Luận văn tốt nghiệp


NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NHNT VIỆT NAM



tải về 440.32 Kb.
trang7/9
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích440.32 Kb.
#28880
1   2   3   4   5   6   7   8   9

2.3. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG CỦA NHNT VIỆT NAM

2.3.1. Thành công


Trong lịch sử tồn tại hơn 40 năm và quá trình hơn 15 năm hoạt động trong lĩnh vực thẻ tín dụng, NHNT Việt Nam đã gặt hái được khá nhiều thành công. Được biết đến là một trong những ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam, Vietcombank hoạt động tương đối mạnh trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là thanh toán quốc tế. Hiện tại ngân hàng có 4 liên doanh với nước ngoài và có khoảng 1300 ngân hàng đại lý tại khoảng 90 quốc gia trên toàn thế giới. Với tính chất đặc biệt là một ngân hàng quốc doanh, Vietcombank vừa làm nhiệm vụ kinh doanh, vừa làm nhiệm vụ đầu tàu định hướng cho toàn bộ thị trường tài chính Việt Nam. Nhờ sự chỉ đạo đúng hướng của Ban lãnh đạo Ngân hàng và sự quyết tâm cố gắng, nỗ lực hết mình của đội ngũ nhân viên , Vietcombank luôn luôn khẳng định được vị thế ngân hàng đứng đầu thị trường trong nước.

Về lĩnh vực thẻ tín dụng, NHNT Việt Nam không chỉ là ngân hàng đầu tiên bước vào thị trường thẻ, mà còn luôn đi đầu trong công tác cải tiến kỹ thuật, nâng cao nghiệp vụ, phục vụ khách hàng. Điều đó được thể hiện qua kết quả sau:



  • Về hoạt động phát hành thẻ tín dụng

Cho đến thời điểm hiện nay, NHNT chiếm 32% thị phần phát hành thẻ tín dụng quốc tế trên thị trường Việt Nam. Cùng lúc phát hành 3 loại thẻ tín dụng hàng đầu thế giới là Visa Card, Masters Card và American Express. Đặc biệt là việc ký kết được hợp đồng độc quyền kinh doanh thẻ Amex trong thị trường Việt Nam đã tạo ra uy tín lớn cho ngân hàng, đồng thời góp phần tạo nên sự đa dạng về sản phẩm và dịch vụ để khách hàng có thể lựa chọn sản phẩm phù hợp với mình nhất.
Biểu đồ 6: Thị phần thẻ TDQT do VCB phát hành



  • Về hoạt động thanh toán thẻ tín dụng

Thị phần thanh toán của Vietcombank cho đến thời điểm hiện nay là lớn nhất với doanh số 3785,1 tỷ VND trong năm 2005, chiếm 51% thị phần thanh toán thẻ tín dụng quốc tế trên thị trường Việt Nam. Doanh số thanh toán đạt mức cao (có thể thấy trong bảng 2 về tình hình thanh toán thẻ của NHNT). NHNT Việt Nam là ngân hàng duy nhất tại Việt Nam thanh toán cả 5 loại thẻ ngân hàng thông dụng nhất trên thế giới: Visa, MasterCard, JCB, American Expess, Diners Club.
Biểu đồ 7: Thị phần thanh toán thẻ TDQT của VCB



  • Về cơ sở hạ tầng công nghệ

Cho đến nay NHNT Việt Nam có thể tự hào mà nói rằng: hệ thống cơ sở công nghệ của ngân hàng là hiện đại nhất so với các ngân hàng khác tại Việt Nam. Công nghệ phát hành, thanh toán và quản lý chung đã theo được với mức chuẩn của khu vực và quốc tế.

Hệ thống mạng truyền dữ liệu giữa NHNT và mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ mới được nâng cấp sử dụng giao thức TCP/IP. Đây sẽ là tiền đề cho việc phát triển rộng hơn nữa mạng lưới Đơn vị chấp nhận thẻ của Vietcombank. Hiện tại, ngân hàng sử dụng phần mềm quản lý Sema Card hoạt động tương đối ổn định, hỗ trợ cho xử lý online thẻ Visa, Master Card, và sắp tới là Amex và JCB.. Hệ thống kỹ thuật phục vụ cho hệ thống giao dịch tự động hiện nay hoạt động ổn định, an toàn, mang tính chuẩn mực cao. Mạng lưới máy ATM của NHNT Việt Nam có hệ thống đạt tiêu chuẩn quốc tế, là hệ thống duy nhất kết nối trực tuyến (on-line) với hệ thống ngân hàng bán lẻ. Điều này cho phép ngân hàng thực hiện chuyển khoản và thực hiện những giao dịch khác trên máy ATM. Trong tương lai, mỗi máy ATM của Ngân hàng Ngoại thương sẽ có thể phục vụ như một ngân hàng thu nhỏ với giao diện đơn giản, dễ hiểu, thuận tiện. Trong khi đó, hệ thống ATM của các ngân hàng thương mại quốc doanh khác xử lý giao dịch tách rời với hệ thống ngân hàng bán lẻ nên tại các điểm ATM khách hàng chỉ có thể rút tiền mặt, giao diện phức tạp dẫn đến sự cố ngừng hoạt động, xử lý giao dịch chậm hoặc không thể xử lý giao dịch được.

Như vậy, qua hơn 15 năm tiến hành hoạt động kinh doanh thẻ, NHNT Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, tạo lập được một vị thế vững chắc trên thị trường Việt Nam, và có nhiều mối quan hệ kinh doanh với ngân hàng và các tổ chức tài chính trong và ngoài nước. Tất cả những thành công đó bắt nguồn từ các yếu tố sau:


  • Yếu tố khách quan

Yếu tố khách quan thứ nhất có thể kể đến là nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước một cơ hội mới cho sự phát triển. Rất có thể chúng ta sẽ ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào cuối năm 2006. Nhà nước với những với những động thái nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập đã một mặt tăng cường đối thoại giao lưu với bạn bè quốc tế, một mặt tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế trong nước phát triển lớn mạnh hơn để có đủ sức cạnh tranh với nền kinh tế thế giới sau hội nhập. Cụ thể đối với hệ thống ngân hàng nói chung với NHNT nói riêng, việc lượng khách du lịch vào Việt Nam tăng đột biến trong 3 năm gần đây nhờ những hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới như Festival , hội hè… đã làm cho doanh số thanh toán của ngân hàng tăng đáng kể. Hơn thế nữa, vào thời điểm hiện nay, chính sách bảo hộ của Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng – tài chính vẫn còn hiệu lực. Ví dụ như yêu cầu ngân hàng nước ngoài muốn mở 1 chi nhánh tại Việt Nam sẽ phải nộp 14.000.000 USD. Đây là điều kiện rất tốt để NHNT Việt Nam cũng như các ngân hàng khác tranh thủ thời gian chiếm thị phần cũng như tạo dựng uy tín hơn nữa ở thị trường trong nước cũng như quốc tế.

Yếu tố thứ hai cần nói đến là xu thế của xã hội Việt Nam về việc sử dụng thẻ. Cuối năm 2005, NHNN Việt Nam quyết định không phát hành và liên tục thu lại tiền giấy mệnh giá nhỏ. Vào thời điểm đó mặc dù tiền xu đã được phát hành nhưng chưa được công chúng chấp nhận nhiều. Điều đó đã gây rất nhiều khó khăn cho người dân Việt Nam vốn quen mua bán bằng tiền mặt. Còn đối với những người quen sử dụng thẻ thì hầu như không có vấn đề gì. Điều đó tạo nên một suy nghĩ mới và đồng nghĩa với sự đòi hỏi về thẻ của người dân nhiều hơn nhằm giảm bớt sự bất tiện của tiền mặt trong sinh hoạt.

Bên cạnh đó, xu thế nở rộ và phổ cập Internet trên toàn cầu đã tác động rất lớn vào Việt Nam. Đồng nghĩa với nó là các dịch vụ mua bán qua mạng và thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể đánh giá về thị trường này rất có tiềm năng vì, ngay khi mới bắt đầu hoạt động thanh toán qua mạng cho khách hàng, lượng khách hàng giao dịch qua mạng đã là 30%. Về lâu dài, khi công nghệ thông tin của thế giới đã phát triển đồng bộ và rộng khắp thì một tất yếu sẽ xảy ra là tất cả hàng hóa đều được mua bán qua mạng. Đây có thể coi là một lợi thế về thời đại của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.


  • Yếu tố chủ quan

Yếu tố chủ quan ở đây có thể nói đến tiềm năng và năng lực hiện tại của ngân hàng. NHNT Việt Nam có một đội ngũ lãnh đạo tốt, có tầm nhìn, nên ngay từ sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á ban lãnh đạo ngân hàng đã đồng ý dồn sức tập trung cho việc phát triển nghiệp vụ kinh doanh thẻ tín dụng. Bởi vì đối với một ngân hàng hiện đại việc phát triển thẻ sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự phát triển của ngân hàng. Có thể hiểu một cách đơn giản, các chủ thẻ là doanh nghiệp, công ty lớn sau khi mở tài khoản thẻ ở ngân hàng thì sẽ có xu hướng gửi tiền và vay tiền ở ngân hàng đó. Việc phát hành thẻ sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng theo dõi tình hình tài chính của khách hàng để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng đến mức tốt nhất. Ngoài ra, nắm bắt được xu thế của thời đại, NHNT Việt Nam đã tiến hành một số hình thức liên kết bán hàng hóa qua mạng. Tuy doanh số chưa cao do chỉ là thử nghiệm nhưng đã có những dấu hiệu rất tốt, nhất là trong việc mua bán hàng hóa xuyên quốc gia do Vietcombank đã có uy tín trong vấn đề này.

Yếu tố chủ quan thứ hai, tất nhiên bắt nguồn từ yếu tố thứ nhất, là NHNT Việt Nam có công nghệ rất tiến bộ về thẻ. Trong khi các ngân hàng khác khi gia nhập thị trường thẻ phải tốn rất nhiều tiền bạc và thời gian cho việc chỉnh sửa và đồng nhất hệ thống, thì ngay từ đầu ban lãnh đạo NHNT đã xác định phải tạo lập một hệ thống công nghệ hiện đại cho hoạt động thẻ. Đồng thời liên tục bảo dưỡng, cập nhật công nghệ tiên tiến trên nền tảng sẵn có. Điều này tạo ra sự khác biệt trong chât lượng dịch vụ của NHNT so với các ngân hàng khác, đồng thời cho thấy thực lực của NHNT Việt Nam là cao hơn so với các ngân hàng trong nước. Ngoài ra, so sánh về ưu điểm, NHNT còn có ưu điểm hơn các ngân hàng nước ngoài trong việc phát triển thị trường. Các ngân hàng nước ngoài như ANZ thu phí giao dịch rất lớn. Còn NHNT thì không thu phí giao dịch. Đìều đó đi kèm với một sự tương đồng về chất lượng dịch vụ thì tất nhiên sẽ kéo khách hàng tới NHNT nhiều hơn là tới các ngân hàng nước ngoài khác.


2.3.2. Hạn chế


Có thể nói rằng xét trong tình hình chung của thị trường Việt Nam hiện nay thì thực sự NHNT Việt Nam đã và đang gặp hái được khá nhiều thành công. Tuy nhiên trên thực tế ngân hàng cũng đang gặp phải những hạn chế mà tất cả các ngân hàng khác của Việt Nam đang gặp phải, đó là:

2.3.2.1. Đối tượng sử dụng thẻ tín dụng còn hạn chế


Đối tượng sử dụng thẻ tín dụng của NHNT thường tập trung vào bộ phận dân cư có thu nhập cao, hay đi công tác ở nước ngoài, người nước ngoài đi du lịch hay làm việc tại Việt Nam hoặc một số những cán bộ công nhân trong ngành ngân hàng. Những đối tượng dân cư khác như cán bộ công nhân viên trong các ngành hoạt động khác, dân lao động tự do… chưa có sự quan tâm đúng mức về thẻ tín dụng, chưa coi đó là phương tiện thanh toán đa tiện ích của mình cũng như chưa có điều kiện sử dụng nó. Số lượng chủ thẻ ít sẽ khiến cho thị trường thẻ tín dụng khó phát triển vì có cầu thì mới có cung, thị trường mới sôi động được. Nguyên nhân của hạn chế trên là:

Thứ nhất, do Việt Nam trình độ dân trí chưa cao nên người dân chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và lợi ích thực sự to lớn từ việc sử dụng thẻ, thậm chí một bộ phận khá lớn dân cư chưa biết và chưa quan tâm tới hoạt động ngân hàng nên cũng không có hiểu biết về các công cụ thanh toán. Vì vậy, các công cụ như: thẻ, séc…đối với nhiều người dân vẫn còn xa lạ. Hơn nữa, Việt Nam hiện nay vẫn là một thị trường thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt, tuy một số phương thức thanh toán không dùng tiền mặt như thẻ tín dụng, séc, chuyển tiền qua ngân hàng đã được áp dụng trong một số giao dịch nhưng vẫn chưa đạt đến mức xã hội hoá. Thêm vào đó, là thói quen tích trữ và dùng tiền mặt hàng ngày của người dân để thanh toán cho mọi khoản chi tiêu từ nhỏ như mua rau, thực phẩm…đến lớn như mua xe, nhà đất…Thói quen này không dễ thay đổi ngay cả khi có những điều kiện thuận lợi cho họ. Trên thực tế ngân hàng không cần phải tìm giải pháp trực tiếp cho nguyên nhân này bởi nó là xu hướng của thế giới và việc người dân sử dụng các phương pháp thanh toán không dùng tiền mặt chắc chắn sẽ diễn ra , vấn đề là nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc vào Nhà nước Việt Nam và sự tác động của thị trường thế giới vào Việt Nam.

Thứ hai, do những nguyên nhân từ phía các ngân hàng nói chung và NHNT Việt Nam nói riêng trong công tác marketing giới thiệu các sản phẩm của mình tới người tiêu dùng. Thực tế, NHNT Việt Nam trước khi bắt đầu tung ra một sản phẩm nói chung và một sản phẩm thẻ tín dụng mới nói riêng, cũng đã tiến hành nghiên cứu và phân tích thị trường để nắm được nhu cầu của khách hàng. Tuy nhiên những hoạt động marketing đó mới chỉ ở từng đề án riêng rẽ chứ chưa đạt tầm tổng thể, chiến lược chung trong toàn hệ thống. Việc phân đoạn thị trường, chiến lược phát triển và mở rộng thị phần đối với từng phân đoạn chưa được hoạch định cụ thể. Ngoài ra việc giới thiệu sản phẩm còn hạn chế. Chỉ khi khách hàng có nhu cầu rồi đến ngân hàng để tìm hiểu thì họ mới biết được những sản phẩm thẻ của ngân hàng, còn nói chung, những tiện ích và thông tin về thẻ vẫn chưa được đa số người dân biết đến. Chính vì việc để cho khách hàng đến tìm mình hơn là tìm đến với khách hàng nên cũng làm cho đối tượng sử dụng thẻ tín dụng còn ít bởi tâm lý ngại ngần của người dân, dẫn đến sản phẩm thẻ của ngân hàng chưa được sử dụng ở mức tối đa.

Thứ ba, do mức ký quỹ của NHNT Việt Nam là khá cao. Khi khách hàng muốn có thẻ tín dụng của Vietcombank và đến ngân hàng xin cấp thẻ thì phải thế chấp tại ngân hàng một khoản tiền (có thể bằng USD hoặc VND) hoặc các giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao như sổ tiết kiệm, kỳ phiếu... Khoản thế chấp này ngân hàng sẽ giữ trong suốt quá trình sử dụng thẻ tín dụng và không được dùng để trả cho các chi tiêu của thẻ. Giá trị thế chấp phải bằng 125% so với hạn mức tín dụng yêu cầu, tức là nếu khách hàng muốn yêu cầu một hạn mức tín dụng là 10 triệu VND/tháng thì phải ký quỹ 12,5 triệu VND. Như vậy, với quy định này thì chủ thẻ lại phải bỏ ra một số tiền lớn hơn so với số tiền mà mình mong muốn sử dụng qua thẻ, mặc dù số tiền này vẫn được ngân hàng tính lãi nhưng người dân lại nhìn thấy sự phức tạp khi đến ngân hàng. Đồng thời, mức ký quỹ này là tương đối cao và có vẻ như là không phù hợp với tâm lý khách hàng.


2.3.2.2. Hệ thống ATM và hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tín dụng của Vietcombank vẫn còn chưa nhiều và còn nhiều bất cập.


Đây được xem là yếu tố lớn nhất ảnh hưởng đến doanh thu thanh toán thẻ tín dụng của Vietcombank, cũng là một trong những nguyên nhân của hạn chế về đối tượng tiêu dùng đã nói ở trên.

Về hệ thống máy ATM, mặc dù hệ thống máy ATM của NHNT thuộc diện hiện đại nhất và nhiều nhất nhưng dường như vẫn còn chưa đủ nếu nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng. Mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ còn hạn chế. NHNT Việt Nam hiện mới có gần 5000 ĐVCNT, các đơn vị này chủ yếu phân bố ở các thành phố, các điểm du lịch có nhiều khách quốc tế. Trong khi đó, Việt Nam chỉ có khoảng 20 triệu dân sống ở thành thị nên số lượng ĐVCNT phân bố như vậy là quá ít và không đồng đều. Thêm vào đó, các đơn vị này mới chỉ hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn nhà hàng, sân bay…; phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt rất ít, còn xa lạ với phần đông người Việt Nam. Nói tóm lại, cơ sở để phát triển hoạt động thẻ đang thiếu rất nhiều, vậy nguyên nhân của vấn đề này là ở đâu ?

Trước hết cần phải nói rõ tình trạng của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam hiện nay trong lĩnh vực thẻ. Ta biết rằng, để phát triển hoạt động thanh toán thẻ đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có một công nghệ thanh toán hiện đại, an toàn, nhanh chóng và đồng bộ. Nhưng hiện nay các ngân hàng đang phát triển thị trường thẻ một cách hoàn toàn tự phát, mạnh ngân hàng nào ngân hàng đó làm, yếu tố quan trọng nhất chỉ là khả năng về tài chính của ngân hàng mà thôi. Nhưng thực tế đối với hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay thì không phải ngân hàng nào cũng có đủ điều kiện về vốn và công nghệ thẻ để xây dựng một hệ thống thanh toán thẻ hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, hệ thống ATM và hệ thống các điểm chấp nhận thẻ tại Việt Nam vẫn còn quá ít và còn nhiều bất cập. Ngay cả NHNT Việt Nam có hệ thống ATM hiện đại nhất và nhiều nhất nhưng vẫn chưa đủ khi nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng cao. Hệ thống các đại lý chấp nhận thẻ chỉ có tại các siêu thị hoặc nhà hàng lớn và một số cửa hàng phục vụ khách du lịch, còn lại các điểm bán lẻ khác chưa có. Hơn nữa, hệ thống thanh toán thẻ ATM của các NHTM rất cục bộ. Nghĩa là, thẻ ATM do ngân hàng nào phát hành thì chỉ sử dụng được trong hệ thống máy ATM của ngân hàng đó mà thôi và cũng không thể chuyển khoản cho người khác nếu không cùng mở tài khoản trong cùng một hệ thống ngân hàng. Chính sự cạnh tranh mang tính độc quyền này của các NHTM Việt Nam đã làm các ngân hàng lãng phí tiền đầu tư cho các hệ thống máy ATM của mình thay vì có thể sử dụng chung một máy.

Như vậy tổng kết lại, nguyên nhân của hạn chế này chính là do các ngân hàng đã không liên kết với nhau để cùng tạo nên một mạng lưới cơ sở vững chắc nhằm phát triển dịch vụ của cả hệ thống. Đối với NHNT Việt Nam, vấn đề liên kết các ngân hàng lại đã được tính đến từ lâu và hiện nay NHNT đang đứng đầu liên minh gồm 18 ngân hàng lớn nhỏ. Tuy vậy liên minh này mới chỉ tập trung phần lớn trong công tác thanh toán đơn thuần chứ chưa chặt chẽ trong công nghệ áp dụng cũng như phương pháp quản lý và phân bổ.


2.3.2.3. Rủi ro phát sinh trong khâu thanh toán thẻ tín dụng.


Trong khâu thanh toán thẻ tín dụng của ngân hàng rủi ro vẫn xảy ra, gây tổn thất nhất định cho ngân hàng mà chưa có giải pháp khắc phục. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do:

  • Về luật pháp, do lĩnh vực thẻ còn là mới mẻ đối với thị trường Việt Nam nên những quy định pháp lý nhằm bảo vệ cho cơ quan phát hành thẻ, đơn vị chấp nhận thẻ, đơn vị thanh toán thẻ tín dụng còn lỏng lẻo và nhiều thiếu sót. Quan hệ khách hàng – ngân hàng chưa có đủ những cơ sở pháp lý để giải quyết thoả đáng nên làm hạn chế sự phát triển của thị trường bằng những tranh chấp xảy ra. Bên cạnh đó, có những trường hợp cơ sở chấp nhận thẻ của Vietcombank có hành vi gian dối hoặc ngại xin cấp phép, cơ sở chấp nhận thẻ chia giá trị một giao dịch thẻ làm nhiều hoá đơn thanh toán có giá trị nhỏ để tránh xin cấp phép từ trung tâm thẻ của ngân hàng. Ngân hàng mặc dù biết điều đó song không đủ cơ sở pháp lý để xử lý. Các cơ sở chấp nhận thẻ cũng chưa có nhận thức đầy đủ về các quy định thanh toán thẻ tín dụng và chưa có kinh nghiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong thương mại quốc tế, nhất là quá trình giao nhận hàng hoá nên rất nhiều trường hợp NHNT phải chấp nhận yêu cầu đòi bồi hoàn cho ngân hàng phát hành.

  • Thẻ tín dụng là một hình thức ứng dụng công nghệ kỹ thuật cao nên việc tội phạm sử dụng thẻ giả mạo trùng với thẻ đang lưu hành của Ngân hàng Ngoại thương là nằm ngoài khả năng phòng chống của Vietcombank. Vấn đề này đã được đề cập đến trong phần thực trạng. Đây là loại rủi ro đặc biệt nguy hiểm và khó quản lý nhất hiện nay đối với hầu hết các ngân hàng.

Có thể nhận thấy đây là một vấn đề mang tính toàn cầu khi các thông tin về thẻ tín dụng được rao bán rất nhiều trên Internet. Trong thời đại khoa học phát triển chóng mặt hiện nay, việc lấy cắp các thông tin về thẻ và chủ thẻ được diễn ra với rất nhiều hình thức tinh vi. Ví dụ, chúng theo dõi khách hàng rút tiền để biết mã PIN, thậm chí chúng lắp đặt camera quay lén ngay trong máy ATM của các ngân hàng. Bọn tội phạm còn lập ra những trang web giống y hệt trang web của ngân hàng rồi bắt khách hàng khai báo thông tin ngay trên mạng. Với những thông tin bị lấy cắp, bọn chúng có thể dễ dàng làm giả thẻ tín dụng khi ngân hàng thanh toán còn áp dụng công nghệ thẻ từ, bởi vì vào thời điểm hiện nay việc sản in thẻ từ đã trở thành đơn giản đến mức khó tin, chỉ bằng một thiết bị nhỏ như quyển sách và một cái thẻ trắng là đã có thể cho ra đời một thẻ mới y hệt thẻ của khách hàng. Và khi khách hàng phát hiện ra tài khoản của mình bị lấy cắp thì đã muộn. Tất cả diễn biến trên đang diễn ra liên tục trên khắp thế giới và nếu không giải quyết càng sớm càng tốt thì các ngân hàng của Việt Nam trong đó có Vietcombank sẽ phải gánh chịu những hậu quả lớn hơn nhiều.

2.3.2.4. Rủi ro trong khâu phát hành


Lĩnh vực phát hành thẻ tín dụng của ngân hàng Ngoại thương cũng như của rất nhiều những ngân hàng khác đang phải đối mặt với một rủi ro lớn, đó là tình trạng thẻ “chết “ - loại thẻ không hoạt động (non active), không có giao dịch rút tiền ra và nạp tiền vào trong một thời gian dài sau khi mở tài khoản. Khoảng 20-30% trong số 2 triệu thẻ phát hành ở VN được liệt vào dạng "chết", trong đó mảng thẻ tín dụng là rất đáng lo ngại vì tỉ lệ thẻ chết cao hơn nhiều so với mức bình quân. Đối với Vietcombank, dù đang chiếm hơn 50% thị phần thẻ song cũng vấp phải nhiều khó khăn tương tự khi phát triển thẻ tín dụng quốc tế bởi tỷ lệ non active ở mảng sản phẩm này hiện là 30%.

Nguyên nhân của tình trạng này là, tuy dùng thẻ tín dụng rất có lợi khi khách hàng được sử dụng vốn của ngân hàng không mất phí, song tâm lý người tiêu dùng Việt Nam vẫn ngại mang tiếng vay tiền ngân hàng để tiêu. Vậy nên các chủ thẻ tín dụng chủ yếu chỉ dùng đến thẻ khi đi công tác nước ngoài. Trong tổng số 252 tỷ đồng doanh số sử dụng thẻ quốc tế quý I, tỷ lệ chi tiêu ở nước ngoài chiếm tới 85%. Trước tình trạng chi tiêu tiền mặt nhiều của các chủ thẻ Việt Nam, các nhà cung cấp dịch vụ và các tổ chức thẻ quốc tế như Visa Card hay Masters Card đã phải chuyển sang ưu tiên phát triển thẻ ghi nợ nội địa và quốc tế, điều đó làm cho hoạt động thẻ tín dụng phải giảm đi.

Mặc dù tình trạng thẻ chết chưa đến mức đáng lo ngại và là chuyện thường xảy ra ở các thị trường mới phát triển. Song nếu không sớm khắc phục sẽ gây lãng phí thời gian và công sức quản lý của ngân hàng, dù chi phí để phát hành một chiếc thẻ không lớn. Để giải quyết vấn đề có lẽ các nhà cung câp dịch vụ phải giải quyết từ gốc nguyên nhân của nó: Đó là tình trạng người tiêu dùng Việt Nam chưa biết rõ các tính năng tiện ích của chủ thẻ, và đặc biệt, dù đã biêt song việc sử dụng lại khó khăn do các tính năng còn hạn chế do nguyên nhân từ phía ngân hàng. Đồng thời cũng cần phải có những cơ sở pháp lý để giải quyết những ràng buộc về việc duy trì hoạt động thẻ của chủ thẻ đối với ngân hàng.

Trên đây là những thành công mà NHNT Việt Nam đã đạt được trong thời gian quan cùng với những hạn chế và nguyên nhân. Ngân hàng cần nhìn nhận vào thức tế tồn tai để đưa ra các chiến lược và giải pháp đúng đắn nhằm tăng cường hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tín dụng cho hiện tại và tương lai.





Каталог: luanvan
luanvan -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
luanvan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
luanvan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
luanvan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
luanvan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
luanvan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
luanvan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
luanvan -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
luanvan -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN

tải về 440.32 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương