, gia cầm.



2.2.2. Một số thành tựu nghiên cứu khoa học về cây thuốc ở Việt Nam trong thời gian qua

Từ xa xưa, cha ông ta đã biết sử dụng nguồn dược liệu quý giá sẵn có của đất nước với phương pháp chế biến hay các dạng bào chế thích hợp để chữa bệnh cho người và gia súc

Những công trình nghiên cứu về loại thảo dược trong thời gian gần đây đã phát hiện nhiều đặc tính mới và quý của cây, động vật làm thuốc có tác dụng trong phòng và chữa bệnh. Một trong các ngiên cứu đó chỉ ra rằng: các thuốc có nguồn gốc thảo mộc có tác dụng tốt, ít gây nên tác dụng phụ trong khi các thuốc hoá dược thường gây nên các tác dụng phụ, có thể gây tăng đột biến gen, tăng nguy cơ ung thư, quái thai dị hình (Viện dược liệu).

Ngày nay, bằng các kết quả thu được đã ngày càng khẳng định rõ mối quan hệ giữa dược liệu và sức khoẻ cộng đồng. Nhiều bệnh nan y được chữa trị nhờ sự đóng góp của dược liệu.

Một số nghiên cứu về dược liệu được công bố gần đây là:

Các công trình nghiên cứu về lĩnh vực Đông dược, y dược cổ truyền bên nhân y đã và đang thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam. Các nhà khoa học trong nước đã chú ý đến việc sử dụng các dược liệu thực vật trong phòng và trị bênh truyền nhiễm, ký sinh trùng, nội ngoại sản khoa… Riêng lĩnh vực thú y, nghiên cứu về cây thuốc phòng trị bệnh cho vật nuôi còn ít và cũng chỉ giới hạn trong việc khai thác và áp dụng các bài thuốc cổ truyền.

Các nhà khoa học thế giới đều cho rằng hiệu quả kinh tế, đặc biệt là an toàn sinh học khi sử dụng các dược phẩm có được từ tự nhiên (thảo dược, động vật dùng làm thuốc: phòng và trị bệnh, thức ăn dinh dưỡng, điều trị bổ sung, kích thích sinh trưởng, sinh sản…) so với thuốc hoá học tổng hợp do con người tạo ra tốt hơn rất nhiều. Theo Nguyễn Mạnh Hùng (1995) cho biết từ hai thập niên cuối thế kỷ 20 nhiều nước trên thế giới, đặc biệt các nước Đông Nam Á đã sử dụng các hoạt chất của hoa cúc trừ trùng làm thuốc trị ngoại ký sinh trùng và sâu tơ phá hoại cây trồng nông nghiệp. Các nhà khoa học Hàn Quốc: Lee I. R, Song J.Y., Lee Y. S. 1992 cũng đã nghiên cứu tác dụng chống ung thư của toàn cây Quyền bá (Selaginella tamariscina “Beauv” spring) họ Selaganiellaceae chiết bằng cồn methanol rồi cô thành cao đặc. Dùng cao chiết được từ toàn cây quyền bá thử trên tế bào ung thư dòng tế bào P388 và MKN-45 in vitro. Kết quả cho thấy chất chiết làm tăng tế bào chết và làm giảm tế bào sống so với lô đối chứng. Từ cây Đại (Phumeria ruba linn var acutifolia baill) chiết được chất Fulvoplumierin có tác dụng ức chế vi khuẩn lao ở nồng độ 1- 5µg/ml, nước ép từ lá tươi có tác dụng với vi khuẩn Staphylococcus, ShigellaBacillus subtilis (Vũ Xuân Quảng, 1993).

Gần đây các nhà khoa học trên thế giới phát hiện thêm nhiều đặc tính quý hiếm của Linh Chi (Ganoderma lucidum) trong việc chữa các bệnh về gan mật và ung thư… thậm chí cả hiệu ứng ngăn ngừa và chống căn bệnh thế kỷ AIDS (Viện dược liệu).

Khi nghiên cứu về cây tỏi, các nhà khoa học trên thế giới đã cho biết: ngoài tác dụng kháng sinh trị vi khuẩn, virut, nấm gây bệnh, tác dụng trị nguyên sinh động vật, trị sâu bọ… Tỏi còn điều trị rất nhiều bệnh hiểm nghèo trên người và động vật như:

+ Tỏi có tác dụng trị bệnh trên tim và hệ tuần hoàn. Tỏi làm giảm cholesterol và lipid máu. Hoạt chất của tỏi có tác dụng giảm cholesterol và lipid trong máu là allicin ngâm trong dầu thực vật. Tỏi còn có tác dụng làm giảm huyết áp, tăng sức đề kháng của mạch máu và chức năng tim.

+ Tỏi cũng có tác dụng chống ung thư và chống oxy hóa nên có tác dụng giải độc, nhất là kim loại nặng và các độc tố khác nên có tác dụng phòng chống độc hại cho gan.

Các hoạt chất có trong lá chè ngoài những tác dụng thông thường như giải cảm, giải độc, lợi tiểu người ta còn mới phát hiện ra một giá trị đặc biệt đó là khả năng làm tăng sức đề kháng của trẻ em đối với virus gây bệnh viêm não Nhật Bản B.

Tự nhiên Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao, có tới 2/3 diện tích đất tự nhiên trong nước là rừng, đồi núi và cao nguyên. Theo Nguyễn Thượng Đông – Viện Dược liệu năm 2002, Việt Nam có 10386 loài thực vật trong đó có 3830 loài có khả năng sử dụng làm thuốc. Trong công nghiệp dược phẩm nhân y đã có 1340/5577 loại thuốc chiếm 24% được sản xuất từ dược liệu hay hoạt chất từ dược liệu như: berberin, palmatin, artemisinin. Nhân y sử dụng được dược liệu với nhiều mục đích khác nhau: thức ăn thay thế, phòng trị các bệnh truyền nhiễm, ký sinh trùng, nội, ngoại, sản khoa, ung thư… với rất nhiều dạng thuốc khác nhau: thuốc sắc, thuốc cao, viên hoàn, viên nén…

Về lĩnh vực thú y, Trần Minh Hùng và cộng sự 1978 đã nghiên cứu sử dụng các kháng sinh thực vật trong nuôi dưỡng và phòng trị bệnh cho lợn, đặc biệt là lợn con phân trắng đạt hiệu quả cao. Bùi Thị Tho (1996), nghiên cứu tác dụng bệnh lợn con phân trắng của các cây Tỏi, Tô mộc, Hành, Hẹ và dây Hoàng đằng. Đặc biệt tác giả còn cho thấy vi khuẩn E.coli kháng lại kháng sinh thực vật của Tỏi, Hẹ lại chậm hơn rất nhiều so với thuốc hoá học trị liệu khác: Tetracyclin, Neomycin, Furazolidon… Riêng mảng sử dụng các cây dược liệu: lá thuốc lào, thuốc lá, hạt Na, vỏ rễ Xoan, hạt Cau, củ Bách bộ, dây thuốc Cá, hạt Củ đậu… để trị nội, ngoại ký sinh trùng thú y cũng đã thu được những hiệu quả nhất định (Nguyễn Văn Tý, 2002).

Phạm Khắc Hiếu và Lê Minh Hoàng (2001) đã chọn được một số dược liệu Việt Nam: Bạc hà, Kinh giới, Mần tưới có tác dụng tốt trong phòng và trị bệnh ngoại ký sinh trùng ong. Dựa trên kết quả nghiên cứu của đề tài các tác giả đã xây dựng được quy trình phòng trị bệnh ngoại ký sinh trùng tối ưu cho ong tỉnh Đắc Lắc.

Theo Lê Thị Ngọc Diệp (1999) cây Astiso (Cynara scolymus. L) chứa nhiều hoạt chất có tác dụng chống viêm, lợi tiểu, thông mật, bổ gan…

Tác giả Bùi Thị Tho (1996), khi theo dõi tính kháng thuốc của hai loại vi khuẩn E.coli Salmonella cho biết:

+ Các loại vi khuẩn E.coli Salmonella kháng lại thuốc hoá học trị liệu như Streptomycin, Neomycin, Tetracyclin… rất nhanh, đồng thời giữa chúng có hiện tượng kháng chéo. Trong khi đó chưa phát hiện thấy E.coliSalmonellai kháng lại Phytoncid của Tỏi, Hẹ mặc dù loại dược liệu này đã được ông cha ta sử dụng từ rất lâu và thường xuyên.

+ Trong phòng thí nghiệm, thời gian để tạo các chủng vi khuẩn kháng lại Phytoncid của Tỏi, Hẹ lâu hơn từ 3 - 5 lần so với các loại thuốc hoá học trị liệu. Khi tăng nồng độ Phytoncid lên 5 lần so vời nồng độ tạo kháng, vi khuẩn đã bị tiêu diệt. Nhưng đối với thuốc hoá học trị liệu dù đã tăng nồng độ lên 20 lần hay cao hơn nữa so với nồng độ tạo kháng mà vi khuẩn vẫn sống.

Theo Trần Quang Hùng (1995) trong Thuốc lá, Thuốc lào có chứa Ankaloid thực vật – Nicotin và Nornicotin trừ được ngoại ký sinh trùng và côn trùng hại rau, cây công nghiệp.



2.3. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TÌM KIẾM, PHÁT TRIỂN VÀ NGHIÊN CỨU PHYTONCID Ở VIỆT NAM

Từ bao đời nay ông cha ta đã biết dùng cỏ cây, nhất là các cây có chứa phytoncid- kháng sinh thực vật để chữa bệnh cho người và gia súc

Tuệ Tĩnh trong quyển “Nam dược thần hiệu”, từ thế kỷ 13, đã kê đơn dùng tỏi để chữa mụn nhọt. Trong đơn, Tuệ Tĩnh còn ghi rõ: “ăn nhiều, tán khí, hại người”. “Đỗ Tất Lợi (1970, 1977). Điều đó chứng tỏ không những ông cha ta biết sử dụng kháng sinh mà còn am hiểu về tác dụng độc của chúng. Nhiều bài thuốc dân gian trong nhân dân, từ ngàn xưa đã dùng chữa nhiễm trùng, được sử dụng dưới nhiều hình thức rất phong phú: trong uống, ngoài xoa, dán cao, rắc bột…Ngày nay chúng ta đã tìm hiểu được cơ sở của các bài thuốc trên. Trong các bài thuốc đó đều có chứa một số vị thuốc có phytoncid. Thời Pháp thuộc, những kinh nghiệm lâu đời này trong dân gian bị chèn ép, mai một dần trước sự cạnh tranh của các thuốc tổng hợp phương tây. Kháng sinh thực vật đã bị coi nhẹ, gần như nó chỉ được sử dụng ở những vùng nông thôn hẻo lánh và rừng núi xa xôi. Sau Cách mạng tháng 8, nhất là ngày hoà bình lặp lại 1954 vời phương châm đông tây y kết hợp, kháng sinh cỏ cây mới được chú y và bắt đầu có nhiều công trình nghiên cứu cho kết quả tốt. Những kết quả ấy được thể hiện ở các mặt sau:

2.3.1. Về điều tra cơ bản

- Nguyễn Đức Minh (1972) Viện Nghiên Cứu Đông Y, dưới sự hướng dẫn của Nguyễn Văn Hưởng, đã sơ bộ thử tác dụng kháng sinh của 1500 cây thuốc ở Việt Nam. Kết quả đã tìm được 185 cây có kháng sinh thực vật ở mức độ khác nhau.

- Vũ Minh Đức (1978) điều tra ở miền trung trung bộ thống kê được trên 60 cây thuốc có kháng sinh thực vật.

- Trường đại học quân y phát hiện trên 100 cây có kháng sinh thực vật



2.3.2. Về hoá dược liệu

Đã nghiên cứu chiết xuất thành công nhiều hoạt chất của dược liệu và đã tiến hành sản xuất quy mô lớn các mặt hàng dược phẩm từ các hoạt chất đó như: panmatin, berberin, quinin, brasilin, artemisinin…

- Nhiều loại tinh dầu đã xác định được thành phần hoá học, đã tinh chế thành các mặt hàng xuất khẩu có khối lượng lớn và giá trị kinh tế cao như: Bạc hà, Sả, Hồi, Trầu không, Tỏi, Quế, Sa nhân…

- Một số hợp chất thuộc nhóm flavonozid, quinoid, tanoid… cũng được nghiên cứu nhiều. Trong số các alcaloid là kháng sinh, berberin được nghiên cứu nhiều hơn. Theo Đỗ Tất Lợi (1977),ở Việt Nam có 8 cây thuốc chứa berberin mà giây Vàng đắng được khai thác nhiểu nhất. Từ một số cây thuốc hoang dại, đến nay Vàng đắng đã trở thành một nguồn dược liệu quý, được thu gom nhiều để chiết xuất berberin, làm thuốc chữa tiêu chảy, kiết lỵ của người và gia súc. Qua bảy năm nghiên cứu, điều tra Vàng đắng, Nguyễn Tập (1987) Viện Dược liệu trung ương đã thống kê và phát hiện thấy vàng đắng được phân bố ở 11 tỉnh (từ Bình Trị Thiên và Đồng Nai) thuộc điạ phận của 39 huyện với 107 xã. Hiện nay nhiều đơn vị, địa phương đã sản xuất ra hàng chục tấn berberin. Riêng học viện quân y từ 1975- 1981 đã chiết được 2,5 tấn berberin tinh khiết.



2.3.3. Phân loại phytoncid

Trên thực tế để tiện cho công tác điều trị, người ta chia phytoncid thành những nhóm sau:



2.3.3.1 Phytoncid dùng trong điều trị vết thương nhiễm trùng và chống nấm gây bệnh ngoài da

Trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ, các chiến trường đã sử dụng nhiều cây thuốc để chữa vết thương. Để chữa vết thương phần mềm người ta dùng các cây: Mỏ quạ, lá Vối, Tô mộc, Sung, Sâm đại hành, Dừa cạn, Lọc sởi…Bệnh viện Việt Tiệp đã nghiên cứu lá cây Sắn thuyền làm se vết thương và chống nhiễm trùng tốt. Hiện nay việc tìm kháng sinh chống nhiễm trùng mủ xanh trong điều trị đang là vấn đề thời sự ở nhiều nước. Theo Đặng Hạnh Khôi (1978) và nhiều tác giả khác trên thế giới, tỷ lệ xạ khuẩn cho kháng sinh, có tác dụng với trực trùng mủ xanh, chỉ vào khoảng 3%. Nhưng qua điều tra cây cỏ Việt Nam, chúng ta gặp rất nhiều cây có tác dụng trên. Ngoài cây Lân tơ uyn thuộc họ Ráy còn có Đuôi phượng, Ráy leo, Ráy dai, Bèo tây…Phytoncid không phải chỉ có ở họ Ráy mà còn ở hàng loạt các họ khác nữa như Mỏ quạ, Diếp cá, lá Sòi, vỏ cây Gạo…

Chữa bệnh ngoài da do nấm gồm các dược liệu Mỏ quạ, Mâm xôi, nhựa chuối tiêu, lá Mướp, vỏ quả Xanh và lá búp Ổi, lá cây Bạch hoa sà…

2.3.3.2. Phytoncid chữa bệnh đường ruột và hô hấp

+ Chữa lao dùng đã có kết quả: nước Tỏi, Mã đề thảo, Bách bộ. Đỗ Văn Thạch (1977).

+ Viêm họng có Huyền sâm, Dẻ quạt, Gừng, Húng chanh…

+ Tiêu chảy: lá Vối, búp Chè, vỏ quả và lá Ổi, Tỏi…

+ Chữa lỵ gồm các cây: Tô mộc. Nha bào tử, hạt Vải, Vối, Lân tơ uyn, Ráy leo, Hoàng đẳng, Vàng đắng, cỏ Sữa lá nhỏ, cỏ Sữa lá lớn. Viện Dược liệu nghiên cứu sử dụng chế phẩm của Tỏi ở dạng formalglyxerin, Thừng mực lá to, lá Hồng bì cũng có tác dụng tốt. Đỗ Văn Thạch (1977).

2.3.3.3. Phytoncid tác dụng với ký sinh trùng

+ Với ký sinh trùng sốt rét dùng cây Thường sơn (Dichrea febrifuga - Saxifragaceae). Khu năm dùng cây Dền kết hợp với Hoàng đằng. Đặc biệt gần đây đã nghiên cứu sản xuất artemisinin từ Thanh hao hoa vàng dùng cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu



2.3.4. Các nghiên cứu phytoncid ở Việt Nam

Riêng trong ngành chăn nuôi thú y, các kết quả nghiên cứu như trên không nhiều nhưng cũng đã có những kết quả đáng chú ý:

- Phạm Khắc Hiếu (1976), đã viết cuốn đông dược thú y, đầu tiên ở Việt Nam, dùng làm tài liệu giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành thú y ở trường đại học Nông Nghiệp. Trong giáo trình này tác giả cũng đã viết một chương về phytoncid. Chương này đề cập đến các cây: Tỏi, Hẹ, Tô mộc… dùng để điều trị bệnh nhiễm khuẩn cho gia súc.

- Nguyễn Hữu Nhạ (1978), cho ra mắt cuốn sách: “Thuốc nam chữa bệnh gia súc, gia cầm”. Trong đó tác giả đã sưu tầm và xác minh những kinh nghiệm chữa bệnh trong nhân dân và có nhiều bài thuốc mẫu có giá trị.

- Trần Minh Hùng (1978) trong quá trình sưu tầm những cây thuốc nam chữa bệnh lợn con phân trắng đã công bố:


  • Lá Bạc thau + Nghể, tỷ lệ khỏi bệnh là 85%

  • Cây Bồ bồ + Chí tử, tỷ lệ khỏi bệnh là 85%

  • Tỏi ta, tỷ lệ khỏi bệnh là 70%

  • Cỏ xước, tỷ lệ khỏi bệnh 60%

  • Búp ổi + gừng tươi, tỷ lệ khỏi bệnh 50%

Mặc dù tỷ lệ khỏi bệnh của các thuốc trên chưa cao nhưng hiệu quả không kém việc sử dụng các kháng sinh hoặc các thuốc hoá học trị liệu khác. Điều đặc biệt đáng quan tâm ở đây là tỷ lệ lợn con được nuôi sống tăng từ 54% đến 58%. Tỷ lệ lợn con còi cọc giảm từ 30% xuống 10%. Trọng lượng cai sữa toàn đàn tăng từ 4,6 – 7 kg lên 9 – 10 kg/con, (so sánh với lô đối chứng, được chữa bằng các thuốc hoá học trị liệu.)

- Phạm Khắc Hiếu (1969), đã nghiên cứu sử dụng Tỏi ta (Allium sativum L) trong điều trị bệnh tụ huyết trùng gà và đưa ra hướng sử dụng Tỏi trong thú y. Cùng tác giả, năm (1968) công bố kết quả nghiên cứu ứng dụng cây Bồ công anh (Lactura Indica L và Taraxacum officinal L.) điều trị viêm tắc sữa ở bò, lợn. Thuốc không những có tác dụng tốt lên vi khuẩn gây viêm vú mà còn có tác dụng thông tia sữa, lợi sữa. Trong năm (1968), tác giả còn ứng dụng Tô mộc vào điều trị bệnh tiêu chảy ở lợn con.

- Phạm Ngọc Viễn (1984) đã điều tra và tìm được 10 cây kháng sinh thực vật có tác dụng tốt trên vi trùng gây bệnh trên ong mật

- Trần Minh Hùng và cộng sự (1978), viện thú y quốc gia đã dùng kháng sinh thực vật: Mộc hương, Tô mộc, Tỏi trong chăn nuôi và phòng bệnh đường tiêu hóa lợn. Tác giả đã dùng Tỏi làm thuốc kích thích sinh trưởng ở lợn con…

- Phạm Khắc Hiếu và cộng sự (1995) đã kiểm tra tính kháng khuẩn của hơn 120 loại dược liệu chứa phytoncid đối với vi khuẩn gây bệnh thú y thường gặp. Các tác giả đã tìm ra những dược liệu có tác dụng tốt với từng loại vi khuẩn gây bệnh cho gia súc, gia cầm.

Trong giáo trình Đông dược thú y tái bản (1994) Phạm Khắc Hiếu cũng đã nêu nên quan điểm sử dụng phytoncid để kích thích tăng trọng gia súc, gia cầm. Hướng sử dụng này sẽ khắc phục được những nhược điểm do kháng sinh tố gây nên như: hiện tượng kháng thuốc của vi trùng, dư cặn kháng sinh trong sản phẩm chăn nuôi.

Gần đây nhất, Lê Thị Ngọc Diệp (1996), Trường đại học Nông Nghiệp I, trong luận án thạc sỹ khoa học thú y cũng đã công bố công trình nghiên cứu: “Tác dụng dược lý và khả năng ứng dụng cây Astiso trong chăn nuôi thú y”. Ngoài tác dụng làm thuốc kích thích tăng trọng gia cầm; cây Astiso còn có tác dụng với một số vi khuẩn như Staphylococus aureu; Escheriacoli; Salmonella; Bacillus subtilis. Thuốc có tác dụng điều trị vết thương phần mềm thực nghiệm trên chuột, tốt hơn hẳn bleumetylen và kháng sinh granulin.

Qua điều tra nghiên cứu cây thuốc, môn thuốc nam đã cho thấy có nhiều ưu điểm như chữa được hầu hết các bệnh thông thường và một số bệnh nhiễm trùng, thuốc dễ sử dụng, giá rẻ, dễ trồng hoặc dễ tìm kiếm.

Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo đông tây y kết hợp, khoa học hoá và hiện đại hoá nền thú y dân tộc cổ truyền, đồng thời xuất phát từ yêu cầu thực tiễn. Chúng tôi đã tiến hành tìm kiếm và kiểm tra 20 cây thuốc trên một số loại vi khuẩn gây bệnh thú y. Từ đó sàng lọc ra những cây có tác dụng tốt với vi khuẩn E.coli.

Để tìm kiếm và sàng lọc các hoạt chất thiên nhiên có hoạt tính kháng sinh trong điều trị bệnh cho gia súc, gia cầm. Chúng tôi đã dùng các phép thử sinh học (in vitroin vivo) và đã sàng lọc trên 20 cây thuốc thường có trong các bài thuốc dùng chữa trị bệnh cho gia súc, gia cầm.



2.4. HIỂU BIẾT VỂ CÂY THUỐC ĐƯỢC NGHIÊN CỨU TRONG ĐỂ TÀI

1. Cây Astiso

Tên Khoa Học: Cynara Scolymus L.

Thuộc họ Cúc (Compositae)

Mô Tả:

Cây cao khoảng 1-2 m, thân và lá có lông trắng như bông. Lá mọc so le, phiến khía sâu, có gai. Cụm hoa hình đầu, mầu tím nhạt. Lá bắc dầy và nhọn. Cây được di thực và trồng nhiều ở Đà lạt, Sa pa, Tam đảo.



Thành phần hóa học:

Hoạt chất của Astiso chưa xác định được, Trong lá Astiso có chất đắng xymarin mang tính a xit. Công thức 1- 4 dicafein quinic. Ngoài ra còn có insulin, insulinlaza, tanin, các muối hữu cơ của kali, canxi, magie, natri



Ứng dụng trong thú Y:

Theo Lê Thị Ngọc Diệp (2000), cao astiso có tác dụng làm thuốc tiêu độc khi gia cầm bị trúng độc độc tố nấm mốc và kích thích tăng trưởng. Astiso có tác dụng kháng khuẩn rõ nên được sử dụng trị vết thương và chống gan thực nghiệm.



2. Cây Bạc hà

Tên khoa học: Mentha arvensis L.

Thuộc họ Hoa môi Lamiaeceace (Labiatae).

Mô tả:

Cây thảo, sống lâu năm. Thân mềm, hình vuông. Lá mọc đối, hình bầu dục hoặc hình trứng. Cuống ngắn. Mép lá khía răng đều. Hoa nhỏ, mầu trắng, hồng hoặc tím hồng, mọc tụ tập ở kẽ lá thành những vòng nhiều hoa. Lá bắc nhỏ, hình dùi. Cây mọc hoang nhiều ở Sapa, Tam Đảo, Ba Vì, Bắc Cạn, Sơn La.



Thành phần hóa học:

Toàn cây chứa tinh dầu trong có L - menthol 65 – 85%, me thyl axetat, L - menthon, L - a - pinen, L - limonen.



Tác dụng:

Chữa đau bụng đi ngoài, sát trùng mạnh, chữa cảm sốt, nhức đầu, ngạt mũi.



3. Cây Chè

Tên khoa học: Thea chinensis seem.

Họ Chè Theaceae

Mô tả: Cây nhỡ thường xanh, cao 1- 6m. Lá mọc so le, phiến lá lúc non có lông mịn, khi già thì dày, bóng, mép khía răng cưa rất đều. Hoa to, với 5-6 cánh hoa màu trắng, mọc riêng lẻ ở nách lá, có mùi thơm; nhiều nhị.

Bộ phận dùng: Cành, lá

Thành phần hoá học: Trong lá chè có tinh dầu, các dẫn xuất polyphenolic (flavonoid, catechol, tanin) các alcaloid cafein, theophyllin, theobromin, xanthin. Còn có các vitamin C, B1, B2, B3 và các men.

Công dụng: Thường được dùng trong các trường hợp: Tâm thần mệt mỏi, ngủ nhiều; đau đầu, mắt mờ; sốt khát nước; tiểu tiện không lợi; ngộ độc rượu.

4. Hoàng Bá

Tên khoa học: Phellodendron chinensis Schneid.

Thuộc họ Cam (Rutaceae)

Mô tả:

Cây gỗ cao 15m hay hơn, phân cành nhiều. Vỏ thân dày có màu vàng ở mặt trong, vị đắng. Lá kép lông chim lẻ. Hoa đơn tính, màu vàng lục, mọc thành chùy ở đầu cành. Quả hình cầu, khi chín màu tím đen, có 2 - 5 hạt.

Thành phần hoá học:

Alcaloid berberine, phellodendrine, palmatine, sistosterol. amuresin, berberin, candicin, jatrorrhzin, limonin, magnoflorin, noricarisid, obaculacton, Palmatin, phelamurin, phellodendrin, phelodendrosid, phelosid,

Công dụng:

Hoàng bá dùng chữa kiết lỵ, ỉa chảy, vàng da do viêm ống mật, viêm đường tiết niệu, các chứng đái đục, trĩ, đau mắt, viêm tai.



5. Cây Hành ta

Tên khoa học: Allium fistulosum.



Họ Hành (Alliaceae).

Thành phần hoá học:

Hành chứa rất nhiều thành phần hóa học có tác dụng phòng chữa bệnh như acid malic, phytin và alylsulfit, tinh dầu, đặc biệt là chất kháng sinh alicine hòa tan trong nước. Ngoài ra trong Hành còn chứa chất kháng khuẩn fitoncid.



Công dụng:

Do chứa nhiều chất kháng sinh nên tinh dầu hành có tác dụng sát khuẩn mạnh, dùng thoa bên ngoài chữa mụn nhọt mưng mủ. Vì hành có thể kích thích được tuyến mồ hôi nên còn được sử dụng như một thức ăn giải độc. Người ta vẫn nấu cháo hành để chữa cảm mạo, phong hàn, nhức đầu. Ăn cháo hành nóng cũng chữa đau lưng, kiết lỵ.

Ngoài ra, hành còn có tác dụng hạ thấp mỡ trong máu, có hiệu quả trị liệu nhất định đối với bệnh tim mạch. Nước ép hành rất tốt cho việc điều trị bệnh thiếu máu. Hợp chất lưu huỳnh có trong gia vị này giúp ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư.

6. Cây Gừng

Tên khoa học: Zengibber offcinale



Mô tả : Cây cỏ, sống nhiều năm. Thân rễ dạng củ, phân nhánh. Lá mọc so le, hình dải, có bẹ ôm lấy thân. Hoa màu vàng, pha xanh tím, tụ tập thành bông, mọc từ gốc. Toàn cây, nhất là thân rễ có mùi thơm, vị cay nóng.
Thành phần hóa học : Thân rễ chứa tinh dầu trong có D-camphen, zingiberen, sesquiterpen, alcol, citral, borneol, geraniol và nhựa,
Công dụng : Kháng khuẩn, giúp tiêu hóa. Chữa đau bụng lạnh, đầy trướng, không tiêu, kém ăn, nôn mửa, ỉa chảy, lỵ ra máu, nhức đầu, cảm cúm, chân tay lạnh, mạch yếu, ho mất tiếng, ho suyễn, thấp khớp, ngứa.
7. Cây Hẹ

Tên khoa học: Allium odorum.

Thuộc họ: Hành Alliaceae

Mô tả:

Cây hẹ, thuộc thân thảo, cây giống một loại cỏ, thường có chiều cao khoảng 20 đến 50 cm tùy đất và mùa vụ. Lá hẹp, hình dẹp, dài, bản lá hẹp, nhưng dày, hoa có màu trắng.



Bộ phận dùng: Cả cây

Thành phần hoá học:

Trong lá và củ hẹ có các hợp chất sunfua, saponin, chất đắng và một hợp chất có tên là odorin. Nhười ta còn phát hiện thấy trong hạt hẹ có chất ancaloit và saponin.



Tác dụng: Tán ứ, hoạt huyết, tiêu độc, tiêu đờm, cầm máu.

8. Cây Kim ngân

Tên khoa học: Lonicera japonica Thunb.

Họ: Cơm cháy Caprifoliaceae

Mô tả: Loại dây leo, cành khi non mầu xanh lục, khi gìa mầu đỏ nâu, trên thân có những vạch chạy dọc. Lá mọc đối nhau, hình trứng dài. Cả hai mặt đều phủ lông mịn. Hoa khi mới nở có mầu trắng, nở ra lâu chuyển thành mầu vàng.

Bộ Phận Dùng: Hoa mới chớm nở. Lá và dây ít dùng.

Thành phần hoá học:

Hoa chứa Scolymozid (Lonicerin), 1 số Carotenoid (S Caroten, Cryptoxantin, Auroxantin). Lá chứa Loganin (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).



Công dụng: Kim ngân có tác dụng thanh nhiệt giải độc, dùng trị sốt, mụn nhọt, lở ngứa do da bị nhiễm trùng, công năng gan thận kém nên chất độc bùng qua da gây bệnh.

9. Cây Bồ công anh

Tên khoa học: Taraxacum offcinal Wig.

Thuộc họ: Cúc (Compositae)

Mô tả: Lá mỏng nhăn nheo, nhiều hình dạng, thường có lá hình mũi mác, gần như không có cuống, mặt trên màu nâu sẫm, mặt dưới màu nâu nhạt, mép lá khía răng cưa, to nhỏ không đều. Có lá chỉ có răng thưa hay gần như nguyên. Gân giữa to và nổi nhiều. Vị hơi đắng. Đoạn thân dài 3 - 5 cm, tròn, thẳng, lõi xốp, đường kính khoảng 0,2 cm, mặt ngoài màu nâu nhạt, lốm đốm, có mấu mang lá hoặc vết tích của cuống lá.

Bộ phận dùng: Lá, cành.

Thành phần hoá học: Flavonoid, chất nhựa.

Công dụng: Trị nhọt độc, sưng vú do tắc tia sữa, tràng nhạc.

10. Cây Vàng đắng

Tên khoa học: Coscinicum usitatum Pierre



Mô tả: Dây leo, thân gỗ. Rễ và thân màu vàng. Vỏ thân nứt nẻ, màu xám trắng. Lá mọc so le, có cuống dài, hơi đính vào trong phiến lá, 3 - 5 gân, mặt dưới có lông trắng bạc. Hoa nhỏ mọc thành chùm chùy ở những thân đã rụng lá..

Bộ phận dùng: Thân và rễ. Thu hái quanh năm. Phơi hoặc sấy khô. Có thể chiết berberin

Thành phần hoá học:

Thân và rễ chứa alcaloid berberin với tỷ lệ 1,5-3%.



Công dụng:

Chữa ỉa chảy, lỵ trực khuẩn, viêm ruột, vàng da, sốt, sốt rét, kém tiêu hoá.



11. Cây Ổi ta

Tên khoa học: Psidium guyjava L.

Thuộc họ: sim Myrtaceae

Mô tả: Ổi là một loại cây nhỡ, cành nhỏ có cạnh vuông. Lá mọc đối, hình bầu dục, có cuống ngắn, phiến lá có lông mịn ở mặt dưới. Hoa có màu trắng, mọc ra từ kẽ lá. Quả mọng, có phần vỏ quả dày ở phần ngoài.

Thành phần hoá học:

Quả và lá ổi đều chứa beta-sitosterol, quereetin, guaijaverin, leucocyanidin và avicularin; lá còn có tinh dầu dễ bay hơi, eugenol; quả chín chứa nhiều vitamin C và các polysaccarit như fructoza, xyloza, glucoza, rhamnoza, galactoza...; rễ có chứa axit arjunolic; vỏ rễ chứa tanin và các axit hữu cơ.



Công dụng: Lá ổi thường được dùng làm thuốc chữa tiêu chảy do có chứa nhiều tanin, giúp làm săn niêm mạc ruột, làm giảm tiết dịch ruột, giảm nhu động ruột và có tác dụng kháng khuẩn.

12. Cây Quế

Tên khoa học: Cinmomum louveii Nees



Mô tả: Cây to, cao 10 - 20m. Vỏ thân nhẵn. Lá mọc so le, có cuống ngắn, cứng và giòn, đầu nhọn hoặc hơi tù, có 3 gân hình cung. Mặt trên lá xanh sẫm bóng. Hoa trắng mọc thành chùm xim ở kẽ lá hoặc đầu cành. Quả hạch, hình trứng, khi chín màu nâu tím, nhẵn bóng. Toàn cây có tinh dầu thơm, nhất là vỏ thân.

Bộ phận dùng: Vỏ thân, vỏ cành. Thu hái vào mùa hạ, thu. ủ hoặc để nguyên cho khô dần ở chỗ râm mát, thoáng gió. Có thể cất lấy tinh dầu.

Thành phần hóa học: Toàn cây, nhất là vỏ thân, vỏ cành, chứa tinh dầu, aldehyd cinnamic, coumarin.

Công dụng: Kháng khuẩn mạnh. Chữa tiêu hóa kém, đau bụng, ỉa chảy, lỵ, bệnh dịch tả, cảm cúm, ho hen, bế kinh, tê bại, rắn cắn 

13. Cây Tía tô

Tên khoa học: Perilla ocymoides L.



Họ Hoa môi (Lamiaceae).

Bộ phận dùng: Cả cây, trừ rễ. Phơi trong mát hoặc sấy nhẹ cho khô

Thành phần hoá học: Tinh dầu chứa perillaldehyd (4 isopropenyl 1-cyclohexen 7-al), limonen, a-pinen và dihydrocumin. Hạt có dầu béo gồm acid oleic, linoleic và linolenic; acid amin: arginin, histidin, leucin, lysin, valin.

Công dụng: Chữa cảm, sốt, nhức đầu, sổ mũi, phòng sẩy thai

  14. Cây Tỏi ta

Tên khoa học: Alliun satium L.

Họ Hành (Liliaceae).



Mô tả cây: Tỏi là cây nhỏ có “củ” (thân dò) trồng làm gia vị, khắp nơi trên thế giới từ rất xa xưa.

Thành phần hóa học: Cả cây chưa tinh dầu, mùi xông mạnh, gồm các chất: allicin, citral, alliin, geraniol, linalol, diallythiosulfonat. Ngoài ra còn một chất men (enzym) gọi là alliinase, một số vitamin A, B1, B2….

Công dụng:

Theo đông y tỏi có vị cay tính ấm, có tác dụng: giúp tiêu hóa, giúp hô hấp, giải độc trừ đờm, lợi niệu, tẩy giun.

Theo Tây y, tỏi có tác dụng: giảm cholesterol huyết, giảm huyết áp, lợi niệu, kích thích hệ miễn dịch, ngoài ra tỏi còn có tác dụng kháng sinh mạnh đối với một số loại vi khuẩn.

15. Cây Bách bộ

Tên khoa học: Stemona tuberosa Lour

Họ Bách bộ (Stemonaceae).


Каталог: nonghocbucket -> UploadDocument server07 id114188 190495
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ChuyêN ĐỀ ĐIỀu khiển tán sắC
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Trong khuôn khổ Hội nghị của fifa năm 1928 được tổ chức tại Amsterdam (Hà Lan), Henry Delaunay đã đưa ra một đề xuất mang tính đột phá đối với lịch sử bóng đá
UploadDocument server07 id114188 190495 -> MỤc lục phần I: MỞ ĐẦU
UploadDocument server07 id114188 190495 -> «Quản trị Tài sản cố định trong Công ty cổ phần Điện lực Khánh Hòa»
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Khóa luận tốt nghiệp 2010 Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong thời kì tới 85
UploadDocument server07 id114188 190495 -> ĐỒ Án tốt nghiệp tk nhà MÁY ĐƯỜng hiệN ĐẠi rs
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Đề tài: Qúa trình hình thành và phát triển an sinh xã hội ở Việt Nam
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Chuyên đề tốt nghiệp Trần Thị Ngọc – lt2 khct L ời cảM ƠN
UploadDocument server07 id114188 190495 -> Địa vị của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam

tải về 0.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương