Luận văn thạc sĩ Sinh học Hoàng Đăng Hiếu



tải về 477.37 Kb.
trang2/10
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích477.37 Kb.
#28448
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

MỞ ĐẦU


Cây dó bầu (Aquilaria sp) là một trong những loài thực vật đặc hữu của nước ta, phân bố rải rác từ Bắc tới Nam, tập trung nhiều ở các tỉnh miền Trung đặc biệt là Hà Tĩnh và Quảng Nam. Cây dó bầu mang lại giá trị kinh tế rất lớn với mục đích chủ yếu là khai thác trầm hương, một mặt hàng có giá trị kinh tế cao sử dụng trong công nghiệp mỹ phẩm, trong dược liệu, trong tôn giáo, chế tác đồ thủ công mỹ nghệ.

Ở nước ta hiện đã phát hiện ra 6 loài dó bầu phân bố rải rác trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh, ẩm nguyên sinh: A. crassna (Dó bầu, Dó tía, Dó trắng),


A. baillonii (Dó Gạch), A. rugosa (Dó Quả Nhăn), A. malaccensis (Dó Mã Lai),
A. sinensis (Dó Trung Quốc), A. banaensis (Dó Bà Nà). Trong đó A. crassna là loài được trồng phổ biến nhất do có khả năng tạo ra loại trầm Kỳ tốt nhất thế giới. Tuy nhiên, hiện nay các loài dó bầu ở Việt Nam bị lai tạp rất nhiều, công tác lựa chọn giống đưa vào trồng dựa chủ yếu vào quan sát hình thái, theo kinh nghiệm của mỗi cá nhân, dẫn đến năng suất và chất lượng trầm thu được không ổn định. Do vậy, việc chọn lọc giống cây ban đầu để đưa vào triển khai là hết sức quan trọng và là nhiệm vụ cấp thiết trong công tác bảo tồn, khai thác và phát triển nguồn gen quý.

Hiện nay phương pháp DNA barcode là một trong những công cụ phục vụ định danh loài chính xác, nhanh chóng, tự động hóa bằng cách sử dụng một vùng DNA chuẩn hay còn gọi là chỉ thị DNA hay mã vạch DNA (DNA barcode). Việc xác định loài bằng DNA chỉ thị có hiệu quả cao trong việc phân biệt các loài thực vật [16] trong đó có dó bầu ở Việt Nam [18] khi những quan sát hình thái, sinh trưởng và phát triển chưa đủ cơ sở để định danh hoặc phân biệt loài.

Xuất phát từ những yêu cầu đặt ra như vậy chúng tôi quyết định thực hiện đề tài “Sử dụng các kỹ thuật sinh học phân tử trong phân tích đa dạng và định danh loài ở tập đoàn cây dó bầu (Aquilaria sp.) tại Hà Tĩnh.”

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Tổng quan về cây dó bầu

1.1.1. Đặc điểm phân loại và vị trí phân bố của cây dó bầu


Cây dó bầu (Aquilaria sp.) là một trong những loài thực vật có giá trị kinh tế cao. Ở Việt Nam, cây dó bầu phân bố rải rác từ Bắc tới Nam, có nhiều ở các tỉnh miền Trung. Cây dó bầu có rất nhiều tên gọi tùy theo mỗi địa phương như: cây Trầm Hương, Dó Trầm, Dó Bầu Hương, cây Tóc [43].

Cây dó bầu thuộc chi trầm Aquilaria, họ Thymeleaceae, bộ Thymelaeales, lớp cây gỗ lớn Magnoliopsida, ngành Mộc Lan Magnoliophyta [41], [42].



Hình 1.1. Lá cây dó bầu

Chi Trầm Aquilaria gồm 24 loài khác nhau, tuy nhiên chỉ có 15 loài có khả năng cho trầm hương gồm: Aquilaria crassna; A. baillonii; A. sinensis hoặc
A. chinesis; A. borneensis; A. Malaccensi; A. gollocha; A. hirta; A. rostrata;
A. beccariana; A. cummingiana; A. filaria; A. khasiana; A. microcarpa;
A. grandiflora; A. bancana; A. Rugosa.
Trong đó loài A. rugosa mới đây được
TS. Lê Công Kiệt và TS. Paul Kessler người Hà Lan phát hiện năm 2005 [18].

Trên thế giới, chi trầm phân bố chủ yếu ở khu vực nhiệt đới từ Ấn Độ đến Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Ở nước ta, dó bầu phân bố rải rác trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh, rừng ẩm nguyên sinh thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, đặc biệt là từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quãng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận đến Tây Nguyên, An Giang, Kiên Giang và đảo Phú Quốc [42].

Trong số các loài có khả năng tạo trầm thì Aquilaria crassna là loài cây nổi tiếng có khả năng tạo ra loại trầm kỳ tốt nhất thế giới [5].

1.1.2. Đặc điểm sinh trưởng của cây dó bầu


Dó bầu là một loại cây gỗ thường xanh, cao 20 - 30 m, đường kính thân đạt 60 - 80 cm, thân thường thẳng, đôi khi có rãnh dạng lòng máng, vỏ ngoài nhẵn, màu nâu xám, thịt vỏ màu trắng có nhiều chất xơ (cellulose), nứt dọc lăn tăn, dễ bóc và tước ngược từ gốc lên, cành mảnh, cong queo, màu nâu nhạt, có lông hoặc nhẵn, tán thưa. Lá đơn, mọc cách (so le), cuống lá dài 4 - 6 mm, phiến lá hình trứng, bầu dục thuôn đến mác thuôn, kích thước 8 - 15 x 2,5 - 9 cm, mặt trên màu lục bóng, mặt dưới nhạt hơn và có lông mịn, gốc lá thon nhọn dần hay tù; chóp lá nhọn, thuôn nhọn, tận cùng có mũi, gân bên 15 - 18 đôi, thay đổi thất thường, khá rõ ở mặt dưới. Cụm hoa hình tán hoặc chùm tán, mọc ở nách lá hoặc ở đầu cành, cuống cụm hoa mảnh, dài 2 - 3 cm. Hoa nhỏ, mẫu 5, đài hợp ở phần dưới, hình chuông, màu vàng lục, trắng nhạt hoặc vàng xám, phía ngoài có lông thưa; mặt trong gần như nhẵn, có 10 đường gân rõ, tồn tại ở quả, 5 thùy dài hình trứng thuôn, dài 12 - 15 mm. Phần phụ dạng cánh hoa, gốc bầu có tuyến mật. Quả nang gần hình trứng ngược hoặc hình quả lê, dài 4 cm, đường kính 2,5 - 3 cm, có lông mềm, ngắn, có mang dài tồn tại, khi khô nứt làm 2 mảnh, thường mỗi quả chỉ có một hạt. Mùa hoa vào tháng 7 - 8, quả chín vào tháng 9 - 10 [3], [43].

Dó bầu sinh trưởng rải rác trong rừng thường xanh ẩm nhiệt đới, nguyên sinh hoặc thứ sinh, trên sườn núi hoặc trên đất bằng ở độ cao 50 - 1.000 m có khi lên tới 1.200 m so với mặt biển. Ở nước ta, dó bầu thường phân bố rải rác trên sườn núi có độ dốc nhỏ, thoát nước. Trong quần xã của dó bầu thường gặp các cây gỗ lớn: Táu, Huỳnh , Gụ mật … Đôi khi cũng gặp cây dó bầu mọc trong rừng thứ sinh cùng các loài Thánh thất, Mò lưng bạc, Bưởi bung, Mít nài và Ràng ràng.

Dó bầu (A. crassna) ưa đất feralit điển hình, feralit trên núi phong hóa từ đá kết, đá phiến hay đá granit. Lớp đất mặt trung bình hay mỏng, hơi ẩm, chua hoặc gần trung tính (pH vào khoảng từ 4 - 6).

Tại Malaysia và vùng Đông Bắc Ấn Độ, dó bầu (A. malaccensis) phân bố khá rải rác, độ gặp khoảng 2,5 cá thể trên một hecta. Ở Đông Bắc Ấn Độ, loài dó bầu này thường mọc rải rác ở độ cao từ 200 - 700 m, đôi khi lên tới 1.000 m. Dó bầu sinh trưởng trong các khu vực có lượng mưa hàng năm thay đổi từ 1.500 - 6.500 mm, nhiệt độ trung bình tối đa năm 22 - 28oC. Những kết quả quan sát ở vùng Đông Bắc Ấn Độ còn cho biết, loài này phân bố chủ yếu trong rừng ẩm thường xanh hoặc rừng thường xanh, rất ít gặp trong rừng nửa rụng lá. Tuy nhiên, trong thực tế, cây dó bầu trước và sau khi tái tạo trầm vẫn sinh trưởng tốt ở những nơi có độ cao trên dưới 40 m so với mực nước biển. A. malaccensis thích ứng với các loại đất phong hóa trên nham thạch, trên các loại đá biến tính, nhưng cũng sinh trưởng tốt trên đất phong hóa từ sa thạch [42].

Tại Malaysia, từ lâu đã đưa cây dó bầu vào trồng trọt, những quần thể rừng trầm A. malaccensis 67 năm tuổi đã có chiều cao trung bình 27 m, và đường kính thân trung bình 38 cm. Những cây dó bầu có độ trưởng thành 80 năm tuổi tại miền Đông Bắc Ấn Độ, có chiều cao cây 25 - 30 m, thân to nhất có đường kính 55 - 70 cm. Ở miền Tây Bắc Ấn Độ (Arunachal Pradesh), các quần thể trầm 8 năm tuổi đã có chiều cao gần 5 m, và đường kính thân gần 30 cm. Cũng ở Tây Bắc Ấn Độ, chúng thường bắt đầu ra hoa, kết quả ở thời kỳ đạt 7 - 9 năm tuổi. Những cá thể có kích thước trung bình cho năng suất hạt tốt, mỗi cây có thể cho tới 1,5 kg hạt [42].

Các khối trầm thường được tạo thành trong thân cây hoặc trong những cành lớn, chúng là kết quả của cả một quá trình chuyển hoá các hoạt động bệnh lý ở những nơi bị bệnh, bị thương… Nấm là một thành phần có tác dụng trong các hoạt động đó, ngoài ra các côn trùng đục thân cây cũng có thể có mối liên hệ nào đó. Có giả thuyết cho rằng, trước tiên cây bị nấm gây bệnh tại những chỗ bị thương làm cho cây bị suy yếu, tiếp đó nấm thâm nhập vào cây và tạo thành các khối trầm. Nhựa trầm là sản phẩm từ cây hay do nấm tạo ra? Lý giải diễn biến của quá trình chuyển hóa để tạo thành các hợp chất hóa học trong nhựa trầm thế nào vẫn còn là vấn đề nan giải và vẫn chưa hiểu biết tường tận [1].

Đến nay đã xác định được nấm Cytosphaera mangiferae có ở trầm của loài A. Malaccensis và nấm Melanotus flavolives chứa trong khối trầm từ loài
A. sinensis [42].

Hình 1.2. Hoa và quả cây dó bầu


1.1.3. Giá trị kinh tế và sinh thái của cây dó bầu


Giá trị kinh tế quan trọng nhất của cây dó bầu là để khai thác trầm hương. Từ thời xa xưa trầm hương đã được coi là sản vật hết sức quí hiếm, ngày nay trầm hương vẫn là lâm sản ngoài gỗ có giá trị thương mại quốc tế lớn. Trên thế giới trầm hương được sử dụng để chưng cất tinh dầu trầm, một chất định hướng quan trọng trong ngành công nghiệp để sản xuất các loại mỹ phẩm cao cấp. Tinh dầu trầm có giá trị đặc biệt, được dùng trong công nghệ chế biến các loại chất thơm, các loại nước hoa cao cấp, giá trị. Trầm hương là sản phẩm văn hóa vật chất tín ngưỡng tâm linh của dân tộc Việt Nam đã tồn tại từ xa xưa đến thời nay [9].

Theo CITES (Convention on International Trade in Endangered Species of Wild Fauna and Flora - Công ước về buôn bán quốc tế những loài động thực vật hoang dã nguy cấp) khối lượng mua bán trầm hương trên thị trường thế giới thời kỳ 1995 - 1997 khoảng 1.350 tấn. Giá mua bán trầm hương được tính theo kg tùy thuộc vào chất lượng. Giá bán trầm tại thị trường Dubai (Arabia Saudi) vào năm 1993 giao động từ 27 đô la Mỹ/kg (loại thấp nhất) đến 10.000 đô la Mỹ/kg (loại tốt nhất) [11]. Theo ước tính của Liên hiệp Khoa học sản xuất tinh dầu - hương liệu - mỹ phẩm Việt Nam thì trong những năm từ 1980 đến 1990, khối lượng trầm hương các loại đã bị khai thác và xuất khẩu từ nước ta khoảng 300 tấn. Trong đó có 2.000 kg trầm từ loại 1 - 4 trị giá khoảng 1,5 triệu USD và 300.000 kg Trầm loại 5 - 9 trị giá khoảng 4,5 triệu USD; đặc biệt là 200 g kỳ nam loại 1 - 3 trị giá 0,5 triệu USD và tới 2.800 kg kỳ nam loại 4 - 8 trị giá 2,52 triệu USD. Với giá trị kinh tế cao, trầm hương đã đem đến những hứa hẹn triển vọng cho ngành sản xuất lâm nghiệp khi 1 ha trồng cây dó bầu, tạo trầm hương có thể làm ra giá trị 1,5 - 1,8 tỷ đồng/ 10 năm, bình quân giá trị tạo ra 150 - 180 triệu/ ha/năm, trong đó lợi nhuận từ 50 - 60 % [11].

Ngoài ra trong y học, trầm hương còn được sử dụng để chữa một số bệnh hiểm nghèo. Theo Đông y, trầm hương là vị thuốc quý hiếm, có vị cay, tính ôn, vào 3 kinh: tì, vị, thận; có tác dụng dáng khí, nạp thận, bình can, tráng nguyên dương, chữa các bệnh đau bụng, đau ngực, nôn mửa, hen suyễn, lợi tiểu, giảm đau, trấn tĩnh, hạ sốt, cấm khẩu, thổ huyết, khó thở, kích dục… Theo tây y, trầm hương có tác dụng kháng khuẩn, đặc biệt là với các loại khuẩn Mycobacterium tuberculosisShigella flexneri, có tính khánh sinh, tạo kháng thể mạnh (diệt khuẩn, làm lành vết thương), có tác dụng chữa một số bệnh như bệnh về tim mạch (suy tim, đau ngực), bệnh về hô hấp (hen suyễn), bệnh về thần kinh (an thần, mất ngủ, giảm đau, trấn tĩnh….), bệnh về tiêu hoá (đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy), bệnh về tiết niệu (bí tiểu tiện). Đặc biệt, có thể dùng trầm hương để chữa ung thư tuyến giáp [42].

Cũng giống như một số cây lâm nghiệp khác, dó bầu là một trong những cây lâm nghiệp cung cấp nguyên liệu làm giấy có chất lượng cao. Theo các kết quả nghiên cứu thực nghiệm nhiều năm của Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản thuộc Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam, dó bầu là loài cây thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều và cho năng suất khai thác khá cao, được ngành công nghiệp giấy xác định là một trong những nguồn nguyên liệu chính trong các dự án đầu tư phát triển sản xuất của ngành từ nay đến năm 2010 [6].

Bên cạnh đó đối với môi trường sinh thái và phát triển bền vững thì việc đưa dó bầu vào cơ cấu cây rừng với mục tiêu 5 triệu hecta rừng tại tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và trong cả nước nói chung đã góp phần thúc đẩy tăng độ che phủ của rừng, chống xói mòn đất và bảo vệ môi trường. Đồng thời góp phần bảo tồn và phát triển loài cây đặc hữu, qúy hiếm, có giá trị về khoa học và kinh tế của nước ta. Đây còn là giải pháp phù hợp với quy luật sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, làm giàu trên cơ sở khai thác và tái tạo lợi thế đặc hữu, ưu việt của tài nguyên quốc gia. Hơn nữa, cây dó bầu còn có ý nghĩa tạo công ăn việc làm cho người lao động, mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho nông thôn, vùng sâu vùng xa [5].

1.1.4. Thực trạng trồng và khai thác cây dó bầu trong nước và trên thế giới


Với giá trị kinh tế cao và nhu cầu ngày càng tăng nên trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, trầm hương tự nhiên bị khai thác đến cạn kiệt [13]. Năm 1994, cây dó bầu được ghi trong công ước quốc tế CITES quy định về việc buôn bán các sinh vật có nguy cơ tuyệt chủng [31].

- Trong nước

Theo thống kê của ngành thương mại, nước ta từ năm 1986 - 1990 đã khai thác và xuất khẩu khoảng 1.163,9 tấn trầm hương. Nhưng cũng giống như các nước trên thế giới, số lượng này ngày càng giảm sút, năm 1985 khai thác và xuất khẩu 216,1 tấn đến năm 1990 chỉ còn 73,4 tấn.

Do có giá trị kinh tế cao và những thành công ban đầu trong các nghiên cứu tạo trầm trên cây dó bầu mà hiện nay, các dự án trồng cây dó bầu đã và đang thu hút sự quan tâm của các địa phương trên cả nước. Việc nhân giống cây dó bầu và sản xuất trầm bền vững là một vấn đề cần thiết về mặt kinh tế và xã hội nhằm đem lại nguồn lợi lớn từ trầm hương đồng thời góp phần bảo vệ môi trường và ngăn ngừa tình trạng khai thác cây dó bầu trong tự nhiên. Quyết định 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/03/2005 của Bộ NN-PTNT đã cho phép 6 trên 9 vùng sinh thái cả nước được trồng rừng sản xuất bằng cây dó bầu. Kết quả trong vòng 3 - 4 năm gần đây diện tích cây dó bầu tăng nhanh góp phần đa dạng hóa loại cây trồng rừng và cây đặc sản, hứa hẹn nhiều triển vọng lớn cho nền lâm nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung [44].

Theo thống kê của Hiệp hội trầm hương, năm 2002, diện tích trồng cây dó bầu ở các tỉnh phía Nam là 2.340 ha đến năm 2004 đã lên đến 5.527 ha, số liệu này chủ yếu do tư nhân trồng cung cấp [7]. Số liệu thống kê của hiệp hội trầm hương cho thấy chỉ qua 2 năm diện tích trồng cây dó bầu ở các tỉnh phía Nam đã tăng thêm 70%, đến năm 2007 đã có trên 22 tỉnh, thành trồng cây dó bầu với diện tích khoảng 15.000 - 18.000 ha, phân bố trên cả 3 miền Bắc, Trung, Nam [4].

Tuy nhiên, do diện tích trồng cây dó bầu ngày càng tăng, trong khi đó nguồn cung cấp hạt giống chủ yếu là những cây dó bố mẹ còn lại trong rừng tự nhiên và từ một số cây trồng vào thập niên 80, 90 của thế kỷ XX dễ dẫn đến thoái hóa giống. Ngoài ra, phần lớn các cơ sở sản xuất giống cây là của tư nhân, hạt giống thu hái từ những cây chưa tuyển chọn đầu dòng hoặc cây chưa thành thục sinh dục, kỹ thuật gieo ươm hạn chế, làm cho chất lượng giống cây còn những điều đáng lo ngại. Hơn nữa, hiện nay, các loài dó bầu ở Việt Nam bị lai tạp rất nhiều, công tác lựa chọn giống đưa vào trồng dựa chủ yếu vào quan sát hình thái, theo kinh nghiệm của mỗi cá nhân dẫn đến năng suất và chất lượng trầm thu được không ổn định.

- Trên thế giới

Tại Malaysia và vùng Đông Bắc Ấn Độ, dó bầu (Aquilaria crassna) phân bố khá rải rác, độ gặp khoảng 2,5 cá thể trên một hecta. Thái Lan được biết đến là quốc gia trồng và khai thác trầm hương nổi tiếng. Ở miền đông Thái Lan phát hiện thấy loài A. subintegra, theo số liệu cho biết loài này rất phổ biến ở tỉnh Trad. Trước đây, do người nông dân không biết khai thác trầm từ loài này nên đã đem một số loài từ nơi khác về trồng như loài A. crassna . Vì vậy, hiện nay loài A. subintegra đã bị lai tạp rất nhiều. Tính đến năm 2003, loài cây này được trồng rất nhiều ở tỉnh Trad và đã trở thành nơi cung cấp tinh dầu trầm có chất lượng tốt nhất thế giới. Đồng thời các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều loài có khả năng tạo trầm thuộc chi Aquilaria đều có nguồn gốc từ các miền Đông-Bắc-Nam của Thái Lan [15].

Có thể thấy, nhu cầu trầm hương trên thế giới ngày càng cao và trầm hương mua bán trên thị trường hầu hết là khai thác từ thiên nhiên. Nhưng một thực tế cho thấy việc khác thác trầm hương vào những thập niên cuối thế kỷ XX có tính chất huỷ diệt cây dó bầu, làm cho nguồn cung cấp trầm hương trên thị trường ngày càng cạn kiệt. Năm 1993, Indonesia khai thác và xuất khẩu hơn 661 tấn đến năm 1997 con số ấy chỉ còn 302 tấn; tương tự như Indonesia, Malaysia từ 43,6 tấn còn 21,6 tấn; Campuchia năm 1995 khai thác và xuất khẩu 133,8 tấn sau 3 năm chỉ còn 13,2 tấn; Ấn Độ năm 1995 xuất khẩu 15,1 tấn đến năm 1997 còn 1,4 tấn. Những số liệu này cho thấy một thực tế khối lượng trầm hương mua bán trên thị trường đang giảm sút nghiêm trọng do cây dó bầu từ thiên nhiên bị khai thác nặng nề. Yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các quốc gia phải có biện pháp cũng như kế hoạch trồng và nghiên cứu tạo trầm trên cây dó bầu đảm bảo nhu cầu lớn của thị trường thế giới [5].

1.1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng tạo trầm nhân tạo


Sự tạo trầm trong tự nhiên của cây dó bầu là sự biến đổi của các phần tử gỗ do tác động bệnh lý bởi vết nứt gãy, sự xâm nhập của các loài nấm…xảy ra một cách tự nhiên năm này sang năm khác. Khi bị nhiễm bệnh ở một vùng nào đó, cây sẽ tích tụ nhựa đến đây để tự băng bó vết thương, xem như một khả năng tự đề kháng để chống lại bệnh nên tạo ra trầm kỳ. Căn cứ vào sự hóa nhựa nhiều hay ít mà có những sản phẩm như: Tóc, Trầm hương và Kỳ nam. Để sản xuất trầm hương nhân tạo thách thức lớn nhất là công nghệ tạo trầm, chất lượng cây giống, các chỉ tiêu về lâm sinh đối với cây dó trồng, sự tương thích giữa các cây trồng xen, bệnh của cây [43].

Trong đó, dựa trên cơ chế hình thành trầm trong tự nhiên, hiện nay về cơ bản có 3 kỹ thuật cấy tạo trầm nhân tạo được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu: Phương pháp vật lý (gây vết thương cơ giới); Phương pháp hóa học (xúc tác hóa chất); Phương pháp sinh học (xử lý với men vi sinh). Một số cách tạo trầm khác như kết hợp một số phương pháp trên với nhau.

Nhìn chung mỗi phương pháp tạo trầm hương cho kết quả không giống nhau về số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí, nhưng có thể khẳng định con người đã tạo được trầm hương trên cây dó bầu là rõ ràng. Ngoài ra, các nghiên cứu tạo các chromone invitro (thành phần chính trong tinh dầu trầm) từ nuôi cấy huyền phù tế bào của dó bầu đã bước đầu có kết quả [23], [20].

Bên cạnh các nghiên cứu về các kỹ thuật cấy tạo trầm nhân tạo, một hướng nghiên cứu cũng rất quan trọng nhưng còn bị bỏ ngỏ đó là các nghiên cứu ở mức độ sinh học phân tử quần thể dó bầu để xác định nhóm các cá thể hay giống dó bầu có khả năng tạo trầm hiệu quả, vì ngay trong tự nhiên không phải bất kỳ thân cây dó bầu nào cũng có trầm và khả năng tạo trầm, chất lượng trầm ở các loài khác nhau cũng là rất khác nhau. Hơn nữa, việc đầu tư trồng cây dó bầu đến khi thu hoạch là khá lâu, đòi hỏi thời gian khoảng 7-10 năm (sau 5-7 năm mới có thể cấy tạo trầm nhân tạo, và sau 2-3 năm mới có thể hạ cây để thu trầm). Trong hội nghị về cây trầm hương ngày 24/9/2004 tại thành phố Hồ Chí Minh, các chủ trại trầm cũng đưa ra những băn khoăn về công tác lựa chọn giống để có được trầm chất lượng cao, do chất lượng trầm tạo được thật sự chỉ tạo trầm loại 4, loại 5 ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế [5].



Каталог: files -> ChuaChuyenDoi
ChuaChuyenDoi -> ĐẠi học quốc gia hà NỘi trưỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Thị Hương XÂy dựng quy trình quản lý CÁc công trìNH
ChuaChuyenDoi -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
ChuaChuyenDoi -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
ChuaChuyenDoi -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
ChuaChuyenDoi -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Hà Linh
ChuaChuyenDoi -> ĐÁnh giá Đa dạng di truyền một số MẪu giống lúa thu thập tại làO
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiêN
ChuaChuyenDoi -> TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên nguyễn Văn Cường

tải về 477.37 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương