LỜi giới thiệu bối cảnh lịch sử



tải về 0.64 Mb.
trang6/9
Chuyển đổi dữ liệu09.05.2018
Kích0.64 Mb.
#37853
1   2   3   4   5   6   7   8   9

Chương VII

Cũng có một số cơ cấu chính trị được một số người khác đề nghị; trong số này một số là các nhà nghiên cứu tài tử, những người khác là triết gia hoặc chính trị gia. Những cơ cấu do họ đề nghị cũng gần giống như các cơ cấu đã được thiết lập trong quá khứ hoặc đang hiện hữu, và không giống như cả hai cơ cấu do Plato đề nghị. Cũng chẳng có ai đưa ra các đề nghị mới mẻ như tạo lập một cộng đồng vợ chung, con chung, hay là tổ chức các bữa ăn chung cho phụ nữ: các nhà lập pháp bắt đầu bằng những nhu cầu thiết yếu của đời sống. Theo quan điểm của một số người, việc quy định tài sản là điểm chính yếu và là vấn đề đưa đến cách mạng. Phaleas, người xứ Chalcedon, nhận ra điều nguy hiểm này, và là người đầu tiên khẳng định rằng mọi công dân nên có tài sản bằng nhau. Ông nghĩ rằng điều này có thể được thực hiện không khó lắm tại những thuộc địa mới thành lập, nhưng lại là điều khó khăn khi một nước đã được thành lập lâu rồi; và cách ngắn nhất để hoàn thành mục đích mong muốn là những người giàu chỉ được cho chứ không được nhận của hồi môn, và người nghèo được nhận chứ không cần phải cho của hồi môn. Trong cuốn Luật Pháp, Plato cho rằng, trong một chừng mực nào đó, người dân nên được quyền tích trữ của cải, và như tôi đã trình bày, không cho phép người dân được sở hữu quá năm lần mức quy định tối thiểu. Thế nhưng những người lập ra những luật lệ như vậy thường hay quên rằng khi ấn định một mức tài sản nào đó, thì cũng phải ấn định luôn số con cái; chỉ vì nếu có nhiều con hơn số tài sản được quy định, thì điều luật đó phải bị vi phạm. Bên cạnh sự vi phạm luật lệ đó, một điều tệ hại khác sẽ xảy ra khi người giàu biến thành kẻ nghèo khó; những người mà tài sản bị thiệt hại chắc chắn sẽ khuấy động cách mạng. Các chính trị gia lão thành đã nhận thức được ảnh hưởng của việc bình đẳng hóa tài sản trên xã hội chính trị. Solon và các chính trị gia khác không cho phép cá nhân được sở hữu quá nhiều đất đai theo ý muốn, và còn có những đạo luật cấm bán điền sản: thí dụ như trong xứ Locris,1 người dân xứ này không được bán điền sản nếu không chứng minh được rõ ràng là đã gặp vận rủi [về tài chánh]. Ngoài ra còn có những luật lệ buộc người dân phải bảo toàn nguyên vẹn phần đất mà họ được trao truyền (nghĩa là không được bán bớt đi một phần đất đai). Những đạo luật như vậy ta có thể tìm thấy ở đảo Leucas, và khi luật lệ này bị hủy bỏ đã khiến cho cơ cấu chính trị trở nên quá dân chủ, vì ai cũng có thể trở thành viên chức cai trị [khi điều kiện (đất đai) xác định tư cách đại biểu đã bị hủy bỏ].                       

Lại còn một điều nữa là sự bình đẳng về điền sản dẫn đến trường hợp hoặc là điền sản quá lớn hoặc quá nhỏ; như thế, người dân sẽ hoặc là sống xa hoa hoặc là trong nghèo khó. Như vậy thật rõ ràng là nhà chính trị phải, không những nghĩ đến việc bình đẳng hóa điền sản, mà còn điều chỉnh một số lượng vừa phải nữa. Nhưng ngay cả khi đã quy định một số lượng vừa phải đồng đều cho mọi người, vấn đề cũng vẫn chưa được giải quyết. Bởi vì không phải là sự tư hữu điền sản mà lòng ham muốn của con người mới cần được bình đẳng hóa, và đó là điều bất khả thực hiện, trừ phi luật pháp tạo nên một nền giáo dục đầy đủ cho mọi người dân. Nhưng Phaleas có lẽ sẽ trả lời rằng đó chính là điều ông muốn thực hiện; nghĩa là, một nước không những cần phải có bình đẳng về tài sản, mà còn bình đẳng về giáo dục. Nhưng ông cũng nên nói cho rõ hơn những điều ông muốn nói thực sự nghĩa là gì. Một nền giáo dục bình đẳng cho tất cả mọi người sẽ chẳng có lợi gì hết, nếu nền giáo dục đó dạy người ta tham danh, hoặc tham lợi, hoặc cả hai. Thêm vào đó, những rắc rối xã hội xảy ra không phải chỉ vì bất bình đẳng về tài sản mà còn do bất bình đẳng về danh vọng và chức vụ trong xã hội. Hai sự bất bình đẳng này ngược với nhau. Dân thường tranh cãi vì sự bất bình đẳng về tài sản, còn dân thượng lưu lại tranh cãi vì có sự bình đẳng về chức vụ,2 như Homer đã từng nói: "Kẻ sang người hèn đều có danh vọng như nhau."

Có những tội ác gây ra bởi sự thiếu thốn, và Phaleas nghĩ rằng bình đẳng hóa tài sản sẽ là phương thuốc chữa trị, vì bình đẳng hóa tài sản sẽ khiến người ta mất đi sự cám dỗ trở thành kẻ cướp vì đói lạnh. Nhưng sự thiếu thốn không phải là động cơ duy nhất khiến người ta phạm tội. Người ta cũng phạm tội chỉ vì tội ác đem lại cho họ khoái lạc và giải thoát cho họ những ham muốn không được thỏa mãn (bị ám ảnh bởi những ham muốn vượt quá nhu cầu đơn giản của đời thường, họ trở thành những tên tội phạm để giải tỏa những ham muốn này). Người ta cũng phạm tội không những chỉ để giải tỏa những ham muốn đang thôi thúc: họ phạm tội vì một nỗi ham muốn nào đó và phạm tội để thỏa mãn những ham muốn đó để không còn bị đau khổ vì những ham muốn đó dằn vặt.3


Như vậy phương pháp nào trị được ba loại tội ác vừa kể? Loại thứ nhất, ta có thể giới hạn tài sản và một số nghề nào đó; còn loại thứ hai, tập cho [dân] có tính tự chủ, tiết độ; còn loại thứ ba, nếu con người muốn tìm những ham muốn nào mà tự nó đem đến khoái lạc, thì chỉ có cách là tìm đến triết học, vì ngoài triết học ra, tất cả mọi khoái lạc đều lệ thuộc vào những điều kiện khác. Một sự thật là những tội phạm ghê gớm nhất được gây ra không phải vì thiếu thốn mà vì thừa thãi. Người ta không trở thành bạo chúa để khỏi bị đói lạnh, [người ta trở thành bạo chúa vì muốn có nhiều của cải hơn nữa]. Đó cũng là lý do tại sao những ai dám hành thích một bạo chúa được người đời ca tụng hơn là giết một tên đạo tặc. Do đó, ta thấy các định chế do Phaleas đề nghị chỉ giải quyết được các tội ác lặt vặt mà thôi.

Đối với các định chế của Phaleas, còn một điểm nữa khiến tôi không đồng ý. Đó là phần lớn các định chế này được thiết lập để thúc đẩy phúc lợi nội tại của quốc gia, chứ không xét đến mối quan hệ với các nước láng giềng và những ngoại bang khác ở xa hơn. Một chính quyền phải được tổ chức với mối quan tâm đến sức mạnh quân sự; nhưng điều này Phaleas lại chẳng đả động gì đến. Đối với tài sản cũng vậy: không những tài sản phải có đủ dùng cho trong nước mà còn phải có đủ để đối phó với những nguy hiểm đến từ bên ngoài. Tài sản của một nước không nên có quá nhiều để gợi lòng tham khiến nước khác xâm lăng mà mình không đủ sức chống lại; nhưng cũng không nên có quá ít khiến cho không đủ sức để kéo dài chiến tranh ngay cả đối với những nước có lực lượng và đặc tính tương đương. Phaleas không nói gì về điểm này, nhưng ta nên nhớ rằng tài nguyên dồi dào là một lợi điểm. Tài nguyên của một nước nên ở mức mà các nước mạnh lân bang phải cảm thấy là lý do gây chiến với ta hòng chiếm đoạt của cải dư thừa của ta không đủ sức thuyết phục bằng gây chiến khi nước đó có tài nguyên kém hơn. Lịch sử đã có trường hợp minh chứng cho lập luận này. Khi vua Autophradates của xứ Ba Tư chuẩn bị bao vây thành Artenus, thì vua của Artenus là Eubulus nói với Autophradates nên nghĩ lại xem cuộc vây thành như vậy sẽ kéo dài bao lâu và tốn kém như thế nào. Eubulus nói thêm, "Ta sẵn sàng dâng thành ngay lập tức nếu bệ hạ trả một giá tương đương với phí tổn chiến tranh." Những lời này khiến Autophradates nghĩ lại và bỏ ý định bao vây thành Artenus.

Sự bình đẳng hóa tài sản là một trong những điều giúp cho công dân khỏi tranh cạnh và gây gổ với nhau, nhưng lợi ích về điểm này thì cũng chẳng được là bao. Những nhà quý tộc sẽ bất mãn vì họ nghĩ là họ xứng đáng được hưởng nhiều hơn sự bình đẳng về tài sản. Ta cũng thường thấy đây là điều gây ra loạn lạc và cách mạng. Và lòng tham của con người thì không thể thỏa mãn được. Có lúc hai đồng tiền obol4cũng đủ trả công, nhưng khi người ta quen dần với số tiền này, người ta lại muốn được hơn như thế và không biết khi nào là đủ. Bản chất của lòng ham muốn là vô hạn và phần lớn người ta sống chỉ để thỏa mãn những ham muốn này. Sự khởi đầu của cải cách chính trị không phải là bình đẳng hóa tài sản mà là huấn luyện để phần hướng thượng của bản chất con người được nâng cao khỏi những ham muốn, và phần hướng hạ không còn khả năng để chiều theo dục vọng. Ngoài ra, chính sách bình đẳng hóa của Phaleas cũng không được hoàn hảo, vì ông chỉ bình đẳng hóa đất đai, trong khi đó người ta có thể trở nên giàu có nhờ vào nô lệ, gia súc và tiền bạc, và còn vào vô số những động sản khác. Như thế hoặc là những thứ này cũng phải được bình đẳng hóa, hoặc là phải ấn định một giới hạn nào đó, hoặc là cứ để như vậy. Chính sách của Phaleas cũng cho thấy rõ ràng là chỉ áp dụng cho một nước nhỏ, vì như ông đề nghị, thành phần thợ được coi là công bộc chứ không phải là một bộ phận tạo nên công dân của đất nước. Nhưng nếu có một đạo luật quy định giai cấp thợ thuyền là công bộc của đất nước, thì chỉ nên áp dụng cho một thành phần nào đó phụ trách những dịch vụ công cộng mà thôi, như ở Epidamus, hay ở Athens theo như kế hoạch do Diophantus đã từng đề nghị.

Từ những nhận xét trên ta có thể nhận định những đề nghị của Phaleas là đúng hay sai.

[1] Locrian là một sắc dân cổ Hy Lạp thuộc xứ Locris ở miền nam Hy Lạp bây giờ.

[2] Theo Aristotle, chức vụ nên được tưởng thưởng theo khả năng, và như vậy căn cứ trên nguyên tắc bình đẳng theo tỷ lệ. Những ai đã đóng góp công sức cho quốc gia tới mức nào thì đáng hưởng chức vụ tới mức đó (Ghi chú của Barker).

[3] Đoạn này Jovett dịch rất khó hiểu, người dịch đã phải tham khảo thêm bản dịch của Enerst Barker, ấn bản đầu tiên do nhà Oxford University Press, 1958.

[4] Đồng tiền bằng bạc thời cổ Hy Lạp.

 

Chưong VIII


Hippodamus, con của Euryphon, là một công dân của xứ Miletus; ông là người đã phát minh ra nghệ thuật quy hoạch thành phố, và cũng là người đã quy hoạch thành phố Piraeus. Hippodamus là một người kỳ lạ, một người thích được thiên hạ chú ý tới nên có những hành vi lập dị khiến cho người khác nghĩ rằng ông là người màu mè, giả tạo, như tóc thì để dài; quần áo thì may bằng loại vải len rẻ tiền nhưng lại được đính đồ trang sức mắc tiền, và quanh năm ông mặc như vậy, bất kể mùa nóng hay mùa lạnh. Hippodamus, ngoài hoài bão trở thành một học giả về thiên nhiên, cũng là người đầu tiên, dù không phải là một nhà lãnh đạo quốc gia, cũng nghiên cứu về mô hình chính trị.


Nhà nước mà Hippodamus muốn quy hoạch là một nước có mười ngàn dân và được chia làm ba phần: một phần dành cho dân thợ, một phần dành cho nông dân, và phần còn lại dành cho lực lượng võ trang để bảo vệ đất nước. Đất đai cũng được chia làm ba phần: một phần là linh điền dùng để tế tự, công điền dùng để nuôi quân, và tư điền là tài sản của nông dân. Ông cũng chia luật pháp làm ba loại, chứ không có hơn nữa, vì theo ông chỉ có ba loại kiện tụng: ẩu đả, gây thương tích, và án mạng. Cũng vì thế mà Hippodamus chỉ thiết lập có duy nhất một tòa tối cao để tái thẩm những trường hợp tòa dưới đã xét xử không đúng. Thẩm phán của tòa này là những bậc trưởng lão [xứng đáng] được chọn lựa cho nhiệm vụ này. Thêm vào đó ông cũng đề nghị rằng những quyết định của tòa án không nên dùng phương thức các quan tòa dùng những viên sỏi bỏ vào trong một cái bình nếu thấy bị can có tội, mà thay vào đó nên dùng một tấm bảng và viết vào đó là chắc chắn có tội, hoặc để trống, nếu thấy bị can hoàn toàn vô tội. Nhưng nếu quan tòa cảm thấy không thể phán quyết một cách chắc chắn là bị can có tội hay vô tội, thì cũng phải viết như vậy vào tấm bảng. Ông phản đối phương thức hiện hành [dùng những viên sỏi để biểu quyết có tội hay không] vì phương thức này sẽ khiến các quan tòa mắc tội bội thệ, dù họ có bỏ phiếu cách nào đi nữa.1 Hippodamus còn đưa ra đạo luật tưởng thưởng cho những ai khám phá được những điều gì mang lại lợi ích cho quốc gia; và nhà nước phải nuôi nấng cho con em của tử sĩ, làm như những điều này trước đây chưa từng được áp dụng, nhưng đã thực sự xảy ra tại Athens và các nơi khác. Còn đối với các quan lại, ông đề nghị là để cho toàn dân, nghĩa là do ba giai cấp tôi nhắc tới ở trên, bầu ra người xứng đáng. Các quan lại sau khi được bầu vào các chức vụ có nhiệm vụ chăm lo cho các lợi ích công cộng, quyền lợi của ngoại kiều, và của cô nhi. Đó là tất cả những điểm nổi bật trong cơ cấu chính trị do Hippodamus đề nghị. Ngoài ra không còn điều gì đáng bàn.

Điều đầu tiên tôi không đồng ý với những đề nghị của Hippodamus là sự phân chia công dân thành ba loại, gồm có thợ thuyền, nông dân, và chiến sĩ; tất cả đều có tiếng nói trong chính quyền. Nhưng người nông dân không được quyền mang vũ khí, người thợ thì vừa không được mang vũ khí vừa không có đất đai, và như vậy thì họ có khác gì hơn là nô lệ của giai cấp quân nhân đâu. Cho nên bảo rằng họ đều được dự phần vào chính sự chỉ là chuyện bất khả thi, vì các tướng lãnh và những người bảo hộ cho dân cùng hầu như tất cả các quan lại đều xuất thân từ giai cấp được mang vũ khí. Chưa hết, nếu hai giai cấp này không được dự phần vào chính sự, thì làm sao mà họ có thể trở thành những công dân trung thành cho được? Người ta thường nói rằng những người được mang vũ khí là những người tài giỏi hơn các giai cấp khác và như vậy nhất thiết phải là giai cấp cai trị. Nhưng điều này chỉ dễ xảy ra khi họ có đông người hơn các giai cấp khác; ngay cả khi điều này xảy ra thì tại sao các giai cấp khác phải dự phần vào chính sự, hay là có quyền bổ nhiệm các quan chức? Thêm nữa, những người nông dân có ích lợi gì cho quốc gia? Thợ thuyền luôn luôn cần thiết trong mọi nước và họ có thể sinh sống bằng nghề của họ, và cả những người nông dân nữa, nếu họ cung cấp lương thực cho thành phần chiến sĩ, và cả hai giai cấp này có thể tham gia một phần nào vào chính sự. Nhưng theo cơ cấu của Hippodamus thì nông dân là những người sở hữu tư điền và canh tác cho tư lợi. Chưa hết, còn phần công điền dành cho giai cấp quân nhân, ai sẽ là người canh tác đất đai này? Nếu quân nhân đi làm ruộng thì có khác gì nông dân đâu, dù chính quyền có thể ban luật để phân biệt. Còn nữa, nếu những người canh tác số công điền này không phải là nông dân và cũng không phải là quân nhân, thì ta lại có giai cấp thứ tư, một giai cấp không có chỗ đứng trong quốc gia và cũng chẳng dự phần vào việc gì hết. Hoặc là giai cấp nông dân vừa làm ruộng của nhà vừa làm ruộng công; trong trường hợp này họ sẽ gặp khó khăn để sản xuất đủ dùng cho gia đình mình và cho gia đình của người quân nhân họ phải nuôi. Đã thế thì còn chia đất làm ba loại để làm gì vì người nông dân có thể vừa canh tác để nuôi sống chính gia đình mình và gia đình người lính trên cùng một mảnh đất! Phân chia theo kiểu này thật là rối rắm.

Luật lệ mà ông đề nghị liên quan đến các quan tòa cũng có nhiều rắc rối. Khi có một vụ kiện đơn giản được trình tòa, theo phương thức Hippodamus đề nghị, thì quan tòa phải phân biệt ai đúng ai sai và như vậy trở thành trọng tài. Khi phân xử, các trọng tài dù có thể có nhiều người nhưng họ vẫn có thể thảo luận với nhau để đưa ra một quyết định chung để phân biệt [ai đúng ai sai]. Nhưng trong tòa án xét xử theo luật pháp thì điều này không thể làm được, vì thực ra, các nhà lập pháp đã đưa ra các đạo luật không cho phép các quan tòa hội ý với nhau. Như thế chẳng phải là tạo nên các sự rối rắm ư nếu quan tòa nghĩ rằng thiệt hại [cho nguyên đơn] phải được bồi thường, nhưng không nhiều như nguyên đơn đòi hỏi? Thí dụ nguyên đơn đòi bồi thường hai chục đồng minae, và quan tòa chỉ cho phép có mười đồng minae (hay nói một cách tổng quát, nguyên đơn đòi nhiều, nhưng quan tòa chỉ cho phép ít), trong khi đó, một vị quan tòa khác cho năm dồng, người khác lại chỉ cho bốn. Như thế thì số tiền bồi thường thiệt hại bị chia năm xẻ bảy; rồi số tiền bồi thường được quyết định như thế nào đây? Chưa hết, chẳng ai có thể khẳng định rằng những quan tòa bỏ phiếu hoàn toàn có tội hay hoàn toàn vô tội là phạm tội bội thệ, vì phán quyết tha bổng của quan tòa không có nghĩa là bị can vô tội và không bồi thường gì hết, mà phán quyết này chỉ có nghĩa là bị can không phải bồi thường 20 đồng minae. Vị quan tòa chỉ phạm tội bội thệ khi nghĩ rằng bị can không đáng bị phạt hai mươi đồng minae mà vẫn tuyên án như vậy.



Vinh danh những người có công khám phá ra điều gì đó có lợi cho nhà nước là một đề nghị nghe rất hay nhưng rỗng tuếch và không thể nào biến thành luật được; luật lệ như vậy sẽ chỉ gây nên xáo trộn chính trị vì sẽ có những kẻ chỉ điểm tố cáo những người có tư tưởng cải cách là âm mưu làm loạn. Câu hỏi này lại liên quan đến một vấn đề khác. Xưa nay ta vẫn nghi ngờ rằng thay đổi luật lệ của một nước có mang lại lợi ích hay không, ngay cả bằng một đạo luật tốt hơn. Hãy xét xem, nếu những thay đổi không mang lại lợi ích, ta khó có thể tán thành đề nghị của Hippodamus, bởi vì, người ta có thể dùng danh nghĩa làm lợi cho quốc gia để đưa ra những thay đổi có hại cho luật pháp hoặc cho cơ cấu chính trị. Nhưng vì ta đang bàn đến vấn đề này, có lẽ ta cũng nên đi sâu vào chi tiết thêm một chút. Bởi vì cũng có những ý kiến khác nhau rằng đôi khi cũng cần có những sự thay đổi, như trong các loại nghệ thuật hoặc khoa học khác có những sự thay đổi mang lại lợi ích, thí dụ như trong ngành y khoa hoặc thể dục, có những thay đổi khác hẳn cách sử dụng theo truyền thống. Và nếu chính trị cũng là một nghệ thuật, thì tương tự như vậy, sự thay đổi cũng cần thiết trong chính trị. Thực tế đã chứng minh là thay đổi các phong tục đơn sơ và man rợ thời cổ là một sự cải thiện, thí dụ như tục lệ người Hy Lạp thời cổ đi đâu cũng đeo theo vũ khí và mua vợ của nhau. Những tục lệ cổ còn truyền lại cho chúng ta cũng khá vô lý, như tại Cumae có một đạo luật về sát nhân, theo đó nếu kẻ tố cáo tìm đủ số nhân chứng trong vòng họ hàng của hắn, thì kẻ bị cáo bị coi như là phạm tội sát nhân. Còn nữa, con người nói chung mong muốn điều tốt chứ không phải chỉ làm theo những gì ông cha đã làm. Nhưng những người tiền sử, dù là con người từ thuở sơ nguyên hay sống sót sau thiên tai, ta có thể nghĩ rằng họ cũng không khôn ngoan hơn những người bình thường hay những kẻ ngớ ngẩn trong chúng ta ngày nay (cứ xem những truyền thống của người thái sơ thì rõ); cho nên, thật là khôi hài nếu ta cứ theo những tục lệ này. Ngay cả đối với luật lệ đã được viết xuống thành văn, cũng không có nghĩa là chúng không thể thay đổi được. Chính trị, cũng giống như khoa học, chẳng ai có thể viết xuống một cách chính xác mọi điều. Pháp lệnh phải mang tính tổng quát, nhưng hành động thì lại phải cụ thể. Do đó, ta suy ra rằng đôi khi và trong một số trường hợp chắc chắn, luật pháp có thể được sửa đổi; nhưng nếu ta nhìn vấn đề dưới góc cạnh khác, thì ta cần phải thận trọng. Vì thói quen thay đổi luật lệ dễ dàng là một điều xấu, và khi mà những lợi ích do sự thay đổi này đem lại tương đối nhỏ, thì một số những khuyết điểm của nhà cầm quyền hay nhà lập pháp nên được để yên. Lý do là vì những lợi ích mà người dân có được qua sửa đổi nho nhỏ như vậy không sánh được với những mất mát sẽ xảy ra vì người dân lúc đó đã có thói quen bất phục tùng. Thật là sai lầm khi so sánh sự thay đổi trong nghệ thuật với sự thay đổi trong luật pháp; sự thay đổi trong luật pháp khác xa với thay đổi trong nghệ thuật. Luật pháp không có quyền lực nào để bắt buộc người dân phục tùng ngoại trừ quyền lực của tập quán, vốn dĩ đòi hỏi thời gian, cho nên giai đoạn chuyển tiếp từ luật cũ sang luật mới làm suy yếu quyền lực của luật pháp. Ngay cả khi ta đồng ý rằng cần phải sửa đổi luật pháp, có phải tất cả mọi đạo luật, trong mọi cơ cấu chính trị đều phải được thay đổi hay chăng? Và có phải là hễ ai thích thì cũng thay đổi được luật hay chỉ có một số người nào đó [có quyền thay đổi] thôi? Đây là những câu hỏi quan trọng, cho nên ta dành phần thảo luận này vào dịp khác thích hợp hơn.

[1] Các quan tòa thề là sẽ đưa ra phán quyết khi đã biết chắc chắn 100% là bị cáo có tội hay không. Nhưng trong trường hợp quan tòa không chắc chắn mà vẫn phải bỏ phiếu hoặc là có tội hoặc là vô tội, thì theo Hippodamus đó là sự bội thệ.

 

Chương IX

Khi quan sát các chính quyền của xứ Lacedaemon (Sparta) và Crete, và thực ra trong tất cả các chính quyền hiện hữu, có hai điểm cần để ý: thứ nhất, khi so sánh với một nhà nước toàn hảo, có bất kỳ một đạo luật nào là xấu hay tốt không; thứ hai, có đạo luật nào tương phản với nguyên tắc và đặc tính của hiến pháp không. Ai cũng công nhận rằng trong một nhà nước được tổ chức tốt, mọi công dân đều có thì giờ nhàn rỗi và không phải bận tâm đến việc phải lo lắng đến cái ăn, cái mặc. Nhưng có điều khó khăn là làm cách nào để bảo đảm là công dân có được thì giờ nhàn rỗi như vậy. Những nông nô xứ Thessaly vẫn thường nổi dậy chống lại chủ nhân, và những nông nô xứ Lacedaemon cũng thường nổi dậy chống lại chủ nhân, vì hoàn cảnh khốn khổ của họ khiến cho họ luôn chờ cơ hội để nổi dậy. Thế nhưng, những điều như vậy lại chưa hề xảy ra với người Crete; có lẽ là vì các lân quốc của Crete, ngay cả khi đánh lẫn nhau, cũng chưa bao giờ liên kết với các phần tử nông nô nổi loạn, họ không muốn khuyến khích nổi loạn vì ngay trong nước họ cũng có nông nô. Trong khi các lân bang của Sparta-Argos, Messenia, hay Arcadia-đều là kẻ thù của nước này. Ở Thessaly cũng thế, cuộc nổi dậy của nông nô xảy ra khi Thessaly đang giao chiến với các lân bang Achae, Magnesia, và Perrhaebi.1 Hơn thế nữa, nếu không còn sự khó khăn nào khác, thì nguyên việc quản trị nô lệ đã là điều rắc rối rồi; bởi vì, nếu không dùng kỷ luật, thì bọn nô lệ trở thành láo xược và nghĩ rằng chúng cũng giỏi giang như chủ nhân, nhưng nếu đối xử với chúng khắc nghiệt một chút, thì chúng đâm ra căm tức và âm mưu làm phản. Như vậy, thật là rõ ràng khi xảy ra những việc nông nô gây loạn, điều này cho thấy là những nước có nô lệ chưa tìm được bí quyết để cai quản dân cư của mình.

Ngoài ra, phụ nữ Sparta lại được sống một cách phóng túng; điều này làm hỏng ý định của hiến pháp Sparta và đi ngược lại với hạnh phúc của quốc gia. Bởi vì chồng và vợ, mỗi người là một phần của gia đình, cho nên, quốc gia được chia đều ra làm hai phần: đàn ông và đàn bà. Vì vậy, tại những nước mà phụ nữ sống buông thả, phóng túng, thì một nửa nước phải coi như là chẳng có pháp luật gì hết. Và đó chính là điều đã thực sự xảy ra tại Sparta; các nhà lập pháp muốn cả nước trở nên mạnh mẽ và điều độ nên đã áp dụng các luật lệ đó trên đàn ông, nhưng lại quên không chú ý đến phụ nữ, để mặc họ sống xa hoa và phóng túng.

Hậu quả của điều này là  sự sùng phụng của cải, nhất là khi người công dân lại bị vợ chi phối, một điều rất thường xảy ra trong các dân tộc hiếu võ, ngoại trừ người Celts và một số sắc dân khác công khai chấp nhận đồng tính luyến ái nam.2 Tác giả các câu chuyện thần thoại đã có lý khi kết hợp Ares và Aphrodite,3 vì các dân tộc hiếu võ đều có khuynh hướng yêu cả đàn ông lẫn đàn bà. Khuynh hướng thứ hai là khuynh hướng nổi bật trong thời hoàng kim của Sparta; hầu như mọi điều trong xứ này đều do phụ nữ quản trị. Nhưng mà liệu có khác gì không giữa việc phụ nữ cai trị và người cai trị lại bị phụ nữ cai trị? Không có gì khác hết, kết quả như nhau. Ngay cả đức tính can đảm, một đức tính không cần thiết trong sinh hoạt thường nhật, nhưng lại rất cần trong thời chiến, thì đức tính này cũng bị ảnh hưởng của phụ nữ Sparta làm hỏng. [Thí dụ như] trong cuộc xâm lăng của Theban vào Sparta, không giống phụ nữ các nước khác, phụ nữ Sparta hoàn toàn vô dụng trong việc ngăn giặc và còn tạo ra nhiều rối rắm hơn là sự tấn công của địch quân. Sự phóng túng của phụ nữ Sparta đã có từ xa xưa và cũng là điều dễ hiểu, vì trong những cuộc chiến tranh của Sparta, đầu tiên là chống lại xứ Argives, rồi sau đó đánh nhau với các xứ Arcadia và Messenia, nam giới phải đi chinh chiến xa nhà lâu ngày và quen với đời sống theo quân kỷ; cho nên, khi hết chiến tranh, họ trở về sẵn sàng sống dưới luật lệ do các nhà lập pháp đặt ra. Phụ nữ Sparta thì không thế, họ sống phóng túng quen rồi, thành thử khi Lycurgus dự định bắt buộc phụ nữ phải tuân theo luật lệ, ông bị chống đối dữ dội và đành bỏ ý định này. Những điều này là nguyên nhân của những điều đã thực sự xảy ra, và khuyết điểm của cơ cấu chính trị Sparta cũng từ đó mà sinh ra. Điều cần để ý ở đây không phải là nêu ra những điểm này để bào chữa cho khuyết điểm của cơ cấu chính trị, mà để xét xem điều gì là đúng và điều gì là sai. Sự phóng túng của phụ nữ [Sparta], như tôi đã trình bày ở trên, không những chỉ tạo ra những sự lộn xộn trong cơ cấu chính trị, mà còn có khuynh hướng làm tăng trưởng lòng tham nơi con người.

Dĩ nhiên khi nhắc đến lòng tham ta cũng phải nhắc đến những chỉ trích về sự bất bình đẳng tài sản. Trong lúc một số người có rất ít tài sản, thì những người khác lại có rất nhiều, như thế điền sản đã bị chuyển sang tay của một thiểu số. Sự kiện này là kết quả trực tiếp của những luật lệ sai lầm; vì, mặc dù nhà lập pháp4 đã nêu rõ là việc buôn bán tài sản gia truyền là điều xấu xa, đáng khinh bỉ, nhưng mặt khác lại cho phép người dân được quyền cho tài sản hay để di chúc cho người khác. Cả hai cách này đều dẫn đến cùng một kết quả là có đến hai phần năm điền sản của Sparta thuộc quyền sở hữu của phụ nữ. Lý do là vì phong tục cho phụ nữ được thừa hưởng tài sản và nhận số hồi môn kếch xù. Tốt hơn hết là không nên đưa của hồi môn, hoặc là, nếu có phải đưa đi nữa, thì cũng chỉ nho nhỏ hay vừa phải thôi. Theo luật hiện hành thì người cha có quyền gả con gái (được thừa hưởng tài sản) cho bất cứ ai hợp ý mình, và nếu người cha chết trước khi để lại di chúc, người thừa kế được thừa hưởng quyền gả người con gái. Như thế, mặc dù Sparta có khả năng để duy trì 1500 kỵ binh và 30 ngàn bộ binh, nhưng tổng số công dân của Sparta đã xuống dưới mức 1000 người. Kết quả này chứng minh là luật pháp của Sparta nhiều lầm lỗi, và chỉ cần thua một trận thôi thì cũng đủ tiêu vong vì thiếu lính. Có một truyền thống trong đời các vị vua thời cổ, là cho phép người ngoại quốc được nhập tịch thành công dân Sparta, và vì vậy mà Sparta dù có phải chinh chiến lâu dài cũng không thiếu lính; thực ra, đã có lúc dân số lên tới mười ngàn người. Không biết điều này có đúng hay không, nhưng để duy trì dân số, thì tốt hơn vẫn là phân phối tài sản đồng đều. Nhưng khó lòng chỉnh sửa lại sự bất bình đẳng về tài sản vì bị điều luật liên quan đến sinh sản làm trở ngại. Các nhà lập pháp muốn gia tăng dân số càng nhiều càng tốt nên khuyến khích sinh sản; theo một đạo luật là hễ người cha nào có ba người con trai thì được miễn quân dịch, còn có tới bốn con trai, thì được miễn hết mọi nghĩa vụ công dân. Thế nhưng điều hiển nhiên là gia đình càng đông con, thì đất đai chia ra cho các con càng nhỏ lại, và thế là chẳng thể nào tránh được nhiều người sẽ lâm vào cảnh nghèo túng.

Cơ cấu chính trị của Sparta còn một khuyết điểm nữa; tôi muốn nói đến cơ quan Giám Sát Viện. Đây là một cơ quan có quyền lực cao nhất, nhưng Giám sát viên lại do toàn dân bầu ra trong đám thứ dân, cho nên các chức vụ này dễ rơi vào tay của những người nghèo túng, và những người nghèo thì lại dễ bị hối lộ. Điều tệ hại này đã thường xảy ra trong quá khứ, và gần đây nhất là sự việc liên quan đến người Andrian, một số Giám sát viên đã ăn hối lộ để làm cho quốc gia suy vong. Quyền lực của Giám Sát Viện quá lớn lao và độc đoán đến nỗi các vị vua còn phải tìm cách lấy lòng họ. Kết quả là quyền lực của hai cơ cấu này khiến cho cơ cấu chính trị bị suy đồi từ chế độ quý tộc biến sang dân chủ. [Dù sao] Giám Sát Viện cũng có vai trò giữ cho cơ cấu chính trị được tồn tại, vì thứ dân cảm thấy hài lòng khi thấy họ được dự phần vào cơ quan cao nhất nước; sự kiện này dù là do ý định của nhà lập pháp hay vì tình cờ mà quyết định như vậy, cũng có lợi cho đất nước. Một cơ cấu chính trị muốn được tồn tại, thì mọi thành phần dân chúng đều phải có ý thức và ý chí bảo vệ nó. Đối với Sparta điều này ta thấy hiển nhiên, trước hết là hai ông vua5 muốn bảo vệ ngai vàng của họ, vì họ được hưởng mọi vinh dự, thứ đến là quý tộc vì họ được đại diện trong Nguyên lão Thượng viện (một hình thức tưởng thưởng cho tài năng và đức hạnh), và sau cùng là thứ dân, vì mọi người dân đều có thể được bầu vào Giám Sát Viện. Việc bầu giám sát viên từ trong đám thứ dân là một việc hoàn toàn đúng, nhưng không nên được thực hành theo cung cách hiện tại, vì cung cách này quá ấu trĩ.6Thêm nữa, các giám sát viên là những thứ dân, lại có quyền quyết định những việc hệ trọng, cho nên họ không nên tùy tiện quyết định theo ý riêng [như đang làm hiện nay], mà phải căn cứ vào các luật lệ đã được thành văn bản. Chưa hết, giám sát viên còn tùy tiện trong lối sống không phù hợp với tinh thần của hiến pháp. Họ có tự do muốn sống phóng túng như thế nào thì làm thế ấy, trong khi người dân thì lại bị luật lệ nghiêm khắc ràng buộc đến nỗi phải lén lút tìm cách thỏa mãn nhục dục.

Chưa hết, hội đồng trưởng lão (thượng viện) không phải là không có khuyết điểm. Mặc dù trưởng lão là những người có tài năng và được huấn luyện kỹ càng về các đức tính nam nhi, nên về phương diện này phải công nhận là có lợi cho quốc gia. Nhưng quy luật cho những trưởng lão này tại chức đến mãn đời là một điều cần phải bàn lại, vì trí óc cũng già đi theo thể chất. Và khi mà ngay cả nhà lập pháp cũng không thể tin được phương thức mà những trưởng lão đã được huấn luyện, thì đó là điều nguy hiểm. Nhiều nguyên lão đã mang tiếng là nhận hối lộ và mang tội thiên vị trong các vấn đề công cộng. Và như vậy họ phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của họ, chứ không phải như hiện nay [dù gì đi nữa vẫn được tại chức cho đến mãn đời]. Nhưng (cũng có người lập luận), tất cả mọi viên chức đều chịu sự giám sát của Giám Sát Viên. Đúng thế. Nhưng đó là một đặc quyền quá lớn so với khả năng của họ, và tôi chủ trương rằng việc kiểm soát phải được thực hiện theo kiểu khác. Hơn nữa cách bầu cử trưởng lão cũng ấu trĩ vì theo luật hiện hành là những ai muốn được bầu thì phải ra ứng cử, trong khi những người thực sự tài đức phải được bổ nhiệm, dù có muốn làm hay không. Ở đây cũng như trong những phần khác của hiến pháp, hiển nhiên nhà lập pháp cho thấy ý định của mình là muốn công dân phải có lòng khát khao danh vọng và chức vụ, và ấn định đó là một tiêu chuẩn mà một trưởng lão cần phải có, vì chẳng có ai tự ra ứng cử nếu không muốn có danh vọng. Tuy nhiên, tham danh và tham lợi, hơn bất cứ nhiệt tình nào khác của con người, chính là động lực đưa đến tội ác.

Việc thiết lập các vị vua có lợi cho nhà nước hay không, tôi sẽ đề cập đến trong một dịp khác; nhưng các vị vua nên được lựa chọn theo tư cách và đời sống cá nhân thay vì cách thức hiện hành.7 Nhà lập pháp hiển nhiên biết rằng không thể bắt các ông vua này trở thành người tốt được và rất nghi ngờ đức hạnh của họ. Vì lý do đó mà dân Sparta thường cấu kết với kẻ thù của nhà vua tại các sứ quán ở nước ngoài, và việc mà hai vua thường tranh cãi nhau lại được xem là một biện pháp bảo vệ an toàn cho nền chính trị.

Còn chính sách tạo nên những bữa ăn chung, còn được gọi là "phiditia," cũng không được điều hành tốt. Phí tổn cho những bữa ăn này nên được công quỹ đài thọ như ở Crete, nhưng ở Sparta thì mỗi người phải mang phần của mình đóng góp vào bữa ăn chung, việc này tạo ra khó khăn cho những người nghèo khó; cho nên, ý định tạo nên một định chế bình đẳng và phổ thông cho mọi người của nhà lập pháp hóa ra lại đưa đến phản tác dụng. Vì những người nghèo khó hầu như không thể tham dự vào các bữa ăn này, và theo tục lệ cổ truyền, những ai không góp phần vào bữa chung sẽ mất quyền giữ quốc tịch.

Luật pháp Sparta về chức vụ đô đốc hải quân cũng từng bị chỉ trích, mà chỉ trích thì cũng phải thôi, vì điều luật đó là nguồn gốc của bất đồng, chia rẽ.  Hai ông vua là thống chế quân đội cho đến chết, cho nên lập nên đô đốc hải quân cũng như là lập nên một vị vua khác.


Điều mà Plato phê phán nhà lập pháp trong Luật Pháp cũng là những phê phán chính đáng. Toàn bộ cơ cấu chính trị của Sparta chỉ xiển dương một đức tính duy nhất; đó là đức tính của quân nhân - đức tính cần thiết để chiến thắng trong chiến tranh. Khi chiến tranh tiếp diễn, đức tính này giúp quân đội duy trì sức mạnh, nhưng khi đã tạo nên được đế quốc rồi, thì họ lại thất bại trong hòa bình vì không biết làm gì hết vì cả cuộc đời chỉ được huấn luyện để đánh nhau. Còn một lầm lỗi nữa, cũng lớn lao không kém; đó là, dù họ nhận thức đúng đắn là những điều tốt đẹp mà người ta mong muốn, như là hạnh phúc, danh vọng, hay những điều tương tự, chỉ đạt được bằng điều thiện và đức hạnh, nhưng họ lại lầm lẫn rằng những điều tốt đẹp mà họ mong muốn đó lại là những điều cao cả hơn đức hạnh.


Thêm một điểm nữa: tiền thuế nhà nước thu được đã bị quản trị quá tồi. Ngân khố không còn tiền bạc vì nhà nước phải lo chiến phí, nhưng người dân lại không muốn đóng thuế. Tiền thuế đóng cho nhà nước là thuế đánh trên điền sản, và dù đa số công dân Sparta là chủ điền, họ chẳng buồn quan tâm xem những người khác đóng thuế như thế nào. Kết quả mà nhà lập pháp định làm đã bị đảo ngược lại: làm cho nhà nước nghèo đi và người dân thêm tham lam.

Đến đây đã đủ cho những nhận xét của chúng ta về cơ cấu chính trị và những khuyết điểm chính
của Sparta.

[1] [2] Perrhaebi là một tiểu quốc ở phía bắc Thessaly và luôn bị Thessaly kiểm soát.

[2] [4] Phụ nữ Sparta có một vai trò rất đặc biệt. Họ được đối xử hầu như là bình đẳng với nam giới. Các bé gái được đi học như con trai (dù thời gian đi học có ngắn hơn con trai). Vì bản chất hiếu võ, đàn ông Sparta phải đi lính cho đến năm 31 tuổi, và phải ở trong trại lính; cho nên, việc nhà được các bà quán xuyến. Gia đình giàu hay nghèo là kết quả của tài quản trị của các bà nội trợ. Sự kiện này dẫn đến tình trạng các đấng nam nhi lại bị lệ thuộc vào vợ, từ chuyện gia đình cho đến quốc sự. Chính điều này khiến cho Aristotle lên án vai trò của phụ nữ trong chính trị Sparta. (theo tài liệu của Helen P. Schrader: http://elysiumgates.com/~helena/Women.html ).

[3] Ares (đọc theo tiếng Anh là ‘a: riz) là Thần Chiến tranh trong thần thoại Hy lạp, thường được mô tả là có tính khí nóng nảy, thất thường. Thần thoại La mã gọi Thần Chiến tranh là Mars. Aphrodite (đọc theo tiếng Anh: \a-frə-dai-ti\) là nữ thần tình yêu, tương đương với thần Vệ Nữ trong thần thoại La mã (Venus). Trong trường ca Iliad của Homer, Ares đã nhận lời của Athens để giúp phe Alchean chống lại phe Trojan, nhưng Aphrodite lại thuyết phục được Ares qua bên phía Trojans.

[4] Ám chỉ Lycurgus, còn được biết tới qua các tên Herodotus, Xenophon, và Plutarch, là nhà lập pháp của Sparta; tương truyền Lycurgus là hậu duệ đời thứ 11 của thần Hercules.

[5] Cơ cấu chính trị của Sparta gồm có 2 ông vua cùng trị vì, nguyên lão thượng viện, giám sát viện, và quốc hội. Nguyên lão thượng viện gồm 28 người từ 60 tuổi trở lên do quốc hội bầu ra và tại chức cho đến mãn đời. Nhiệm vụ của Viện Nguyên lão là xét xử về tư pháp và phê chuẩn các điều luật của quốc hội. Quốc hội gồm tất cả nam công dân từ 30 tuổi trở lên.

[6] Aristotle không giải thích thêm phương pháp bầu cử giám sát viên ấu trĩ như thế nào.

[7] Nền quân chủ của Sparta có hai vua đồng trị vì, hai vua này là dòng dõi của hai họ Agiads và Eurypontids, tương truyền là hậu duệ của cặp song sinh Eurythenes và Procles, con cháu của thần Hercules.

Chương X

Cơ cấu chính trị của Crete cũng gần giống như của Sparta, và ở một vài điểm cũng tốt bằng Sparta, nhưng phần lớn thì kém hơn về phần hình thức. Những bản hiến pháp cũ thường không chi tiết bằng bản hiện nay, và bản hiến pháp của Sparta thường được xem như là bản sao của Crete. Tương truyền, Lycurgus khi thôi không làm phụ chính cho vua Charillus, đã xuất ngoại và sống ở Crete một thời gian dài, vì hai nước có tương quan mật thiết với nhau. Lyctius [một thành phố của Crete] là thuộc địa của Sparta, và những người Sparta khi sang sinh sống ở đó sử dụng luôn hiến pháp đã có sẵn của dân Crete. Ngay cả cho đến bây giờ, người Perioeci, tức là dân Crete đã bị đô hộ, vẫn tuân theo những luật lệ nguyên thủy do Vua Minos1 ban hành. Đảo quốc này, hình như vì thiên nhiên đặt định, nằm ở một vị trí dễ trở thành thuộc địa của Hy lạp. Chung quanh đảo quốc [về phía đông của Địa trung hải] là những vùng đất đã do người Hy lạp đến cư ngụ; về phía tây thì cũng không cách Peloponnese bao xa, còn về phía đông thì lại gần với Á châu ở vùng Triopium và Rhodes. Như thế, Minos đã chiếm được một đế quốc trên biển, chinh phục một số đảo và chiếm làm thuộc địa một số đảo khác, và cuối cùng [dùng vùng này làm bàn đạp] tiến công Ý đại lợi; Minos chết gần vùng Camicus, vùng đất gần đảo Sicily của Ý đại lợi.

Có nhiều điểm tương đồng giữa hiến pháp của Crete và Sparta. Nếu Sparta có những nông nô gọi là helots, thì Crete có những nông nô Perioeci. Dân cả hai xứ đều có những bữa ăn chung, người Sparta xưa kia gọi là "andria" (thay vì phiditia như ngày nay), và người Crete cũng gọi như vậy. Việc sử dụng từ ngữ như vậy chứng tỏ hệ thống dùng bữa ăn chung bắt nguồn từ Crete. Sự tương đồng giữa hai hiến pháp còn ở cơ cấu Giám Sát Viện mà người Crete gọi là Cosmi, điều khác nhau duy nhất là có 5 giám sát viên ở Sparta, và 10 người ở Crete. Nguyên lão thượng viện cũng tương tự như nhau, người crete gọi là hội đồng nguyên lão. Trước kia Crete cũng có quân chủ, nhưng sau này bị bãi bỏ, và cơ cấu Cosmi kiêm thêm nhiệm vụ lãnh đạo trong chiến tranh. Mọi công dân đều có quyền tham dự quốc dân đại hội (giống như dân Sparta), nhưng chỉ là để phê chuẩn các quyết định của hội đồng trưởng lão và giám sát viện Cosmi.

Bữa ăn chung của dân Crete cũng được tổ chức hay hơn ở Sparta; vì ở Sparta mỗi người đều phải đóng tiền cho phần ăn tiêu chuẩn của mình, và nếu mà không có đủ phương tiện để đóng tiền ăn, thì, theo luật, sẽ bị mất quyền công dân. Còn ở Crete thì bữa ăn chung đúng nghĩa là ăn chung hơn. Tất cả hoa màu, gia súc nuôi trên đất công, cùng với những tô tức do nông nô Perioeci trả cho chủ điền được chia làm ba phần: một phần là đồ tế lễ thần linh, một phần cho công quỹ, và một phần cho các bữa ăn chung. Vì thế mà đàn ông, đàn bà và con trẻ đều được hưởng sự hỗ trợ từ của công. Nhà lập pháp của Crete còn nhiều cách thức khôn khéo để giúp dân chúng giữ được chừng mực trong ăn uống, đó cũng là cách để giúp cho đất nước; tương tự như vậy, ông cũng khuyến khích vợ chồng không nên ở chung với nhau để tránh tình trạng có quá nhiều con cái, và cho phép đàn ông có quan hệ đồng tính với nhau - điều này tốt hay xấu, tôi sẽ có dịp bàn tới vào lúc khác. Nhưng bữa ăn chung của người Crete rõ ràng là được tổ chức tốt hơn ở Sparta.

Nhưng về khía cạnh khác, định chế Giám sát viện Cosmi của Crete lại tệ hơn Giám sát viện Ephor của người Sparta. Cũng giống như ở Sparta, giám sát viên do dân bầu ra và cũng không có tiêu chuẩn về khả năng nào được đề ra, nhưng ở Crete, khuyết điểm này không có được lợi thế chính trị như ở Sparta. Ở Sparta mọi người dân đều có tư cách được bầu vào Giám sát viện, vì vậy mọi người [đều cảm thấy là] mình có được dự phần vào việc nước, và như thế muốn gìn giữ hiến pháp được lâu dài. Còn ở Crete thì khác, giám sát viên được bầu ra từ một số gia đình mà thôi, chứ không phải cho tất cả mọi người, và các trưởng lão lại được bầu ra từ những cựu giám sát viên.

Hội đồng Nguyên lão của Crete cũng mắc những khuyết điểm như của Sparta. Sự kiện giữ chức vụ trọn đời và không bị chế tài [vì xét đoán sai lầm], cộng với quyền được tùy nghi xét xử theo ý riêng và không cần đếm xiả gì đến văn bản luật lệ, là điều nguy hiểm. Không thể viện lẽ rằng dù toàn thể dân chúng không được tham gia vào việc chọn lựa trưởng lão mà vẫn không bất mãn để cho rằng đó là một định chế tốt. Thực ra, điều khác biệt giữa Giám sát viện Cosmi và Ephor nằm ở chỗ Crete là một hòn đảo nên chẳng có lợi lộc gì và giám sát viên cũng không có cơ hội để tham nhũng.

Phương thuốc mà họ dùng để chữa điều xấu xa của cơ cấu chính trị này là một phương thuốc lạ lùng, thích hợp cho cơ cấu quả đầu hơn là cho một nhà nước theo hiến pháp. Vì các giám sát viên thường bị những người đồng viện hoặc dân thường âm mưu trục xuất ra khỏi Giám Sát Viện, và được phép từ chức trước khi mãn nhiệm. Chắc chắn rằng những việc như vậy tốt nhất vẫn là do luật pháp ấn định hơn là do ý định của con người. Tệ hơn cả là sự kiện cho phép Giám Sát Viện bị đình chỉ công tác, một phương thúc mà các nhà quý tộc thường sử dụng khi không chịu tuân phục theo quyết định của công lý. Điều này cho thấy chính quyền của Crete dù có những đặc tính của một nhà nước theo hiến pháp, thực ra là một chế độ quả đầu.

Những nhà quý tộc cũng có thói quen bầu ra người đầu đàn; họ tụ họp thành bè phái gồm dân thường và những bạn bè của họ, rồi tranh cãi lẫn nhau. Trong những lúc tranh cãi như vậy chẳng phải là nhà nước bị tiêu vong và xã hội bị phân rã? Một nước bị lâm vào cảnh nguy hiểm khi những kẻ nào muốn đánh đều có thể tấn công. Nhưng, như tôi đã nói rồi, đảo Crete được an ninh hoàn toàn nhờ vào địa thế của nó: khoảng cách giữa Crete đến các nước khác cũng giống như dân Sparta có luật cấm không cho người lạ vào trong nước; và người Crete cũng không bị ngoại bang đô hộ. Đó cũng là lý do tại sao nông nô Perioeci của Crete chấp nhận số phận của họ, trong khi nông nô Helot của Sparta lại thường hay nổi loạn. Nhưng sau này khi quân ngoại bang xâm lược tìm được cách tiến vào hòn đảo, thì những nhược điểm của cơ cấu chính trị Crete bị bộc lộ hoàn toàn. Tới đây, ta bàn cũng đã đủ về hiến pháp của Crete.

[1] Theo thần thoại Hy lạp, Minos là con của Zeus (chúa tể các thần linh) và nữ thần Europa. Sau khi chết Minos trở thành phán quan của Địa ngục (Hades).

 



tải về 0.64 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương