Lectio divina học trong trưỜNG


II Lectio divina trải qua ngày sống



tải về 1.56 Mb.
trang6/6
Chuyển đổi dữ liệu26.04.2018
Kích1.56 Mb.
#37403
1   2   3   4   5   6

II

Lectio divina trải qua ngày sống

Lectio divina, phương thế trị liệu …………………...183

Lectio divina và tâm lý …………………………… 183

Lectio divina và khiết tịnh …………………………. 189

Những khó khăn của Lectio divina …………………….. 193

Tất cả mọi ngày, thật chăng? ………………………. 193

Những thất bại ……………………………………... 193

Tiến triển trong Lectio divina
hay Lectio divina tiến triển?
……….…………... 196

Những khó khăn ……………………………………. 197

Trách nhiệm trong liên hệ của chúng ta với Chúa …. 199

Và những ai không thể? ………………………………... 201

III

Lectio divina và cuộc sống đơn sơ

Cuộc sống hoạt động …………………………………... 203

Tôi không có giờ” ………………………………. 203

Tôi đã có những sinh hoạt trong Giáo Hội” …….. 204



Lectio divina
và những khó khăn của cuộc sống đời thường ……. 209


Không phải là trí thức cũng không phải hiếu động …….. 214

Lectio divina và sứ vụ tư tế …………………………….. 215

Lectio divina và giảng thuyết …………………………... 216

IV

Lectio divina và ơn gọi

ƠN GỌI


Ơn gọi là gì? ………………………………………... 221

Chúa Kitô là con đường ……………………………. 221

Tất cả chúng ta đều được gọi ……………………. 222

Những điều kiện để đáp lại ơn gọi …………………. 224

Ơn gọi, theo Chúa, một cây ……………………….... 224

Sự phát triển của cây ………………………………. 224

Ơn gọi, đó là những trái của cây ………………….. 225

Lời gọi và Lectio divina



Lectio divina giúp chúng ta đi trên đường này …..... 225

Thực hành Lectio divina đòi hỏi một dấn thân …….. 226

Lectio và đồng hành ơn gọi …………………………….. 226

Khi sự trung gian gây rối ………………………….. 228

Những tiếng gọi ………………………………………... 229

Lectio divina và đời sống thánh hiến ………………. 229

Lectio divina và ơn gọi linh mục …………………... 230


V

Lectio divina và cuộc sống trí thức

Lectio divina và việc quản trị cá nhân …………………. 232



Lectio divina và cuộc sống trí thức …………………….. 234

Lectio divina và huấn luyện về Kinh Thánh ………….... 239

Lectio divina và thần học ………………………………. 242

Lectio divina và chiêm niệm …………………………... 243

Lectio divina và sự hiểu biết đức tin ……………….. 246

Lectio divina và học thần học ……………………… 246

Lectio divina và giao hòa giữa khoa học với đức tin . 247

Lectio divina và thần học thiêng liêng ……….…….. 249

Các sách và thủ bàn về thần học thiêng liêng …….... 250

Việc dạy thần học thiêng liêng …………………….. 251

Ghi chú về thần học luân lý ………………………... 253

Lectio divina và sự phát triển của đức tin ……………... 254

Đức tin và Lectio divina ……..…………………….. 255

Lectio divina và sự tăng trưởng của đức tin ……………. 257

Những ân huệ của Lectio divina cho trí hiểu ………….. 258
VI

Lectio divina và cuộc sống thiêng liêng

Đó không phải là suy gẫm …………………………. 262

Lectio divina và Thánh Lễ



Hai phần của Thánh Lễ …………………………….. 263

Lectio divina tiếp nối Bàn Tiệc Lời …………….... 265

Lectio và suy nguyện



Tại sao “Lectio divina và Suy nguyện”? ……….. 266

Lectio divina và suy nguyện,


những cột trụ của cầu nguyện; xuất phát từ Thánh Lễ;


phương thế triệt để của việc thánh hóa ………..…. 269

Những liên quan giữa Lectio divina và suy nguyện

Liên hệ nội tại

Lectio divina giúp đỡ suy nguyện …………….. 270

Trong Phúc âm ……………………………………….. 271

Ở nơi thánh Têrêsa Chúa Giêsu ……………………….. 274

Lectio divina và Suy nguyện làm phong phú lẫn nhau . 276

Lectio divina cần cho Suy nguyện

Những hiểm nghèo của một cuộc sống suy nguyện
không có Lectio divina
………………………….…. 277

Suy nguyện ích lợi cho Lectio divina …………….. 279

Khi Lectio divina kéo dài trong Suy nguyện ……….. 282

Lectio divina và Dòng Cát Minh …………………... 283

Một chút lịch sử ………………………….……. 283

Lectio divina và những linh đạo khác …………... 290

Lectio divina và các thánh vịnh ………………………... 291

Lectio divina và các hình thức khác của cầu nguyện …. 292

Lectio divina và cuộc chiến thiêng liêng ………………. 294

Lectio divina và đồng hành thiêng liêng



Để đồng hành ………………………………..……... 294

Đối với người đồng hành ………………………….. 295

Lectio divina và bí tích hòa giải ……………………….. 297

VII

Ví dụ về Lectio divna; cẩm nang

Ví dụ về Lectio divina ………………………………….. 300

Lectio divina nhiều người? ……………………………... 300

Biểu tượng: Người Samaritanô nhân hậu ………………. 301

Người Samaritanô nhân hậu,
chú giải của Sévère d’Antioche
…………………….. 302

Cẩm nang hướng dẫn Lectio divina ……………….…... 306

KẾT LUẬN CHUNG …………………………………... 308

MỤC LỤC ……………………………..……... 312

NGUYÊN BẢN PHÁP NGỮ

Jean KHOURY

LECTIO DIVINA

à l’école de Marie

Éditions Docteur angélique, 2008



www.docteurangélique.com

ISBN: 978-2-9527315-3-9

JOUVE

11, bd de Sébastopol, 75001 Paris



Imprimé sur presse rotative numérique

No 456927M – Dépôt légal: avril 2008

Imprimé en France

LECTIO DIVINA _________________________

học trong trường Mẹ Maria

ĐỌC SÁCH THIÊNG LIÊNG VỀ KINH THÁNH – LECTIO DIVINA – Hay nói đúng hơn: CẦU NGUYỆN DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA LỜI CHÚA – đã có một truyền thống lâu dài và tuyệt vời trong Giáo Hội. Trong quyển sách này, phương pháp được trình bày một cách thực tiễn và dễ hiểu, khích lệ mỗi kitô hữu cầm lấy Sách Kinh Thánh để đọc được trong đó một hướng dẫn chân thật cho trí khôn và cho hành động trong cuộc sống mọi ngày.

Tác giả đề nghị với chúng ta một giải thích về chiêm suy (contemplation) riêng cho Lectio divina, một chiêm suy nuôi dưỡng trí khôn và ý muốn, đưa chúng ta vào tiếp cận với Thiên Chúa và cống hiến một trải nghiệm sống động và thực tiễn về những Lời của Chúa Kitô. Vạch ra một con đường gặp gỡ đảm bảo với Chúa Kitô, đó là thách đố mà quyển sách này muốn đề ra: Nêu lên những tiêu chuẩn để đảm bảo rằng đó chính là Chúa Kitô nói chứ không phải là những dự kiến hay ảo tưởng của chúng ta.

Với Lectio divina, chúng ta học biết đi từ "đọc" tiến sang "gặp gỡ" thực sự và sống động với Lời của Chúa Kitô, trải nghiệm mỗi ngày về sức mạnh của những Lời của Đấng Phục Sinh. Quyển sách này cống hiến một phương pháp rõ ràng về thực hành cho hoạt động trung tâm của của đời sống kitô hữu.



-------------

Jean Khoury, tiến sĩ thần học thiêng liêng tại đại học Angelicum (Roma), cử nhân thần học tại Học Viện công giáo ở Toulouse (Pháp), Sáng lập viên "Trường Đức Mẹ", ông đã xuất bản một tập sách "Dẫn vào đời sống thiêng liêng cho người trưởng thành ở ba cấp độ, hiện diện ở nhiều quốc gia. Là tác giả của sách về Thần Học thiêng liêng.

www.docteurangélique.com

11. Hiến chế Dei verbum số 21.

22. Tâm hồn, và tinh thần là chóp đỉnh của tâm hồn, thường là trí hiểu và ý muốn. Trong tâm hồn, trí hiểu có tính cách tích cực và ý thức, đó là phần núi được nhìn thấy. Trong khi tinh thần được so sánh với phần núi bị mây che khuất và trực tiếp thấy mặt trời, chủ yếu là trí hiểu và ý muốn siêu ý thức và thụ động. “Siêu ý thức” vì ý thức làm rõ nét và là “siêu” vì tinh thần ở gần Thiên Chúa hơn tâm hồn; và tinh thần có thể tham dự vào cuộc sống thiên linh, điều mà tâm hồn không thể làm được. Tinh thần là thụ động bởi vì chính Thiên Chúa hoạt động, khác với tâm hồn có tính cách tích cực và ý thức.

33. Do đấy, công việc cao nhất của trí hiểu thụ động của con người (tinh thần) sẽ là tham dự vào việc Sinh ra Lời. Ý muốn thụ động (tinh thần) sẽ tham dự vào việc Thở khí Thánh Thần xuất phát từ Cha và Ngôi Lời! Đó là suy nguyện, mà chúng tôi sẽ bàn đến trong một tác phẩm khác, cho phép tinh thần chúng ta (hoặc nói theo nghĩa Thánh Kinh: lòng chúng ta) tham dự trực tiếp vào đời sống thiên linh. Quyển sách này dành riêng bàn đến sự tham dự của tâm hồn - có nghĩa là trí hiểu và ý muốn có ý thức và tích cực - vào những lời đầy sức sống của Logos.

44. Giáo Lý Công Giáo (GLCG) số 101.

55. “Đức Chúa là Thiên Chúa nói: "Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi." Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đen để cày cấy đất đai, từ đó con người đã được lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đen, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh” (St 3, 22-24).

66. “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng, Ta sẽ cho ăn quả cây sự sống trồng nơi ngự uyển của Thiên Chúa” (Kh 2, 7). “Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành” (Kh 22, 14).

77. “Giờ đây, họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng con đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con” (Ga 17, 7-8). “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con” (Ga 17, 20).

88. “[...]Hội Thánh luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Mình Thánh Chúa. Hội Thánh không ngừng lấy Bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Thiên Chúa và Mình Thánh Chúa Ki-tô” (GLCG 103).

99. Thánh Giêrônimô trong phần dẫn nhập chú giải sách Isaia nhắc lại điều Chúa Kitô đã tuyên bố với người Do Thái: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa” (Mt 22, 29), ngài kết luận: “nếu nói theo tông đồ Phaolô, Chúa Kitô sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Cr, 24), không biết Thánh Kinh, là không biết Chúa Kitô” (x. Commentaire d’Isaie, Pl 24, 10).

1010. Chắc hẳn Người ban mình trọn vẹn cho Mẹ Maria; và Mẹ đẵ tiếp nhận Người trước hết bởi đức tin, trong lòng Mẹ như các Giáo Phụ đã nói, trước khi tiếp nhận Người trong thân xác. Nhưng Mẹ đã phải sống đức tin như Công Đồng Vaticanô II (Lumen Gentium, ch. 8) đã nhắc lại. Và do đấy, qua đức tin này, Chúa ngày qua ngày đã ban mình cho Mẹ. Có một sự phát triển không ngừng trong Mẹ. Chúa cũng ban mình cho chúng ta như thế, từng chút một.

1111. “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Hr 4, 12 – Hípri: trước dịch là “thư gửi Do Thái”).


12. Thánh Gioan Thánh Giá, Maxime 92 / Dichos 76. Những trích dẫn thánh Gioan Thánh Giá được lấy từ: Gioan Thánh Giá, Oeuvres complètes, Bibliothèque Européenne, Desclée, Paris 1989.

13. “Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói có một Lời là Ngôi Lời duy nhất, trong Người, Thiên Chúa nói hết về mình cho nhân loại (Dt 1, 1-3): Anh em hãy nhớ rằng Lời duy nhất của Thiên Chúa được trải dài trong toàn bộ Thánh Kinh, chính Ngôi Lời duy nhất vang trên môi miệng của tất cả các tác giả Thánh Kinh. Vì chính Người, ngay từ đầu là Thiên Chúa ở bên Thiên Chúa, chẳng cần đến chữ với lời, bởi Người không lệ thuộc vào thời gian” (GLCG 102).

1414. x. Rm 7, 18 và Ga 5, 17.

1515. Ibid.

1616. “Ví như Chúa chẳng xây nhà,
thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127, 1).


1717. Về vấn đề này, đọc chương 22 trong La Vie của thánh Têrêsa do chính thánh nữ viết và chương 7 về Cư Sở Thứ Sáu, trong sách Các Cư Sở (Les Demeures) hoặc Lâu đài nội tâm (Le château intérieur).

1818. Thánh Gioan Thánh Giá, Đường lên Cát Minh (Montée du Carmel) II, 22,3.

1919. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói: “Tôi mở đọc các Phúc âm để nhận biết tâm tính của vị Hôn Phu của tôi”.

2020. “Ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như Người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình” (Gc 1, 23). Gương này chính là Chúa Con.

2121. Trong phần thứ năm chúng tôi sẽ bàn đến sự liên hệ giữa Lectio divina và Suy nguyện.

2222. Theo ý Phúc âm, những phép lạ về phần xác không cần thiết. Nhưng những phép lạ về tâm hồn thì rất cần. Chúa đến để cứu chữa chúng ta và đó là điều Người ước muốn mọi ngày cho linh hồn chúng ta.

2323. Thực vậy, đó là một trích dẫn Guigues II le Chartreux, Scala (Chiếc thang, thánh Gioan Thánh Giá lấy lại ý tưởng này (x. Maxime 209 / Dichos 162). Người ta cũng tìm thấy trong tác phẩm bậc thầy của Henri de Lubac, Chú giải thời trung cổ, bốn ý nghĩa của Kinh Thánh (4 pho sách), Paris, 1959, nhiều chỉ dẫn về suy niệm Kinh Thánh và các ý nghĩa theo Truyền Thống. Người ta đọc được một tóm lược rất hay trong L’Ecriture dans la Traditition (Kinh Thánh trong Truyền Thống), Henri de Lubac, Paris, 1966. Cũng thế về chú giải của Origène, một tuyệt tác phẩm cũng của tác giả này: Histoire et esprit, L’intelligence de l’Écriture d’après Origène (Lịch sử và tinh thần, Sự Hiểu biết Kinh Thánh theo Origène), Paris, 1950.

2424. Chúng ta sẽ thấy điều đó trong phần thứ ba của tác phẩm này.

2525. Sự lưu ý này liên quan đến nghi lễ Roma. “Sau một cuộc lưu đày hằng bao thế kỷ, Lời Chúa đã lấy lại được đặc tính trung tâm của mình trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo, đó là một sự kiện không thể chối bỏ được. Người ta còn có thể nói đến một tái khám phá về Lời Chúa của các tín hữu công giáo, là những Người từng bao thế kỷ đã không còn biết thực hành việc tiếp cận trực tiếp với Lời Chúa [...]. Được đi trước và được chuẩn bị do những phong trào phụng vụ, đại kết và Kinh Thánh, Công Đồng Vaticanô II, quả thực, [...] đã giải phóng Lời Chúa và chấm dứt cuộc lưu đày của Kinh Thánh” Enzo Bianchi, Le Caractère central de la Parole de Dieu (Đặc tính trung tâm của Lời Chúa), dans le collectif “La réception de Vatican II: 1965-1985”, Paris, 1985, pp. 157-185).

2626. Ngày sống như một bản nhạc, một khúc ca thay đổi về cùng một chủ đề hoặc cùng một câu nhạc: ánh sáng được tiếp nhận. Những dấu chỉ khác trong ngày sẽ đáp lời và sẽ như một bản hòa tấu được chơi theo cùng một ánh sáng này. Thiên Chúa, như là một nhà giáo dục, theo đuổi cũng cùng và chỉ một ý tưởng nhưng Người khai triển theo nhiều khía cạnh. Như thế ngày sống có thể chỉ thường xoay quanh một chủ đề duy nhất, một ánh sáng duy nhất. Ngày lại ngày, những ánh sáng sẽ dần được bổ sung và như một hình ráp bằng nhiều miếng, những ánh sáng này từ từ tạo thành mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trong lối sư phạm này, các Thiên Thần giữ một vai trò chủ yếu mà thánh Gioan Thánh Giá gán cho các Người là sự khởi động (vào buổi sáng) – và điều này hợp với Truyền Thống từ Denys l’Aréopagie -: “Khi sự thèm muốn (ý muốn) bận rộn đến cái khác (ngoài Chúa), nó sẽ đóng cửa ngăn sự khởi động của thiên thần” (Maxime 54 / Dichos 42) và cũng vậy “Anh em hãy để ý rằng thiên thần bản mệnh của anh em không luôn khơi dậy sự thèm muốn để hành động, nhưng Người luôn soi sáng lý trí. Anh em đừng chờ có thích thú mới hành động, vì lý do và lý trí cũng đủ cho anh em rồi” (Maxime 53 / Dichos 41).

2727. Một loại bút màu đánh dấu người ta dùng để làm nổi một chữ một câu quan trọng hoặc để nhớ.

2828. “Vì Thánh Kinh được linh hứng, nên còn một nguyên tắc khác để giải nghĩa cho đúng. Nguyên tắc này không kém quan trọng so với nguyên tắc trên và không có nó thì Thánh Kinh chỉ là văn tự chết: “Thánh Kinh đã được viết ra bởi Chúa Thánh Thần nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần” [DV 12, 3]” (GLCG 111).

2929. Thực vậy, người ta không thể lắng nghe Chúa Kitô, nhìn thấy Người, hiểu Lời Người nếu không có Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đưa chúng ta đến tiếp cận Chúa Kitô, chính Người là Đấng làm sống động mối liên hệ.

3030. Người ta có thể làm vào lúc khác. Không là những hoạt động như nhau.

3131. Điều kiện của chúng ta là những con người nhập thể.

3232. Mc 10, 46-52 và Lc 18, 35-43.

3333. Để diễn tả vấn đề ước muốn khao khát chúng ta có thể đọc câu chuyện sau đây: “Một hôm Chúa đi trên bờ biển có một đồ đệ đến gần và hỏi Người: “Lạy Chúa, làm sao có thể đạt được tới Thiên Chúa”? Chúa xuống nước với đồ đệ này và Người ấn chìm ông trong nước. Sau một lúc Chúa cầm lấy cánh tay lôi ông ra khỏi nước, Người hỏi ông: “Con cảm thấy gì”? Người đồ đệ đáp: “Con cảm thấy cuộc sống của con như biến mất. Tim con đập thình thịch. Con đã tìm cách thở và tìm cách thoát khỏi nước”. Bấy giờ Chúa nói với ông: “Con sẽ thấy Chúa Cha khi sự ước muốn khao khát thấy Người cũng mãnh liệt như vừa rồi con cần thoát khỏi nước để thở” (giáo huấn của Râmakrishna, sưu tập và chú giải của Jean Herbert, Paris, 1972, tr. 300). Phải là một vấn đề sống hay chết.

3423. Cách thế nói lên những vấn đề, những ước ao hoặc xin xỏ của mình với Chúa, cũng giống như một cô gái ngồi bên hoàng tử bảnh trai của mình trong một góc khuất và đặt tay mình trên miệng chàng để xin chàng nói...

3524. Sự giải thoát có được là từ thực hiện hành động. Nói như thế nhưng cảm tưởng vấn đề có thể vẫn còn đó sau hành động bởi vì nó thuộc về một lãnh vực nằm bên ngoài con người chúng ta.

3625. “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-42).

3726. “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu” (Lc 12, 15).

3827. “Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó” (Mt 6, 30-32).

3928. “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao”? (Lc 11, 13).

4029. Các ngày Chúa Nhật, theo nghi lễ latinh có ba bài đọc (kể cả Phúc âm): 1+1+1 = 1! Cho dù chúng ta không đọc, nhưng hiển nhiên là trong tuần, chúng ta có thể kết nối Thánh Vịnh (đáp ca) với hai bài đọc. Chúng ta luôn luôn chỉ có một ánh sáng. Thánh vịnh cũng có thể dùng như một diễn tả lời kinh cá nhân của chúng ta, tuy nhiên không trực tiếp liên quan tới chúng ta ở đây.

4130. Các bài đọc được chọn liên tục hằng ngày. Theo nghi lễ latinh, trong tuần, chúng ta có bài đọc thứ nhất tùy theo năm chẵn hay lẻ - trong khi Phúc âm cũng là một (cho năm chẵn hay năm lẻ). Ngược lại, Chúa Nhật, chúng ta có ba bài đọc (kể cả bài Phúc âm); được chia theo ba năm A, B và C).

4231. Con số 95 là cách nói để cho biết hầu như chúng ta đạt tới sự xác thực hoàn toàn.

4332. Hoặc: “Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm (Rm 7, 18b-19).

4433. Kh 10, 8-10.

4534. Và: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn” (Lc 16, 10).

4635. “Ayuda mucho tener altos pensamientos” (Đường Hoàn Thiện 4, 1) “Những tư tưởng cao siêu giúp nhiều cho những hành động cao vời”. “Mẹ đã thường nói điều đó cho các chị em, trong những bài ngắn mẹ đã viết cho các chị em, mẹ thường nhắc lại điều đó, và mẹ còn nài nỉ các chị em nắm giữ những ý tưởng can đảm, như thế các chị em sẽ được Chúa ban ơn và các hành động của chị em cũng sẽ can đảm như vậy” (Pensées sur l’amour de Dieu ‘những suy tư về tình yêu Thiên Chúa’, 2, 17).

4736. “Convienne mucho no apocar los deseos... que si los santos nunca se determinaran a descarlo [...] no subieran a ta alto estado” (Vie de sainte Thérèse écrite par elle-même 13, 2): Chúng ta không nên coi nhẹ những ước muốn của chúng ta... nếu các thánh đã không quyết định ước muốn điều đó... các Người đã không thể đạt tới một trạng thái cao như vậy”. “Es gran bien tener grandes deseos”, “có được những ước muốn cao vời thì thật là điều tốt lành” (Pensées sur l’amour de Dieu, 2, 29).

4837. Đó sẽ là khổ chế gọi là “con đường nhỏ bé” mà thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã thực hành tuyệt vời!

4938. Mt 19, 16-22; Mc 10, 17-22; Lc 18, 18-23

5039. Mt 5, 1-7, 29; Lc 6, 20-49.

5140. “Ích gì cho bạn khi dâng Chúa một cái gì đó, nếu Chúa xin bạn một cái khác? Hãy xét kỹ Chúa muốn cái gì và bạn hãy thực hiện điều đó: theo cách thế này bạn sẽ làm cho mình hài lòng trọn vẹn hơn là những điều chính bạn ước muốn” (thánh Gioan Thánh Giá, Maxime 93 / Dichos 77).

5241. Hai lời cầu này có thể được diễn tả một cách khác như thánh Augustinô đề nghị: xin ban cho con ơn Chúa để con có thể thực hiện điều Chúa đòi hỏi, và rồi Chua cứ đòi hỏi bất cứ điều gì nơi con như Chúa muốn!

5342. Một lưu ý nhỏ về điểm này, để minh họa những phong cách của Chúa và của các thánh: Đức Trinh Nữ Maria, người nữ đầy ơn sủng, cũng có cái tế nhị thật cao nhã của Chúa và Mẹ đã nói với Bernadette: “xin con vui lòng...”

5443. X. 2 Th 3, 1: “Sau cùng, thưa anh em, xin anh em cầu nguyện cho chúng tôi, để lời Chúa được phổ biến mau chóng và được tôn vinh, như đã thấy nơi anh em”.


5544. Saint Grégoire le Grand “Super Cant,. Proemium 5 (Pl 79, 475A).

5645. “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết”. (Ga 15,15).

5746. “Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”! Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người” (Lc 19, 5-6).

5847. “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23, 12). Sự cố gắng đi xuống sẽ đặt trần con tim của ta và mài dũa khả năng lắng nghe của ta, như thế Lời có thể hoạt động và nâng ta lên.

5948. “Vâng Kinh Thánh là lối vào thấp, phải cúi mình xuống để đi vào” (Jean Michel Poffet, Les chrétiens et la Bible, Paris, 1998, p. 32).

60 49. Đó là “sự trợ giúp chung” mà thánh Têrêsa Giêsu nói tới (x. Vie 14, 6).

6150. Đường Lên Cát Minh, I, 13, 6. Nên đọc kỹ tất cả chương này và đừng quên rằng chìa khóa để đọc là lời khuyên: “cần có một hứng thú thường xuyên noi gương Chúa Giêsu trong mọi sự, trở nên giống cuộc sống của Người, cần phải xét kỹ cuộc sống của Người để noi theo, và trong mọi sự phải hành xử như chính Người” (triệt 3) và “vì tình yêu đối với Chúa Kitô” trong triệt tiếp sau.

6251. Đường lên Cát Minh, II, 7, 5. Ở đây cũng nên đọc trọn chương 7.

6352. Đôi khi Lectio divina cũng là qui hướng đến sự nếm hưởng và đào sâu một từ trong các bài đọc mỗi ngày. Thực hành Lectio divina, người ta khai triển, học hỏi, nắm bắt được một hứng thú mới về những chữ (từ), ý nghĩa của những từ này trong Kinh Thánh, trong Phúc âm, trong sách Phúc âm của một thánh sử hoặc trong một trích đoạn. Thực vậy, ta thực hiện việc chú giải chắc chắn là rất đơn sơ, nhưng đã hiệu quả. Lúc đó Lectio divina xoay quanh việc khám phá và đào sâu ý nghĩa của một hạn từ! Chắc hẳn điều đó có thể làm cho đi xa lý tưởng của Lectio divina, và dường như là một việc làm có tính cách trí thức, chú giải. Nhưng chính vì thế phải chú tâm đến việc lắng nghe. Lắng nghe chính là chìa khóa của Lectio divina, việc lắng nghe đưa đến cho ta cuộc sống thiên linh. Việc đào sâu một hạn từ nào đó là con đường dẫn tới Sự Sống chứa đựng trong đó. Không có sự mâu thuẫn giữa hai sự đó!

6453. Sự phản đối này có tầm cỡ; có ở nơi thánh Gioan Thánh Giá trong Đường Lên Cát Minh cuốn II chương 21. Nhưng trong chương này đó là vấn đề tò mò mà đôi khi có một số người cố gắng tìm biết những điều gì đó qua con đường siêu nhiên chứ không qua con đường lắng nghe Lời Chúa để khám phá ra thánh ý của Chúa. Và thánh nhân còn nói rằng đôi lần Chúa đáp lại điều người ta xin, Người không hài lòng khi người ta sử dụng điều đã xảy đến. Sự kiện Chúa đáp lại ở đây không là dấu chứng Người đồng ý. Chắc hẳn thánh nhân nói rõ – và điều này làm ta ngạc nhiên – rằng cuối cùng Chúa cũng cho mặc dù đó không phải là ý muốn của Người. Nhưng thánh Gioan Thánh Giá kết án loại tò mò này và hơn nữa thánh nhân còn coi đó như một tội nhẹ (x. triệt 4 cùng chương 21)!

6554. Thánh Grignon de Montfort nói về Chúa Thánh Thần: “Người càng tìm thấy trong một tâm hồn có Maria, Hiền Thê yêu dấu và không bao giờ tách rời được của Người , Người càng hoạt động và hoạt động mạnh mẽ để tạo ra Chúa Giêsu-Kitô trong tâm hồn đó và tâm hồn đó trong Chúa Giêsu-Kitô” (Traité de la vraie dévotion, no 20) và thánh nhân còn viết: “Khi Chúa Thánh Thần, Quân Phu của Mẹ, tìm gặp được Mẹ trong một tâm hồn, Người bay đến trong đó, đi vào trong đó trọn vẹn, và cởi mở thông đạt trào tràn với tâm hồn đó” (Ibid. no 36).

6655. Lectio divina là như một Truyền Tin nhỏ xảy ra mỗi ngày. Chúa cho ta một lời và Chúa muốn lời đó nhập thể. Hơn nữa Mẹ Maria luôn giữ những lời trong lòng Mẹ (x. Lc 5, 19-51), Lectio divina phải thực hiện điều đó: giữ Lời được ban cho mọi ngày.

6756. Ta hãy nói “một phần” và “một miếng” của ý muốn; đó là một cách nói để cho biết có những giai đoạn trong việc cải biến mà ý muốn không cải biến được hoàn toàn trong một lúc. Nhưng thực ra để có thể mãnh liệt hơn “tâm hồn, vì là một tinh thần, không có cao có thấp trong bản chất của mình, không có phần này mà người ta nói là cao hay thấp hơn phần kia, theo cách thế của thân xác là cái có khối lượng; [...] tâm hồn thì đơn giản, không được kết cấu bởi nhiều phần” (Thánh Gioan Thánh Giá, Vive Flamme d’amour I, 10).

6857. X. Mt 23, 25-26: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch”. Một số Giáo Phụ cũng đọc trích đoạn này của thánh Phaolô trong ý nghĩa kết hiệp thiêng liêng: “Thật vậy, chính Người là bình an của ta: Người đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một; Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét” (Ep 2, 14).

6958. Ví dụ X. thánh Gioan, Đường Lên Cát Minh II, 29, 4-5: “Tôi được biết một người có những ý nghĩ liên tục như thế, trong số những ý nghĩ này cũng có những ý nghĩ khá thật và phong phú mà người đó suy luận [...], trộn lẫn với những ý nghĩ thật dị giáo. Và tôi rất ngạc nhiên [...] thấy rằng một tâm hồn, dù tâm hồn đó thế nào, với những nhận định như thế, nếu cảm thấy có những ý nghĩ loại đó khi suy niệm liền vội vàng gán tất cả cho đó là điều thuộc Thiên Chúa, và giả định quả thực là như thế. Và hơn nữa, những tâm hồn này ước muốn điều đó và tâm trí lại quyến luyến điều đó, thì quả thật là lý do khiến các tâm hồn này đáp lại và nghĩ rằng đó là Thiên Chúa đáp lời họ và nói với họ. Điều này làm cho họ rơi vào ảo tưởng lớn, nếu họ không kiềm chế và nếu người điều khiển họ không cản ngăn họ có những lập luận như thế. Vì những người này có thói quen rút ra toàn những lời ba hoa và không tinh khiết của tâm hồn hơn là sự khiêm tốn và hãm dẹp thần trí – đã nghĩ rằng đó là điều lớn lao, và nghĩ rằng Chúa đã nói với mình; và coi như có còn hơn không, hoặc không gì hết, hay là có ít còn hơn là không. Bởi vì điều không đem lại chút gì là khiêm tốn và bác ái, hãm mình, sự đơn sơ thánh thiện và thinh lặng, thì có thể là gì”?

7059. Điều đầu tiên mà người ta có thể nói về Thiên Chúa đó là Thiên Chúa thật đơn giản. Chính về vấn đề này mà Thánh Thomas d’Aquin viết một khảo luận về Thiên Chúa (x. Somme Théolo-gique, Ia q 3).

7160. “Về tất cả các trang Kinh Thánh, người ta không rút ra được gì khác ngoài đức ái” (Inerr. in Psalmos, Ps 140” cũng nên x. De Doctrina Christiana, I, 39-40).

7261. Thiên Chúa ban mình theo nhịp độ của cuộc sống phụng vụ, theo nhịp độ cử hành những mầu nhiệm của Chúa Kitô. Nên ghi nhận rằng ơn ban sẽ mãnh liệt hơn trong những dịp lễ lớn và trọng thể, cũng như vào những Mùa Phụng Vụ quan trọng như Mùa Chay. Lectio divina do đấy cũng được nhấn mạnh hơn trong những ngày đó. Người ta sẽ có một cố gắng trung thành hơn.

7362. Maxime 210.

7463. “Lương tâm sai lạc”, trong luân lý, là trường hợp một người đã được huấn luyện sai hoặc thiếu về lương tâm của mình. Ví dụ họ nghĩ rằng theo luân lý một điều là tốt nhưng thực ra không phải như thế. Nếu điều đó xảy ra do sự chểnh mảng của họ trong việc tìm chân lý, lương tâm của họ sẽ bị coi như là “lầm lạc đáng tội”.

7564. Veritas Splendor no 63

7665. Ibid. 64

7766. Origène, “Lv hom.” VI, I.

7867. Dignitas Humanae no 1.

7968. Carnet Jaune 21. 7, 4.

8069. Manuscrit B 4 vo

8170. Varnet Jaune 5.8.4. 71. Dominum et Vivificantem no 51.

8271. Dominum et Vivificantem no 51.

8372. Điều này sẽ được bàn tới trong phần thứ ba, “Mẹ Maria và Lectio divina”.

8473. Chúng tôi sẽ bàn tới điều này trong một tác phẩm sau.

851. Vanon de l’Hymne Acathiste (Thánh thi mà người ta đứng hát trong tất cả những ngày thứ sáu mùa chay trong phụng vụ Byzantin) Ode 7.

862. Thánh Louis Marie Grignon de Montfort, Secret de Marie, no 21.

873. Thánh Louis Marie Grignon de Montfort, Traité de la vraie dévotion, no 225.

884. Mt 17, e tt.

895. X. Thánh Gioan Thánh Giá, Đường Lên Carmel II, 22, 5-6 và Maxime 147 “Chúa Cha chỉ nói một lời (Ga 1, 18), đó là Con của Người và trong thinh lặng vĩnh cửu, Cha luôn nói Lời này: tâm hồn cũng phải nghe Ngái trong thinh lặng” (Kn 18, 15).

906. Jean-Paul II, Redemptoris Mater, 12.

917. Yves Congar, “La tradition et les traditions”, Paris, 1963, vol. II, pp. 27-29.

928. “Tiếp nhận” (Chouraqui), “đàm đạo” (Sr Jeanne d’Arc), ôn lại” (Osty) “nhắc lại những điều đó” (Bible de Jérusalem), hoặc “thu gom”.

939. Pr 2, 11 theo bản LXX.

9410. “Dù Người bảo gì, anh em hãy làm”! Bản dịch của Sr Jeanne d’Arc op.

9511. GLCG 149.

9612. X. Redemptoris Mater 27-28.

9713. Ibid.

9814. X. Lc 1, 20: “Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi”. Người ta cũng có thể nghĩ: bởi vì Mẹ Maria tin cho Mẹ và cho tôi, cho chính Mẹ và cho toàn thể nhân loại.

9915. GLCG 511.

10016. Về vấn đề Mẹ Maria là người hình thành ta và là “khuôn của Thiên Chúa”, xem Grignon de Montfort, Le secret de Marie nno 16 à 18 et Traité de la vraie dévotion nno 218-221. Người ta cũng có thể đào sâu khía cạnh với la vie marie-forme de Marie Petyt (1623-1677): Maria a Sancta Teresia, Vie Mariale (fragments traduits du flamandd par Louis Van den Bossche), Paris, 1928.

10117. Mt 13, 3 bss et//

10218. “Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. Nó đáp: “Con không muốn đâu”! Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đây”! " nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha”? Họ trả lời: “Người thứ nhất” (Mt 21, 28-31).

10319. Mt 19, 25 tt

10420. Quatrième Homélie “super missus”.

10521. Canon de l’Hymne Acathiste, Ode 7.

10622. Canon de l’Hymne Acathiste, Ode 1.

10723. Rupert, “In Is.”, L. 2, c. 31 (PL, 167, 1362 BD).

10824. Mt 9, 17.

10925. Mt 22, 12.

11026. Ex. 3, 2

11127. “Lời của Ta lại chẳng giống như lửa,
Sấm ngôn của Đức Chúa” (Gr 23, 29).



11228. Poésie no 54, 5, Pourquoi je t’aime Marie.

11329. Nếu người ta muốn đào sâu những vấn đề này thì nhất thiết phải đọc những bài viết của thánh Louis Marie Grignon de Montfort, học thuyết của thánh nhân phong phú và sâu xa. Người ta có thể bắt đầu với Le secret de Marie là một tập sách nhỏ nhưng rất cô đọng. Và rồi có thể đọc Le traité de la vraie dévotion à la Vierge Marie. (Hình như hai tác phẩm này đều đã được dịch sang tiếng Việt từ trước 1975, lời người dịch).

11430. Traité de la vraie dévotion, no 34-37

115 31. Một linh mục thần bí đương đại.


1161. Origène, “hom. in Ex.” 4, 5

1172. Ga 3, 8: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu”. Thần Khí được gọi là “hơi thở” hay “gió”; do vậy sự diễn tả này trước hết được áp dụng cho Chúa Thánh Thần.

1183. Động từ “spirer” ở đây được chủ ý dùng ở số ít để cho thấy chỉ có duy một nguyên lý, chỉ có duy một nguồn trong “việc thở”. Chúa Cha và Chúa Con, “như từ một nguyên lý”, thở hơi Chúa Thánh Thần. “Với sự trung thành và sùng kính chúng tôi tuyên xưng rằng Chúa Thánh Thần từ muôn đời xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con, không phải như hai nguyên lý, nhưng chỉ duy một nguyên lý, không phải bởi hai hơi thở, nhưng chỉ duy một hơi thở duy nhất” (2è concile de Lyon, 2è session, 18 mai 1274: Constitution sur la Trinité souveraine et la foi catholique. La procession du Saint-Esprit).

1194. “[...] Đức Bà Trinh Nữ rất vinh hiển [...] không bao giờ in vết của một tạo vật trong tâm hồn mình, cũng không bao giờ để cho tạo vật điều động Mẹ, nhưng luôn luôn do Chúa Thánh Thần” (Đường lên Cát Minh”, thánh Gioan Thánh Giá, III. 2, 10). Người ta cũng có thể tìm hiểu nơi thánh Maximilien Kolbe là người kiên trì đào sâu sự liên hệ giữa Chúa Thánh Thần và Mẹ Maria.

1205. “Các ngươi có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy” (x. Mt 13, 14-15. x. Ga 12, 37-41).

1216. “Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7, 55-56). Sự liên hệ giữa sự kiện được đầy ơn Thánh Thần và sự kiện thấy Thiên Chúa là rất rõ ràng; Thánh Luca đã nhấn mạnh điểm này.

1227. “Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa” (2 Cr 5, 16).

1238. Démonstration de la prédication apostolique, Irénée de Lyon, 7.

1249. Ta hãy nhớ rằng tinh thần là chóp đỉnh của tâm hồn, là phần thụ động và siêu ý thức được mời gọi tham dự vào bản tính của Thiên Chúa, và những hoạt động của Người ngay từ đời này.

12510. Léon XIII, Tông huấn “Providentissimus Deus”, 18.11.1893.

12611. Dei Verbum, 11. Ta cũng có thể đọc GLCG 105-108 về sự linh ứng và chân lý của Kinh Thánh.

12712. Ngoài các sách của cha Henri de Lubac được liệt kê trên đây, người ta còn có thể đọc: Lire la Bible à l’école des Pères, A.-G Hamman et M.-H. Congourdeau, Paris, 1997. Trong sách này ta tìm thấy nhiều chỉ dẫn thư mục. Người Ta cũng có thể đọc toàn bộ chú giải của một Giáo Phụ. Ví dụ, Sermon sur la montagne, của thánh Augustinô, hoặc cũng cùng tác giả, Commentaire de la première lettre de saint Jean, v.v...

12813. x. Bức màn mà thánh Phaolô nói tới: “Thật vậy, cho đến ngày nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏc [...] Nhưng khi người ta quay lại với Chúa, thì tấm màn mới được cất đi” (2 Cr 3, 14-16). Đối với ta, là kitô hữu vẫn chưa đủ để bức màn này được vén lên, ta còn cần phải hoán cải và bắt đầu một giai đoạn mới với Chúa Kitô, tay trong tay bước đi với Người.

12914. x. Lc 24, 25-27; Lc 24, 44-46.

13015. x. Tv 22, 15

13116. Thánh Thomas d’Aquin, Psal. 21, 11.

13217. GLCG 112.

13318. Thánh Phaolô nói rằng khi tin nơi Chúa Kitô bức màn che ý nghĩa của các sách Cựu Ước sẽ rơi xuống (được vén lên). “Thật vậy, cho đến ngày nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ.15 Phải, cho đến nay, mỗi khi họ đọc sách ông Mô-sê, tấm màn vẫn che phủ lòng họ.16 Nhưng khi người ta quay lại với Chúa, thì tấm màn mới được cất đi” (2 Cr 3, 14-16).

13419. Vậy Người nói với họ: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24, 25-27). “Vì Thầy bảo cho anh em hay: cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp” (Lc 22, 37). Đó là một ám chỉ rõ ràng Is 53, 12.

13520. “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em” (1 P 2, 21-25). Đoạn văn này được dệt bằng những trích dẫn Isaia 53. Người Ta cũng có thể đọc bài giảng thứ nhất của thánh Phêrô trong sách Công Vụ, trong đó thánh nhân áp dụng một đoạn Thánh Vịnh (Tv 16, 8-11) vào cuộc khổ nạn của Chúa (Cv 2, 25-28).

13621. Origène, Homélie sur le Lévitique 5, 5.

13722. GLCG 113.

13823. Yves Congar, La Tradition et les traditions, vol. II, Essai théologique, Paris, 1962, p. 101. “Thần Khí cùng lúc tác tạo, từ bên trong, sự hợp nhất của cộng đoàn và những cơ cấu hoặc những biểu lộ của các thiên tài của cộng đoàn, có nghĩa là của truyền thống của cộng đoàn”. (Xf. Ibid. p. 103).

13924. GLCG 114.

14025. Thánh Irénée, Demonstratio apostolica, 11.

14126. “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.12 Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành” (Mt 13, 11-15). Hoặc như ngạn ngữ nói: “Không có gì ngưới điếc nào tệ hơn là người không muốn nghe”.

1421. Diễn ngữ là của Denys l’Aréopagie (x. Théologie mystique, I, 1), nhưng ta cũng có cùng một tư tưởng nơi Origène.

1432. “Tùy thể” dựa vào sự khác biệt của triết học giữa thực thể hay bản thể (subtance) và tùy thể (accident).

1443. La Théologie Mystique, I, 1, in Oeuvres complètes du Pseudo-Denys l’Aréopagite Denys traduction et préface de Maurice de Gandillas, Paris 943.

1454. Thứ nhất là của Denys và như thế cần phải đọc trọn La Théologie Mystique.

1465. “Inerr. in Psalmos” Ps 140, in Lire la Bible à l’école des Pères, de Justin martyr à S. Bonaventure, coll “Les Pères dans la foi” Migne, Paris, 1997. p. 184.

1476. De Doctrina Christiana, I, 39-40. p. 197.

1487. Ibid. p. 199.

1498. Ibid. p. 200.

1509. x. Exégèse médiévale của De Lubac. Cũng x. Origène là người nói rằng điều người ta tìm và người ta gặp được trong Kinh Thánh, đó chính là Logos (Lời) (Histoire et esprit de De Lubac, chapitre VIII 3 et 4) và rằng KinhThánh cũng như Thân Thể Chúa Kitô là những điều nhất thời (Ibid. fin).

15110. Đây là tư tưởng quý đối với thánh Gioan Thánh Giá và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu; chúng tôi sẽ trích lại vài hàng ở dưới.

15211. “Thí mạng” ở đây có nghĩa sâu xa của cho đi trọn vẹn, một sẵn sàng bí nhiệm của tâm hồn dưới tác động của Chúa Thánh Thần nhắm tới một hành động cứu rỗi. Ta còn có một diễn ngữ khác cũng giống như vậy “bị nộp vào tay phường tội lỗi” (Mc 14, 41). Ta có thể nói “tay của tội lỗi”, bởi vì đó là thí “mạng sống” - bản tiếng pháp thí “linh hồn” - và tội lỗi chủ yếu đạt tới linh hồn! Cũng vậy Thần Khí giao nộp tông đồ cho những người khác như một tấm bánh: “Anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn” (Ga, 21, 18).

15312. Marie-Louise von Franz, Reflets de l’âme, les projections, recherche de l’unité intérieure selon la psycchologie de C.G. Jung. Orsay, 1992, p. 70.

15413. Ibid.

15514. Tâm hồn chỉ đạt đến toàn thể của chính mình, cái ý thức và cái vô thức, tùy theo mức độ nó gặp được toàn thể điều hiện hữu. Đối với tín hữu, sự toàn thể này là Chúa Kitô, là Đấng hiểu tất cả trong họ.

15615. Trong đoạn này, cho dù người ta chỉ nói đến người nam (tiếng latinh: vir), tất cả những gì nói ở đây đều phải hiểu là cả người nam lẫn người nữ.

15716. Dĩ nhiên là Hôn Nhân không loại trừ Kinh Thánh. Hôn Nhân cũng cần đến Kinh Thánh.

15817. Những suy tư này được rút ra từ một một bài viết của thầy Michel van Aerde op, Le fil triple.

15919. “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài” (Ga 6, 37). “Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 44). “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6, 65).

16020. Khi cám dỗ Chúa Giêsu trong hoang mạc, “Quỷ lại đem Đức Giê-su đến Giê-ru-sa-lem và đặt Người trên nóc Đền Thờ, rồi nói với Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì đứng đây mà gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn. Lại còn chép rằng: Thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá”. Bấy giờ Đức Giê-su đáp lại: "Đã có lời rằng: Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi” (Lc 4, 9-12). Tiến bước trong một ơn gọi, không có sự nâng đỡ của Lectio divina thì cũng giống như gieo mình xuống từ đỉnh cao của Đền Thờ và tự nhủ: các thiên thần của Chúa sẽ cứu tôi, bởi vì tôi là con của Chúa! Người ta không thể tiến xa trong một ơn gọi nếu không có sự giúp đỡ chính yếu của Lectio divina. Nếu không sẽ là “thử thách Thiên Chúa”.

16121. “Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 P 3, 15).

16222. Alphonse Graty, Les sources, Paris, 1920.

16323. A.-D. Sertillanges, La vie intellectuelle, son esprit, ses conditions, ses méthodes, Paris, 1965.

16424. Jean Guitton, Nouvel art de penser, Paris. 1964 và Le travail intellectuel, Paris, 1986.

16525. Chăm chú không có nghĩa là gạt bỏ hay khinh chê những cái khác – nếu không sẽ chỉ là ngu muội! Chăm chú dẫn đi vào sâu hơn. Thực ra, một người viết sách thánh không nghĩ đến tất cả những ý nghĩa có thể có của tác phẩm mà ông ta soạn!

16626. “Tín điều” theo nghĩa “tín điều đức tin” như kinh tin kính (credo), có nghĩa là những lời hoặc những yếu tố (mỹ thuật, biểu tưọng, thi ca, v.v...) có thể hiểu, được mở ra, những hình ảnh chất chứa và tiếp nhận một nội dung về đức tin.

16727. Trước hết phải ghi nhận rằng, mặc dầu có những cố gắng chính yếu trong tiền bán thế kỷ thư XX (nhất là vào những năm hai mươi), ngành thần học này đã không chịu một canh tân đầy đủ để thấm nhập Công Đồng Vaticanô II như những ngành thần học khác: phụng vụ, giáo hội học, v.v... Chương về lời mời gọi chung nên thánh trong Hiến chế Lumen Gentium dù có tính cách tiên tri rất mạnh nhưng vẫn chưa diễn tả đủ thế nào là sự thánh thiện. Và ngày hôm nay ta có một nhu cầu khẩn thiết về điều đó!

16828. Thường thì việc giảng dạy đi trước in ấn, và đó là điều bình thường.

169 29 Dĩ nhiên ở đây ta đụng tới một trong những khía cạnh tạo nên căn tính và sứ vụ của Giám Mục trong Giáo Hội như người Thầy dạy về đức tin.

17030. Để đào sâu những vấn đề liên quan đến sự phát triển của đức tin, ta có thể đọc một tác phẩm tuyệt vời của cha Louis Guillet ocd: Lạy Chúa xin thêm đức tin trong chúng con, Sainte-Foy (Québec), 1994. 31. “Và sự hiểu biết và cảm nhận này về thiên tính là quá bao la không thể hiểu được cách trọn hảo, đó là một nhận thức lỗi lạc. Và như thế, một trong những ơn huệ lớn lao Chúa ban, khi sống trong cõi đời này, đó là cho hiểu tỏ tường rằng ta không thể hiểu cũng như cảm nghiệm Người một cách trọn vẹn. Bởi vì đó như là cách thế của những người thấy Người trên trời, là nơi những người nhận biết và phân biệt rõ ràng sự vô cùng mà họ còn phải hiểu, hơn là những kẻ thấy Người kém hơn, với những người này điều họ còn phải hiểu không xuất hiện cách rõ nét như cho những người đã thấy Người hơn” (thánh Gioan Thánh Giá, Khúc Linh Ca A 7, 9).

171


17232. Homélies sur l’Exode, 13, 3.

17333. x. phần thứ nhất của tác phẩm này.

17434. Trong một tác phẩm khác, chúng tôi sẽ bàn đến suy nguyện, là như nối dài phần thứ hai của Thánh Lễ.

17535. Ta sẽ có dịp bàn kỹ lưỡng về những vấn đề liên quan đến Suy nguyện trong một tác phẩm kế tiếp.

17636. Cha Anrintero, Cha Garrigou-Lagrange op, Cha Jérôme de la Mère de Dieu ocd, Cha Marie Eugène ocd, Cha Louis Guillet ocd, Cha Gabriel de sainte Marie Madeleine ocd, v.v...

17737. Đó là trào lưu linh đạo Đông Phương, đặc biệt nơi các đan sĩ. Trào lưu này đưa cuộc sống của Thiên Chúa vào trong ta nhờ lặp đi lặp lại “kinh nguyện mang tên Chúa Giêsu”: “Lạy Chúa Giêsu, Con Chúa Trời hằng sống, xin thương xót con là kẻ có tội” hoặc một câu Kinh Thánh.

17838. Quyển sách “Cư sở” là một tác phẩm tuyệt vời có tính cách giáo thuyết.

17939. Chúng tôi sẽ nhắc đến vấn đề này ở phần sau.

18040. “[...] Tất cả những lời khuyên mà mẹ cho các chị em trong quyển sách này chỉ có mục đích: dâng hiến trọn vẹn ta cho Đấng Tạo Hóa, trao cho Người ý muốn của ta [...] (Đường hoàn thiện Ms. Escorial 55, 3).

18141. Đó chính là “kết thúc của cuộc hành trình của ta, [...] uống nước hằng sống tại nguồn” (Đường hoàn thiện Ms. Escorial 55, 3).

18242. Đường hoàn thiện Ms. Escorial 24, 1 và “Nếu ta không hiến thân trọn vẹn cho Chúa, và ta không đặt mình vào trong tay Người để Người chăm sóc tất cả những gì liên quan đến ta, không bao giờ Người để cho ta uống tại nguồn nước này. Điều đó cho thấy đâu là sự chiêm ngắm trọn hảo mà các chị em xin mẹ nói cho các chị em”. (ibid. 55, 3)

18343. Đường hoàn thịên Ms. Escorial 15,2.

18444. M.C II, 29, 8.

18545. “Sự thực hiện những nhân đức” (triệt 11).

18646. St. Thomas d’Aquin, Somme Théologique IIa-IIae q.188 a.5 rép.

18747. x. Emmanuel Renault. Thérèse d’Avila, aux sources d’eau vive, Lecture du Nouveau Testament, Paris, 1978, p. 8.

18848. X. Emmanuel Renault, Ibid. p. 7.

18949. Jesùs Castellano, Espiritualidad Teresiana, in Inroduction a la lectura de santa Teresa, Madrid, 1978, pp.126-127.

19050. Ma all’epoca della “devotio moderna”,la spiritulità trova una forma de preghiera nuova che di sostituisce alla lectio divina” (G.M. Picasso. im La preghiera..., p. 755-769: “L’oraxione mentale diviene un esercizio di pietà indipendente da una lettura spirituale, che non si alimenta piú principalmente nella Biblia, sino a che nasce, nel sec. XX, un “ritorno alla Sacra Scrittura” (P. Visentin, in La preghiera...p. 909-914)”. (Jean Leclrcq, art. “Lectio divina”, dans, Dizione degli istituti di perfezione vol. 5, Rome, 1973ss).

19151. Kiểu nói chúng tôi đã giải thích ở trên.

19252. Thánh Gioan Thánh Giá, Maxime 209 / Dichos 162.

19353. Chúng tôi cũng muốn nhắc đến một chương, thường hay bỏ quên, bàn về vấn đề này – mặc dù cách gián tiếp có hơi khác -: đó là chương 26 của Quyển Thứ Hai Đường Lên Cát Minh.

19454. Louis Guillet, Seigneur augmente en nous la foi, Sainte-Foy (Québec), 1994, pp. 89-154.

19555. Jean Vilnet, Bible et mystique chez saint Jean de la Croix, Paris, 1949.

19656. Jean de Jésus-Marie (Aravalles) ocd, Traité de l’oraison, dịch từ tiếng Tây Ban Nha do một nữ đan sĩ Cát Minh, Marseille, 1939.

19757. Francisco de Osuna, Bernardino de Laredo, Alonso de Madrid, Pierre d’Alcantara, Louis de Brenade, Jean d’Avila, và Nernnabé de Palma là trong số các tác giả được biết tới nhất và phong phú nhất.

19858. Chương 26 trong Đường hoàn thiện, thánh nữ nói về về việc có thể sử dụng một cuốn sách bằng tiếng Castillan. Thánh nữ nói: “ một cuốn sách tốt”, thế thôi. Nhưng cũng chính xác là thánh nữ nói mình thích những lời của Phúc âm hơn: “Đối với mẹ, mẹ luôn yêu mến những lời của Phúc âm, những lời xuất phát từ đôi môi rất thánh của Chúa, và những lời này luôn được mẹ tiếp nhận hơn tất cả những cuốn sách khác viết rất hay” (Đường hoàn thiện Mas Escorial, 21, 4). Thánh nữ không nói gì hơn.

19959. Trong một tài liệu cát minh hậu Công Đồng ta gặp thấy điều này liên quan tới sự liên hệ giữa Lectio divina và Suy nguyện: “Người ta cũng dành một số giờ cho Lectio divina. Tu Luật của ta quả quyết cách sáng suốt rằng có một sự liên hệ chặt chẽ giữa suy ngắm và Luật Chúa và liên lỉ canh thức trong cầu nguyện và Tu Luật mời gọi ta tuân thủ điều tốt lành này cho cuộc sống ta. Do vậy các vị Sáng Lập của ta đã diễn tả qua đặc sủng cuộc sống của các ngài, huấn lệnh này của Tu Luật, bằng cách trân trọng Thánh kinh (Thánh Têrêsa đệ Giêsu Vie 35, 5; C21, 4; Conceptos, prol et c. 1; thánh Gioan Thánh Giá Montée du Carmel (Đường Lên Cát minh) prol.; Vive Flamme, prol.) và coi Thánh Kinh như là tiêu chuẩn tối cao của chân lý cứu độ của mỗi cá nhân (Vie 25, 13). Hơn nữa, thánh Têrêsa còn xác quyết rằng “tất cả những khốn khó của thế gian này đều do không biết rõ ràng những chân lý của Thánh Kinh” (Vie 40, 1). Công Đồng Vaticanô II đặc biệt khuyến khích ta tuân thủ luật sống này: “Mọi người cũng nên nhớ rằng kinh nguyện phải đi đôi với việc đọc Thánh Kinh, để có sự đối thoại giữa Thiên Chúa và con người, vì “ta ngỏ lời với Người khi cầu nguyện, và ta nghe Người nói lúc ta đọc các sâm ngôn thần linh” (DV 25; Ibid. 2,8).

Một cố gắng quí báu đã được cha Sam Anthony Morello ocd thực hiện, trong một bài đăng vào mùa hè 1991, trong tạp chí của Mỹ: Spiritual Life, Lectio divina and the Practice of Teresian Prayer. Cũng thế, cha Filippo Bettati ocd và cha Armando ocd, Lectio divina al Carmelo, Milan, 1999.



20060. về phía ngôn ngữ Pháp, phải thấy được chỗ đứng của những sách Missel, Prions en Église, Magnificat hay Petit Calen-drier liturgique.

20161. Để chính xác hơn, trong một tác phẩm khác chúng tôi sẽ bàn đến vai trò của Kinh Thánh (hay của bài đọc) trong Suy nguyện.

20262. Dùng như một dẫn nhập, ta có thể đọc thánh Augustinô. Prier les Psaumes, Paris, 1982, hoặc Les Psaumes commentés par les Pères. A. Hamman, coll. “Les Pères dans la foi”.. Paris, 1983.

20363. Giáo Lý Công Giáo số 2645-2649.

20464. Hiển nhiên là Lectio divina nuôi dưỡng và soi sáng một cách đặc biệt cách thức cầu nguyện rất đơn giản này là “cầu nguyện tự phát”.

20565. Homélie 89, được trích dẫn trong Catholicisme của Henri de Lubac, Paris, 1947, pp. 377-379.

20666. Thánh Augustinô nói rằng hai đồng tiền đây là hai huấn lệnh: tình yêu đối Chúa và tình đối với tha nhân. Và nhận định này gần gũi với Sévère, vì hai huấn lệnh tóm kết Lề Luật và các ngôn sứ cũng như Phúc âm.


tải về 1.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương