LỜi giới thiệu bối cảnh lịch sử



tải về 0.64 Mb.
trang5/9
Chuyển đổi dữ liệu09.05.2018
Kích0.64 Mb.
#37853
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Chương III

Nhưng, giả sử rằng việc đạt được mức độ thuần nhất cao nhất sẽ đem lại cái tốt nhất cho quốc gia, thì sự thuần nhất này cũng không chứng minh được là phát xuất từ công thức "Tất cả mọi người đều có thể, cùng một lúc, gọi cái này hay người này là ‘của tôi,' hay ‘không phải của tôi;'" một công thức mà Socrates cho là thể hiện sự thuần nhất tuyệt hảo trong một quốc gia. Vì từ ngữ "tất cả" là một từ mơ hồ. Nếu nó có nghĩa là mỗi cá nhân nói rằng ‘của tôi và ‘không phải của tôi cùng một một lúc, thì có lẽ kết quả mà Socrates mong muốn có thể đạt được ở một mức độ nào đó; thí dụ mỗi người gọi cùng một đứa trẻ là ‘con của tôi' và cùng một người phụ nữ là ‘vợ của tôi,' và ‘tài sản của tôi' hay tất cả những gì thuộc về người đó. Điều này, tuy nhiên, lại không phải là cách người ta gọi vợ chung, con chung hay tài sản chung; họ sẽ gọi "tất cả" hiểu theo nghĩa tập thể, chứ không thể hiểu theo nghĩa cá thể. Do đó, hiển nhiên có một sự ngụy biện trong từ "tất cả," hay trong từ "cả," "chẵn," hay "lẻ." Những từ này đều mơ hồ, và ngay cả trong lập luận trừu tượng cũng trở thành một bài tính đố về luận lý. Nếu tất cả mọi người gọi cùng một vật là "của tôi," hiểu theo nghĩa mỗi người là sở hữu chủ, thì ta có thể chấp nhận được, nhưng điều đó thiếu thực tế; còn nếu hiểu theo nghĩa khác (tài sản tập thể), thì sự thuần nhất này không dẫn đến sự hài hòa.

Chưa hết, đề nghị biến tất cả thành "của chung" còn gặp một khó khăn khác. Đó là, cái gì mà thuộc của chung của nhiều người, thì cái đó lại càng có ít người quan tâm bảo quản. Mọi người đều chỉ lo cho bản thân họ, và hầu như chẳng đếm xỉa gì đến lợi ích chung; còn nếu họ quan tâm đến quyền lợi chung thì cũng chỉ vì đụng chạm đến quyền lợi riêng của họ. Thêm vào đó, con người có khuynh hướng xao lãng nhiệm vụ mà họ nghĩ là sẽ có người khác chu toàn. Đó là điều ta thường thấy trong sinh hoạt gia đình: càng nhiều người thì lại càng ít hiệu quả hơn ít người.1 Mỗi công dân sẽ có cả ngàn đứa con mà những đứa con này lại không là con của một cá nhân công dân nào hết, và như thế, chúng sẽ bị tất cả bỏ bê.

Thêm vào đó, dựa trên nguyên tắc này, mỗi người khi gọi đứa bé là "con tôi," dù sau này nó giàu hay nghèo, cũng chỉ là cha của nó theo cái tỷ lệ một phần trên tổng số tất cả công dân. Ngay cả như vậy đi nữa người ta cũng không thể biết chắc là đứa bé có phải là con của mình hay không, vì không ai có thể nói chắc được ai là cha nó, hay là khi sinh nó ra nó có sống được hay không.2 Nhưng ta thử xét xem đâu là cách tốt hơn; theo cách thứ nhất: mỗi người gọi một đứa bé là "con tôi" chỉ có 1 phần 2000 hay 1 phần 10000, hay là gọi nó là "con tôi" hiểu theo nghĩa thông thường? Hãy xét một thí dụ: cũng cùng một người được một người khác gọi là con, nhưng người khác lại gọi là anh em ruột của tôi hay người đó là bà con, họ hàng với tôi-qua quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân, hay chỉ là đồng bào cùng sống trong một xứ với nhau. Gọi theo đúng quan hệ là anh em bà con với nhau thì phải tốt hơn cách gọi tất cả là con như Plato đề nghị chứ! Ngoài ra cũng không có cách nào tránh được việc anh em, con cái, cha mẹ nhận ra nhau, vì con cái đều mang những nét giống nhau của cha mẹ, và họ sẽ tự động tìm ra mối quan hệ gia tộc với nhau. Các nhà nghiên cứu về địa dư tuyên bố đó là sự thực; họ nói rằng tại Miệt Trên của xứ Libya, nơi phụ nữ được coi như của chung, con cái khi sinh ra được giao cho cha của chúng căn cứ trên sự giống nhau về nhân dạng. Thật thế, có một số phụ nữ, giống như một số động vật cái khác, như lừa cái hay bò cái, có khuynh hướng tự nhiên rất mạnh là đẻ ra con có hình dáng giống như người cha. Con lừa cái xứ Pharsalia, còn được gọi là con lừa Chân Thật, là một thí dụ điển hình, vì đẻ ra lừa con giống hệt như con thú cha.

[1] Tục ngữ Việt Nam cũng có câu: "Cha chung không ai khóc."

[2] Theo cách sắp xếp của Plato đề nghị trong Cộng Hòa Luận, những cuộc hôn nhân tạm thời đều được nhà cầm quyền giữ bí mật triệt để. Trẻ con sinh ra được giao cho viên chức chính quyền nuôi dưỡng, nếu đứa bé khỏe mạnh, nếu không thì để cho nó chết [Ghi chú của Barker].

 

Chương IV

Còn có những tội ác khác mà những tác giả cổ xúy cho cộng đồng chung vợ chung con khó lòng ngăn cản; đó là những tội ác bạo hành, cưỡng hiếp, sát nhân (ngộ sát hay cố sát), cãi cọ, vu cáo nhau. Những tội ác này là những tội ác đáng bị nguyền rủa nếu do người nào đó gây ra cho cha mẹ, anh em hay họ hàng của họ; nhưng nếu gây ra cho người dưng, thì không đến nỗi bị nguyền rủa. Hơn nữa, tội ác càng dễ xảy ra hơn nếu người ta không biết ai là bà con của mình, và khi tội ác đã xảy ra thì những biện pháp trừng phạt theo tập quán (như phạm tội giết cha chẳng hạn) sẽ khó được thi hành, vì can phạm đâu có biết người đó là cha mình! Thêm nữa, lập luận của Socrates cũng lạ lùng thay khi đã biến tất cả con cái thành của chung, lại chỉ cấm những kẻ yêu nhau không được có quan hệ xác thịt, nhưng cho phép tình yêu và những sự thân thiết giữa cha và con trai hay giữa anh em trai (rất dễ dàng xảy ra vì không ai biết mình có bà con với ai). Những quan hệ thân thiết và tình yêu kiểu này nếu được cho phép thì cũng là những hành vi thiếu đứng đắn giữa những người đàn ông lớn tuổi và thanh niên. Thật cũng đáng ngạc nhiên hơn nữa khi Socrates cấm giao hợp giữa người nam với nhau chỉ vì sự bạo hành gây ra bởi khoái lạc, chứ không phải vì họ có quan hệ gia tộc với nhau.1

Cộng đồng vợ chung, con chung này dường như thích hợp cho quần chúng nông dân hơn là cho giai cấp cai trị, vì mối quan hệ vợ chung, con chung sẽ tạo ra sợi dây liên lạc gia đình lỏng lẻo, và do đó sẽ dễ dạy người dân hơn và họ sẽ ít làm loạn hơn. Nói cách khác, kết quả của luật lệ này sẽ trái ngược với những gì mà luật lệ đúng cách sẽ tạo nên, và ý định của Socrates khi tổ chức xã hội có vợ chung con chung sẽ vì đó mà thất bại. Vì ta tin rằng tình liên đới anh em trong một xã hội là vốn quý giá nhất của quốc gia và giúp ngăn ngừa các cuộc nổi dậy. Chính Socrates và tất cả mọi người đều ca ngợi sự đoàn kết của quốc gia là một lý tưởng cần nhắm tới, và sự đoàn kết này chính là kết quả của tình liên đới anh em. Nhưng, sự đoàn kết mà Socrates ca ngợi lại giống như tình yêu của những kẻ yêu nhau được mô tả trong tác phẩmSymposium; trong tác phẩm này, nhân vật Aristophanes kể rằng có hai kẻ yêu nhau quá mức và muốn trở thành một. Kết quả của tình yêu nồng cháy là cả hai cùng biến mất để trở thành một thực thể mới, hay một kẻ phải hủy mình đi để nhập thân vào kẻ kia. Khi mà một quốc gia có vợ chung, con chung, tình yêu gia đình sẽ nhạt nhẽo; người cha không thể đoan quyết ai là con mình, và con cái cũng chẳng biết ai là cha mình. Cũng giống như một chút rượu mùi được pha thêm nước lã sẽ chẳng còn mùi vị gì nữa, trong cộng đồng xã hội kiểu này cũng vậy, cái ý tưởng về mối quan hệ được thiết lập theo kiểu này sẽ biến mất, vì chẳng có lý gì mà kẻ "được gọi là cha" lại phải lo lắng cho đứa trẻ "được gọi là con" hay ngược lại; tình nghĩa anh em cũng chẳng có ý nghĩa gì nữa hết. Trong hai phẩm chất tạo nên sự kính trọng và mến thương-điều gì đó thuộc về ta và chỉ thuộc về ta thôi-không thể hiện hữu trong một quốc gia tổ chức như vậy.

Thêm nữa, việc hoán chuyển trẻ con ngay khi chúng vừa mới sanh ra từ giai cấp nông dân hay nghệ nhân sang giai cấp cai trị, và từ giai cấp cai trị sang giai cấp bị trị sẽ rất khó thực hiện. Những người có trách nhiệm di chuyển những đứa bé không thể nào không biết là đứa bé nào được giao cho ai. Và như thế, những tội ác đã nói trước đây, như bạo hành, sát nhân, tình yêu phản tự nhiên sẽ xảy ra thường xuyên hơn giữa những kẻ bị đưa xuống giai cấp thấp hơn, hoặc là những kẻ được nâng lên giai cấp cai trị, vì họ không còn coi những người cùng giai cấp trước đây là anh em, cha mẹ nữa, và chẳng còn sợ gì mà không phạm tội vì đâu còn liên hệ huyết thống nữa. Tới đây tưởng đã quá đủ để bàn về cộng đồng có chung vợ, chung con.

[1] Xã hội Hy Lạp thời đó coi quan hệ gia tộc là thánh thiện và mặc nhiên cho phép đồng tính luyến ái giữa người nam lớn tuổi và trai tráng. Quan hệ đồng tính nam thời cổ Hy Lạp được gọi là paideratia (tiếng Anh là pederasty có nghĩa là tình yêu trẻ trai, "boy love.") Phong tục cổ Hy lạp và đặc biệt tại Athens có điều là người nam lớn tuổi, gọi là erastes, chọn một cậu bé tuổi thiếu niên, được gọi là eromenos, để hướng dẫn, giáo dục, bảo bọc và làm gương cho cậu bé này. Người Hy Lạp cũng có nhiều tục lệ để ngăn cho cậu bé không bị "xâm hại," và cả hai người đều phải triệt để tôn trọng nhau trong một tình yêu thánh thiện mà người Tây phương thường gọi là platonic relationship. Nhưng không có gì bảo đảm là quan hệ xác thịt không xảy ra giữa erastes và eromenos. Plato trong tác phẩm Luật Pháp, cũng cho rằng quan hệ pederasty là quan hệ trái với tự nhiên.

 Chương V

Kế tiếp, ta hãy xét xem nên quản trị tài sản như thế nào: có nên để cho công dân của một quốc gia lý tưởng sở hữu tài sản riêng rẽ hay tài sản thuộc về của chung của quốc gia? Ta có thể xem xét vấn đề này một cách riêng rẽ không dính tới đề nghị lập một cộng đồng có vợ chung, con chung. Ngay cả giả như rằng vợ và con của ai thuộc về người nấy như phong tục hiện hành, thì liệu đề nghị mọi người cùng chia sẻ tài sản chung có đem lại lợi ích nào chăng? Có ba trường hợp có thể xảy ra: thứ nhất, đất đai canh tác có thể chia ra, nhưng sản phẩm làm ra lại để trong kho chung cho mọi người cùng sử dụng; cách này một vài nước đang áp dụng. Hay là, thứ hai, đất đai canh tác là của chung và mọi người cùng chung sức canh tác, nhưng sản phẩm thu hoạch được lại chia ra cho từng người để tùy nghi sử dụng; cách này là hình thức tài sản chung mà một vài nước man rợ đang áp dụng. Hay là, thứ ba, cả đất đai và sản phẩm đều thuộc về của chung.

Khi người nông dân không phải là chủ nhân của đất đai (trường hợp họ là nông nô hay nô lệ), trường hợp này dễ giải quyết; nhưng khi chính chủ điền cũng là người canh tác, thì vấn đề sở hữu trở nên rắc rối. Nếu họ không chia nhau đồng đều công việc và hoa màu thu hoạch được, thì kẻ làm nhiều mà hưởng ít chắc chắn sẽ phàn nàn những kẻ làm ít mà hưởng nhiều. Thực ra khi con người sống chung với nhau và có quan hệ với nhau, khó khăn luôn luôn xảy ra, nhất là khi con người lại chia sẻ chung tài sản nữa. Thí dụ điển hình là những lữ khách kết đoàn để cùng đi, ngày nào cũng có những cuộc cãi vã về đủ thứ lặt vặt và dễ phật lòng nhau vì những chuyện chẳng đáng vào đâu. Cũng giống như đối với những kẻ hầu hạ dễ làm ta mất lòng vì có quan hệ hàng ngày.

Đó chỉ là một số những điều bất lợi khi tổ chức xã hội cùng có chung tài sản. Cách thức tổ chức hiện nay [tài sản thuộc tư nhân], nếu được phong tục và luật pháp tốt cải thiện, sẽ tốt  hơn nhiều, và có được sự thuận lợi của cả hai hệ thống. Tài sản, hiểu theo một nghĩa, là của chung [của quốc gia], nhưng theo thông lệ, là của riêng tư nhân. Vì vậy, khi mọi người đều có quyền lợi riêng, thì người ta sẽ chẳng phàn nàn kẻ khác, và mọi người đều làm ăn tấn tới vì ai cũng lo cho quyền lợi của họ.

Và bởi vì lòng tốt [chứ không phải vì luật pháp bắt buộc], người ta cho tha nhân được sử dụng tài sản của họ, như tục ngữ có câu: "bạn bè chia sẻ với nhau mọi điều."  Nguyên tắc này nay vẫn còn được áp dụng tại nhiều nước cho thấy điều này không phải là điều không thể thực hiện được. Tại những nước được cai trị tốt, ta cũng thấy có cách đối đãi như vậy giữa những người dân với nhau, và còn có thể được phát triển thêm lên. Ở những nước này, mỗi người đều có tài sản riêng, nhưng họ để dành ra một phần cho bạn bè sử dụng, và một phần khác cho mọi người cùng sử dụng. Thí dụ như người dân Sparta được dùng nô lệ, lừa, ngựa của người khác như của riêng mình, và nếu trên đường du hành mà có thiếu hụt vật gì thì cứ tự nhiên sử dụng sản vật của người khác trên con đường dó. Hiển nhiên ta thấy rằng tài sản nên là của riêng, nhưng được sử dụng chung, và nhiệm vụ của nhà lập pháp là tạo ra lòng từ thiện trong mỗi công dân để họ sẵn lòng chia sẻ tài sản với người khác.

Thêm nữa, người ta sẽ cảm thấy vui sướng hơn khi làm chủ một vật gì đó, vì tự yêu mình là bản chất tự nhiên của con người, mặc dù lòng ích kỷ cần phải được kềm chế vì đó không còn là tự yêu mình nữa mà là quá sức tự yêu mình, như ta vẫn thường coi khinh kẻ bần tiện yêu tiền (không phải ta khinh rẻ sự yêu tiền, mà ta khinh kẻ coi đồng tiền quá lớn). Hơn nữa, khi ta làm điều gì tốt hoặc phục vụ cho bạn bè của ta, khách khứa của ta, hay cho đồng loại, ta cảm thấy vui sướng, nhưng ta chỉ có thể làm được như vậy nếu ta có tài sản riêng mà thôi. Tuy nhiên, những điều vui sướng vừa kể [xuất phát từ sự thỏa mãn bản năng tự nhiên là tự yêu mình, và bản năng tự nhiên giúp đỡ người khác] sẽ bị triệt tiêu trong một nước mà mọi thứ đều là của chung (cộng sản), hai đức tính khác cũng bị triệt tiêu theo trong một quốc gia như vậy. Đức tính thứ nhất là lòng tự chủ trong quan hệ tình dục (đây là một giá trị đạo đức cấm ta không được thèm muốn vợ của người khác), và thứ hai là sự hào phóng trong việc sử dụng tài sản. Chẳng có ai, trong một nước mà mọi tài sản đều là của chung, lại có thể trở thành hào phóng được, vì ta chỉ có thể hào phóng bằng tài sản của riêng ta mà thôi.

Những luật lệ có bề ngoài nhân hậu như vậy rất dễ khiến cho người dân nghe theo và tin tưởng rằng nhờ ở một đặc tính kỳ diệu nào đó mà con người đều trở nên bạn hữu với nhau, nhất là khi thấy rằng ai cũng ta thán về những xấu xa đang xảy ra trong quốc gia như kiện tụng vì bội ước, tranh chấp vì dối trá, nịnh bợ kẻ giàu có, những xấu xa xảy ra vì con người có quyền tư hữu. Những điều xấu xa này, tuy thế, không phải do quyền tư hữu gây ra, mà do một nguyên nhân khác-bản chất xấu xa của con người. Thật ra, ta thấy trong số những người có chung tài sản, họ còn tranh chấp nhau nhiều hơn những người giữ tài sản riêng tư, mặc dù [ta vẫn thường nghĩ sai là] không có nhiều người như vậy khi so sánh với con số lớn những người có tài sản riêng tư.

Thêm vào đó, ta cần phải cân nhắc không những là người dân sẽ tránh được những điều xấu xa mà còn những ích lợi họ sẽ bị mất đi nếu theo tài sản công hữu. Đời sống theo kiểu này hoàn toàn không thực tế và bất khả thực hiện. Sự sai lầm của Socrates, ta có thể thấy được, nằm ở khái niệm thống nhất, mà ông đã dùng làm tiền đề lý luận. Thống nhất, dĩ nhiên, cần phải có trong cả gia đình và quốc gia, nhưng ở một vài lãnh vực nào đó thôi, vì đến một lúc khi đạt được sự thống nhất cao độ, lúc đó sẽ chẳng còn quốc gia nữa, hay là nếu còn cái gọi là quốc gia, thì cũng chỉ là một quốc gia yếu kém. Cũng giống như khi sự hòa âm đã biến thành đồng âm và âm nhạc rút lại chỉ còn một điệu theo nhịp đập của bàn chân. Nhà nước, như tôi đã trình bày, là một thực thể đa dạng, và chỉ nên được thống nhất thành một cộng đồng bằng giáo dục; và tôi thấy thật là lạ khi người đã tạo ra một hệ thống giáo dục mà ông ta nghĩ rằng sẽ làm cho đất nước được tốt lành, đức hạnh, lại muốn cải thiện người dân bằng những quy định kiểu này [công hữu, cộng sản], chứ không phải bằng triết học hay phong tục hay luật pháp, như luật pháp hiện hành tại Sparta và Crete ấn định là tài sản riêng được trích ra để nấu ăn chung.

Hãy nhớ rằng ta không nên xem thường kinh nghiệm của các đời trước; trải qua bao năm tháng, những điều này, nếu thực sự tốt đẹp, thì người ta phải biết rồi. Vì hầu như mọi điều đã được con người khám phá ra, tuy là đôi khi chưa được hệ thống hóa, hay là người ta đã biết rồi, nhưng chưa sử dụng được.

Nếu ta có thể thấy được tận mắt tiến trình xây dựng một cơ cấu chính trị như Socrates đề nghị, có lẽ vấn đề này sẽ được làm sáng tỏ thêm. Vì nhà lập pháp hoàn toàn không thể tạo nên một quốc gia mà không phân phối và chia cư dân của mình thành những giai cấp theo dòng họ hoặc bộ tộc, hay hội đoàn cùng ăn chung với nhau. Nhưng điều luật này lại cấm không cho giai cấp cầm quyền làm ruộng, một sự ngăn cấm mà người Sparta đã thử thực hiện rồi.1

Nhưng thực ra, Socrates đã không nói cũng như khó mà quyết định vai trò của thành phần nào trong cộng đồng là vai trò chủ chốt. Những công dân không thuộc giai cấp lãnh đạo là thành phần đa số, và ngay cả trong đa số này [một số vấn đề then chốt] vẫn chưa xác định được: Liệu nông dân cũng phải có tài sản chung hay là mỗi người có tài sản riêng của mình? Liệu vợ và con họ là của chung hay của riêng? Nếu, giống như giới lãnh đạo, họ cùng có chung mọi tài sản, thì họ có khác gì giới lãnh đạo đâu và sẽ được lợi gì khi phải chịu sự lãnh đạo này? Hay là dựa trên nguyên tắc nào mà họ phải chịu sự cai trị của giới lãnh đạo, trừ phi giới này sử dụng chính sách khôn khéo của dân đảo Crete: nô lệ cũng được hưởng mọi quyền lợi như chủ nhân, ngoại trừ quyền được học tập thể dục và quyền mang vũ khí.2 Mặt khác, nếu, những giai cấp thấp, về phương diện tài sản và hôn nhân cũng sở hữu riêng như dân chúng các nước khác, thì đất nước sẽ được tổ chức theo mô hình nào? Chẳng phải là sẽ có hai nước trong một quốc gia và mỗi nước lại chống đối lẫn nhau hay sao? Socrates biến giai cấp cai trị thành quân đội chiếm đóng, còn người nông dân, người thợ, và các thành phần còn lại mới là công dân thật sự. Nhưng ngay cả khi quốc gia được tổ chức như vậy, tất cả những sự kiện cáo, tranh cãi, và những điều xấu xa mà Socrates khẳng định là hiện hữu trong những nước khác [không theo mô thức do ông đề nghị], cũng sẽ hiện hữu như vậy trong đất nước kiểu này. Socrates thật sự đã nói rằng, khi người dân được giáo dục tốt, thì nhà nước sẽ chẳng cần nhiều luật lệ, như luật điều hành quốc gia hay thị trường; nhưng ông lại giới hạn giáo dục chỉ dành cho giai cấp lãnh đạo. Chưa hết, ông lại cho phép nông dân được tư hữu tài sản với điều kiện là họ phải nộp một phần thu hoạch cho giai cấp lãnh đạo. Trong trường hợp này, nông dân còn khó cai trị và trở nên kiêu căng hơn là những kẻ nô lệ hoặc nông nô. Và rồi những giai cấp thấp hơn có sống trong cộng đồng chung vợ chung con một cách bình đẳng như giai cấp lãnh đạo hay không, cùng những  câu hỏi tương tự như là giáo dục, mô hình chính quyền, luật lệ dành cho giai cấp thấp sẽ như thế nào, không thấy Socrates bàn tới; điều ta thấy không những vừa khó tìm được câu trả lời, vừa rất hệ trọng là câu hỏi: giai cấp nông dân sẽ được tổ chức như thế nào nếu vẫn muốn giữ nguyên đời sống cộng sản của giai cấp cai trị.

Thêm nữa, nếu Socrates muốn có một cộng đồng có vợ chung, con chung, nhưng tài sản lại riêng tư, thì khi đàn ông lo việc đồng áng, ai sẽ lo việc gia đình? Và ai sẽ làm việc đó nếu giai cấp nông dân vừa có vợ con chung, vừa có chung tài sản? Chưa hết, thật là kỳ lạ khi Socrates lập luận rằng đàn ông cũng như đàn bà sẽ cùng làm việc ngoài đồng áng, theo như sinh hoạt của loài vật, [lập luận này không ổn] vì loài vật không phải lo việc nội trợ. Chính quyền cũng vậy, nếu được thiết lập theo cách của Socrates, tiềm ẩn nhiều điều nguy hiểm, vì ông để cho cùng một số người luôn luôn ở vai trò cai trị. Và nếu điều này vẫn thường là nguyên nhân tạo ra bất ổn trong giới hạ lưu, thì trong giới thượng lưu sẽ còn tạo ra bất ổn tới đâu? Lý do mà Socrates muốn chỉ một số người nào đó cai trị mà thôi là một điều theo ông rất hiển nhiên, vì Thượng đế khi tạo nên con người luôn luôn theo một tỷ lệ nhất định như "Thượng đế trộn vàng trong một số người, bạc trong một số người khác từ khi họ được sinh ra, và trộn đồng và sắt trong những kẻ mà trời định làm thợ hoặc làm nghề nông." Thêm một lần nữa Socrates lại tước bỏ quyền hưởng hạnh phúc bằng nhau của giới cai trị (hạnh phúc vì  được có tư sản), khi cho rằng người cai trị phải nhắm tới hạnh phúc của cả nước. Nhưng một tổng thể không thể nào sung sướng được trừ khi tất cả, hoặc đa số, hoặc phần lớn các phần tử tạo thành tổng thể được sung sướng. Phẩm chất của hạnh phúc, trên phương diện này, không thể so sánh được với sự bình đẳng dựa trên đa số. Phẩm chất của sự bằng nhau có thể xảy ra trong một tổng thể mà không cần phải hiện diện trong từng phần tử, nhưng phẩm chất của hạnh phúc không giống như vậy. Và nếu người cai trị không sung sướng, thì ai là kẻ được sung sướng? Chắc chắn không phải là giới thợ thuyền hoặc dân thường. Ta có thể kết luận là nền Cộng Hòa mà Socrates trình bày chứa đựng tất cả những khó khăn này và những khó khăn khác không kém phần nghiêm trọng.

[1] Giai cấp cầm quyền tại Sparta làm chủ ruộng nương, nhưng để cho nô lệ canh tác, khác với thể thức Socrates đề nghị là giai cấp cầm quyền không làm chủ ruộng đất, và nông dân - vừa làm chủ đất vừa canh tác đất đai - không phải là nô lệ (Ghi chú của Ernest Bakker).

[2] Thể dục được người cổ Hy Lạp coi là một trong những môn học cần thiết để huấn luyện trẻ con thành người tự do: được đào luyện không những về trí dục mà còn thể dục. Plato trong Cộng Hòa Luận (quyển 3) coi thể dục là môn học không thể thiếu được và chỉ dành cho người tự do mà thôi.

 

Chương VI


Những điều mà ta không đồng ý với lập luận của Socrates cũng tương tự như, hoặc là gần giống với lập luận của Plato trong tác phẩm sau này của ông, đó là cuốn Luật Pháp, do đó, ta nên trước hết xem xét một cách vắn tắt cơ cấu chính trị được ông mô tả trong tác phẩm này. Trong Cộng Hòa Luận, Socrates chỉ thảo luận một vài vấn đề, như là tổ chức một cộng đồng có vợ chung, con chung, tài sản chung, và cơ cấu chính trị. Dân chúng được chia thành hai giai cấp--một là giai cấp nông dân, và một là giai cấp chiến sĩ. Trong giai cấp chiến sĩ lại chia thành giai cấp thứ ba là các nhà lập pháp và cai trị. Nhưng Socrates vẫn chưa xác định xem có để thành phần nông dân và thợ thuyền được dự phần trong chính quyền, hoặc là có cho họ được tham gia quân đội hay có quyền giữ vũ khí hay không. Ông nghĩ rằng phụ nữ cũng nên được giáo dục như giai cấp lãnh đạo, và cũng được tham gia chiến đấu.

Phần còn lại của tác phẩm, tuy nhiên, lại gồm những phần thảo luận lạc khỏi chủ đề chính, và những phần thảo luận về cách thức giáo dục giai cấp lãnh đạo. Những điều được trình bày trong cuốn Luật Pháp hầu như chỉ liên quan đến pháp luật, chứ không bàn nhiều đến cơ cấu chính trị. Và trong những phần bàn về cơ cấu chính trị, mặc dù ông muốn đưa ra một mô hình chính trị mà các nước đều có thể áp dụng, ông lại đi vòng vo và đưa đến một mô hình khác (được mô tả trong Cộng Hòa Luận), hoặc một mô hình lý tưởng [không thể nào đạt được]. Thí dụ, nếu không kể đến việc tạo dựng một cộng đồng có chung vợ con, ông giả thiết mọi sự đều như nhau trong cả hai mô hình nhà nước: cả hai đều có cùng [hệ thống] giáo dục; công dân của cả hai đều không phải làm những công việc lao động chân tay; và công dân đều có bữa ăn chung với nhau. Chỉ có một điều khác nhau là theo mô hình đề nghị trong cuốn Luật Pháp thì phụ nữ được dùng bữa ăn chung, và con số chiến sĩ là năm ngàn người, thay vì chỉ có một ngàn người như trong cuốn Cộng Hòa Luận.

Những bài nghị luận của Socrates luôn luôn độc đáo, phong nhã trong văn chương và sáng tạo trong tư tưởng; nhưng có lẽ ta không thể đòi hỏi mọi điều ông viết đều toàn hảo. Ta đừng quên một điều là chỉ với sự kiện năm ngàn công dân mà ông nhắc tới, ta cần phải có một lãnh thổ rộng bằng xứ Babylon, hoặc một vùng đất rộng lớn nào đó để có thể dung dưỡng chừng đó người, chưa kể đến số đàn bà, trẻ con và những kẻ hầu hạ còn nhiều gấp mấy lần số năm ngàn người. Khi cấu tạo nên một mô hình lý tưởng, ta có thể tha hồ đặt ra giả thuyết này nọ theo ý thích, nhưng cũng nên tránh những điều bất khả thực hiện.

Trong cuốn Luật Pháp có nói rằng, nhà lập pháp nên luôn để ý đến hai điều-dân chúng và lãnh thổ; nhưng cũng không được quên các nước lân cận, thứ nhất là vì một quốc gia phải có đời sống chính trị, tức là quan hệ với các nước khác, chứ không phải là một nước tự cô lập, sống riêng rẽ một mình. Vì một nước phải có một lực lượng quân sự, không phải chỉ sử dụng trong nước mà khi cần còn để đối phó với nước ngoài. Ngay cả khi ta cho rằng một đời sống bận bịu, tất bật không phải là đời sống tốt đẹp nhất đối với cá nhân hay quốc gia,1 thì một nước phải có khả năng làm quân thù ngán sợ, dù để tấn công hay phòng thủ.

 Điểm thứ hai là: số lượng tài sản [cá nhân] có nên được xác định một cách rõ ràng hơn cách thức được đề nghị trong Luật Pháp? Socrates nói rằng một người nên có đủ tài sản để có thể sinh sống một cách có chừng mực [không xa hoa cũng không bần tiện], nói một cách khác là "sống sung túc;" nhưng nói vậy thì quá tổng quát. Thêm nữa, cũng có những người sống có chừng mực nhưng vẫn khổ sở. Một định nghĩa hay hơn là người ta nên có đủ tài sản để có thể vừa sống có chừng mực vừa có được sự hào phóng. Nếu hai đặc tính này tách rời nhau, thì hào phóng sẽ đưa đến xa hoa, còn chừng mực sẽ đưa đến bần tiện. Do vậy, sự hào phóng và chừng mực là hai tính chất hợp lẽ duy nhất liên quan đến việc sử dụng tài sản. Người ta không thể vừa phung phí vừa kiệm ước tài sản, nhưng người ta vẫn có thể vừa hào phóng vừa chừng mực khi sử dụng tài sản. Vì thế không thể tách rời hai đặc tính này khỏi tài sản. Còn một điều bất cập nữa khi Socrates đề nghị chia đều đất đai cho mọi người, nhưng lại không hạn chế dân số; dù dân số sẽ gia tăng không giới hạn, nhưng ông tin rằng lâu dần dân số sẽ được cân bằng vì sẽ có nhiều cặp vợ chồng không có con cái, và dùng thí dụ về các nước đang hiện hữu để chứng minh cho lập luận này. Nhưng ở điểm này ta cần phải cẩn trọng hơn, vì như hiện nay, không cần biết có bao nhiêu dân trong nước, tài sản luôn được phân bố cho tất cả mọi người, và do vậy không có ai bị thiếu hụt; nhưng nếu tài sản không thể phân chia ra được như Luật Pháp đề nghị (đất đai được chia thành một số cố định các thửa đất nhỏ), thì số người dư ra, dù nhiều hay ít, sẽ chẳng có gì hết. Người ta có lẽ sẽ nghĩ rằng giới hạn dân số là điều cần thiết hơn là giới hạn tài sản, và giới hạn đó phải được tính toán bằng tử suất ở trẻ con và tỷ lệ các cặp vợ chồng không có con cái. Bỏ qua đề tài này, một điều vẫn thường xảy ra trong các nước hiện đại, là nguyên nhân tất yếu đưa đến sự nghèo khó của dân chúng, và nghèo khó là cha đẻ của cách mạng và tội ác. Pheidon, một trong những nhà lập pháp nhiệt thành xứ Corinth, cho rằng gia đình và dân số nên được giữ y nguyên, dù ban đầu các thửa đất có thể có kích thước khác nhau; nhưng Luật Pháp lại đề nghị nguyên tắc trái ngược với nguyên tắc này. Cơ cấu đúng đắn, theo tôi, còn cần được giải thích kỹ hơn trong các phần sau.

Còn một điểm nữa cũng bị bỏ sót trong Luật Pháp: Socrates không cho chúng ta biết người cai trị và kẻ bị trị khác nhau như thế nào; ông chỉ nói rằng họ có quan hệ đan xen với nhau như những sợi ngang và dọc trong một tấm vải làm bằng   chất liệu khác nhau. Socrates cho phép toàn bộ tài sản của một người được gia tăng lên đến năm lần, nhưng lại không giải thích tại sao lại không cho gia tăng điền thổ của người đó đến một mức nào đó? Thêm nữa, cách sắp xếp nhà ở của người dân theo kiểu của Socrates có giúp cho việc quản trị hộ gia đình hữu hiệu hơn chăng? [Có lẽ là không], vì ông cho mỗi người hai căn nhà ở hai nơi khác nhau, và thật là khó chăm lo cho gia đình khi phải sống trong hai căn nhà khác nhau.

Toàn bộ hệ thống chính quyền [theo kiểu này]có khuynh hướng trở nên chẳng phải là dân chủ, cũng chẳng phải là quả đầu, nhưng là một cái gì đó ở giữa, thường được gọi là một "thể chế trung dung" (polity) bao gồm những công dân thuộc thành phần có thể tự trang bị vũ khí.2 Ở đây, nếu Socrates muốn tạo dựng một cơ cấu chính trị thích hợp cho đa số các nước, thì mô hình này có lẽ đúng. Nhưng điều này lại không đúng nếu ông muốn dùng mô hình này để diễn tả một nhà nước lý tưởng, hay là một nhà nước đầu tiên. Bởi vì rất nhiều người sẽ thích mô hình theo kiểu Lacedaemonia (Sparta), hay nhiều người khác sẽ chọn mô hình quý tộc. Một số người khác, thực ra, lại nói rằng, cơ cấu chính trị tốt nhất là cơ cấu kết hợp tất cả các loại chính quyền, và họ ca tụng mô hình Sparta vì mô hình này được tạo thành bởi quả đầu, quân chủ, và dân chủ; ông vua thiết lập nền quân chủ, hội đồng trưởng lão tạo nên quả đầu trong khi thành phần dân chủ được đại diện bởi các giám sát viên do dân bầu ra. Lại có những người cho rằng Giám sát viện là một cơ cấu chuyên chế, và cho rằng tính chất dân chủ được thể hiện qua các bữa ăn chung và qua sinh hoạt hàng ngày. Nhưng lập luận trong Luật Pháp lại cho rằng cơ cấu chính trị tốt nhất được tạo thành bởi dân chủ và chuyên chế, một cơ chế hoặc là không hợp hiến, hoặc là một cơ chế xấu nhất.3 Nhưng ta chỉ có thể đến gần được chân lý khi kết hợp được nhiều mô hình khác nhau, vì cơ cấu chính trị sẽ tốt hơn nếu được kết hợp bởi nhiều phần tử khác nhau. Cơ cấu chính trị đề nghị trong Luật Pháp hoàn toàn không có quân chủ, và chỉ gồm có cơ cấu quả đầu và dân chủ mà lại thiên về cơ cấu quả đầu. Điều này được thể hiện qua việc bổ nhiệm quan chức. Vì mặc dầu việc bổ nhiệm quan chức qua hình thức rút thăm trong số những người được tuyển-gồm cả hai giai cấp quý tộc và bình dân, nhưng có hai điều kiện khiến việc bổ nhiệm này mang nặng tính chất quả đầu. Đó là điều kiện buộc người giàu phải tham dự các buổi họp và bỏ phiếu chọn quan chức, và thực hiện các nghĩa vụ chính trị khác, trong khi những người khác không bị bó buộc như vậy. Thứ hai là việc cố gắng lựa ra các viên chức trong số dân giàu và các viên chức cao cấp nhất được lựa ra từ những người giàu có nhất. Nguyên tắc quả đầu còn thể hiện qua việc bầu cử nghị viên. Tất cả mọi người đều phải đi bầu, nhưng điều này chỉ bắt buộc cho việc lựa chọn ứng viên trong giai cấp thứ nhất, và cùng một số ứng viên trong giai cấp thứ hai và thứ ba. Khi chọn ứng viên trong giai cấp thứ ba và thứ tư, thì luật lại không bắt buộc nữa; thực ra trong việc lựa chọn ứng viên trong giai cấp thứ tư, chỉ có những ai thuộc giai cấp thứ nhất và thứ nhì là bị buộc phải bỏ phiếu mà thôi. Như thế, trong danh sách những ứng viên được chọn ra để bầu chọn, trong mỗi giai cấp đều có một số người bằng nhau. Kết quả là những cử tri thuộc giai cấp khá giả sẽ trở thành đa số, còn giới bình dân vì không bị bắt buộc sẽ không đi bầu.

Những điều cần chú ý như thế này và những điều khác nữa sẽ được viện dẫn khi ta xem xét các cơ cấu tương tự, đủ để chứng tỏ là cơ cấu do Plato đề nghị không nên được tạo thành bởi sự kết hợp dân chủ và quân chủ. Còn có một điều nguy hiểm nữa trong thể thức bầu cử các viên chức từ danh sách những đại biểu đã được bầu ra trước, vì chỉ cần một số nhỏ kết hợp lại cũng có thể khiến kết quả bầu cử đi theo ý họ muốn. Cơ cấu chính trị được mô tả trong Luật Pháp chứa những điều đáng quan ngại như vậy.

[1] Người Hy Lạp cho rằng đời sống tất bật không phải là đời sống lý tưởng; họ cho rằng con người cần có thì giờ nhàn rỗi để suy tưởng. Các hoạt động quân sự là các hoạt động làm người ta bận rộn (Ghi chú của Barker).

[2] Thể chế trung dung, sẽ được Aristotle giảng giải kỹ hơn trong Quyển IV. Thể chế trung dung dựa trên thành phần trung lưu trong xã hội, là những người có khả năng để trang bị vũ khí (Ghi chú của Barker).

[3] Theo Barker, nhận xét này không công bằng cho Plato (Plato viết sách theo kiểu đối thoại, thuật lại lời của Socrates), vì ông không nhằm tới việc mô tả một cơ cấu lý tưởng như Aristotle ám chỉ, nhưng nhắm tới mô hình gần với lý tưởng nhất. Mô hình này là mô hình hỗn hợp của quân chủ và dân chủ có điều tiết (Ghi chú của Barker, trang 60).

 



tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương