LƯỢc sử giáo hội côNG giáO


Tranh luận tiếp tục Công Đồng Calcêđônia (451)



tải về 0.53 Mb.
trang3/7
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích0.53 Mb.
#6260
1   2   3   4   5   6   7

3. Tranh luận tiếp tục Công Đồng Calcêđônia (451)
Dù đã có công thức hòa giải trên, nhưng các cuộc tranh luận vẫn tiếp tục, và lần này là Eutykê, một đan sĩ ở Constantinople. Eutykê cho rằng trong Đức Kitô, thần tính làm nhân tính tiêu tan. Thân xác Đức Kitô không cùng bản chất với thân xác ta. Đó là thuyết nhất tính. Ông bị kết án và bị vạ tuyệt thông trong một hội nghị do giám mục Constantinople là Flavianô triệu tập. Eutykê kháng cáo lên Giáo Hoàng Lêô (440 - 461) và Dioscorê, giám mục Alexandrie.
Hoàng Đế Théodosiô II, bạn của Eutykê triệu tập Công Đồng. Hầu như ông chỉ mời những người theo phe Eutykê và giám mục Rôma. Đức Lêô giao cho các đặc sứ của Người một bản văn trình bày mầu nhiệm nhập thể. Theo Người, Đức Kitô có một thân xác đích thực, cùng bản tính với thân xác của Mẹ Người. Cả hai bản tính được bảo toàn, kết hợp với nhau trong một ngôi vị duy nhất. Trong tiếng Latin, từ lâu, người ta đã làm sáng tỏ sự phân biệt giữa bản tính và ngôi vị, còn trong tiếp Hi Lạp thì không như vậy. Công Đồng họp tại Êphêsô năm 449 do Dioscorê chủ động : Flavianô và những vị khác phân biệt hai bản tính bị truất phế. Đức Lêô gọi đây là “Mẻ cướp ở Êphêsô”.
Đường lối chính trị và tôn giáo mới của Marcianô đã khiến ông triệu tập một Công Đồng mới ở Calcêđônia. Đặc sứ của Giáo Hoàng chủ tọa Công Đồng, Flavianô được phục hồi danh dự. Kinh Tin Kính Nicée - Constantinople được tuyên đọc. Công Đồng công bố một công thức đức tin “Đức Kitô là một ngôi vị trong hai bản tính”. Kể từ nay, công thức này là nền tảng của Kitô Học.


Chương VI

CÁC GIÁO PHỤ - NHỮNG VĂN SĨ KITÔ GIÁO

CỦA NHỮNG THẾ KỈ ĐẦU

I. GIÁO PHỤ LÀ NHỮNG AI ?
1. Những người cha trong đức tin
Từ "Phụ” (Cha) hướng chúng ta về cội nguồn, về tổ tiên. Chúng ta nói về người cha trong đức tin. Thời Thượng cổ, người thầy được gọi là cha, tức người thông truyền sự khôn ngoan. Hạn từ được dùng rộng rãi trong Giáo Hội. Trong những thế kỉ đầu nhiệm vụ giảng dạy thuộc về Giám mục nên các ngài được gọi là cha, nhiều người là nhà giáo huấn hay giảng thuyết dù không phải là Giám mục cũng được mang danh hiệu đó. Hạn từ này chứa đựng sự an toàn, tin cậy. Cha là người mang truyền thống.
2. Những người gần với nguồn mạch
Những bản văn của các Giáo Phụ dẫn chúng ta đến nguồn mạch đức tin, mà xét theo thời gian các ngài gần gũi hơn chúng ta. Giáo Phụ ở vào số những độc giả đầu tiên của Tân Ước. Các ngài ban Tân Ước cho các tín hữu làm lương thực trong một ngôn ngữ chưa bị hệ thống hóa. Các ngài đề ra một cách đọc Cựu Ước dưới ánh sáng Kitô học, có Chúa Thánh Thần linh hứng. Vì vậy, trở về với những bản văn Giáo Phụ giúp ta hiểu hơn sứ điệp Kitô giáo khi chưa bị con người tô vẽ. Truyền thống thường coi thời Giáo Phụ bắt đầu với những tác phẩm tiếp sau Tân Ước và chấm dứt ở thế kỉ thứ VII.
3. Những chứng nhân của cuộc gặp gỡ giữa Phúc Âm và các văn hóa
Các Giáo Phụ không chỉ dừng lại ở việc suy niệm Kinh Thánh, hoặc đưa ra những huấn dụ luân lí sử dụng trong nội bộ cộng đồng. Hoàn cảnh buộc các ngài bảo vệ ki-tô giáo đang bị tấn công nhân danh lí trí. Các ngài đã loan báo Phúc Âm bằng những phạm trù văn hóa Hy-La để người nghe hay đọc có thể hiểu được. Các ngài tìm những điểm hội tụ giữa sự khôn ngoan Hy-lạp và sứ điệp Kitô giáo. Dần dần các Giáo Phụ biến tất cả văn hóa cổ thành của mình bằng cách Kitô hóa nó.
4. Những người bảo đảm cho sự chính thống và sự thánh thiện của Giáo Hội
Các Giáo Phụ là những chứng nhân ưu tuyển của truyền thống Giáo Hội, tức của Phúc Âm được sống trong những thế kỉ đầu. Vì thế, nếu như truyền thống Giáo Hội đòi các ngài phải có giáo lí chính thống thì cũng đòi các ngài phải có sự thánh thiện. Giáo Phụ là người sống điều mình dạy.
II. THỜI HOÀNG KIM CỦA CÁC GIÁO PHỤ
Nhờ Giáo Hội được bình an và các Công Đồng lớn được triệu tập mà văn chương Kitô giáo có điều kiện triển nở. Thời kì từ Công Đồng Nicêa (325) tới Công Đồng Chalcédônia (451) được coi là thời vàng son. Chúng ta ghi nhận một số tên tuổi.

1. Các đại Giáo Phụ Hy lạp
Các văn sĩ Kitô giáo lớn nhất thế kỉ IV đều thuộc văn hóa Hy lạp.
- Athanasiô (295-373) trưởng thành cùng thời với lạc giáo Ariô. Năm 328 làm Giám mục Alexandria. Ngài bảo vệ đức tin của Nicêa, chống lại lạc giáo Ariô. Bị trục xuất khỏi Alexandria năm lần. Tác phẩm của Ngài chủ yếu bảo vệ trình bày thần học về Ngôi Lời Nhập Thể đồng hàng với Chúa Cha.
- Basiliô (330-379) sống đời đan tu trước khi làm Giám Mục tại Césaréa. Ba mối bận tâm chính : tổ chức bác ái ; tổ chức một đời sống đan tu cộng đồng ; quan tâm đến sự chính thống và hiệp nhất Giáo Hội.
- Grégoriô thành Nazianzé (330-390) bạn thân của Basiliô. Một thời gian ngắn làm Giám Mục Constantinopoli. Để lại những diễn từ thần học, những bài tán dương, thi tập và nhiều thư từ.
- Gioan Kim Khẩu (345-407) sinh tại Antiokia, đan sĩ rồi làm linh mục. Là nhà giảng thuyết lừng danh, được phong làm Giám Mục Constantinopoli. Ngài muốn canh tân phong hóa của hàng giáo sĩ và cận thần trong triều. Bị hoàng hậu thù ghét và Giám Mục Alexandrie hãm hại. Bị bách hại và lưu đày lần đầu năm 403, lần hai 404. Gioan tiên vàn là một vị chủ chăn, diễn giải Kinh Thánh trong các bài giảng thuyết chuẩn bị cho người ta chịu phép Rửa và khuyên bảo các tín hữu trong các bậc sống khác nhau của họ.
2. Các đại Giáo Phụ La tinh
- Ambrosio (340-397) tổng trấn Milano. Còn đang là một dự tòng ngài đã được một trẻ em la lên : “Ambrosio là Giám Mục”. Trong vài ngày người lãnh bí tích Rửa tội rồi chức Giám Mục. Phân phát của cải cho người nghèo và yêu cầu tín hữu thực thi công bình xã hội. Ngài chu toàn mọi chức năng của Giám Mục.
- Giéronimo (347-420) quê ở Đanmatia (Nam Tư). Sống đời sinh viên phóng đãng ở Rôma. Sống thử đời đan tu ở Đông phương, chịu chức linh mục miễn cưỡng. Đến Rôma lần hai giúp Đức Giáo Hoàng và các nhóm phụ nữ đạo đức. Rồi đến Belem. Ngài là một người hay thay đổi, khó tính, lời lẽ thô bạo, có nhiều kẻ thù. Hoạt động của ngài chủ yếu dành cho Thánh Kinh. Ngài duyệt lại bản văn Kinh Thánh La-ngữ. Thực hiện một bản dịch mới về Cựu Ước dựa trên bản gốc Hipri và Aram. Bản Kinh Thánh mới này được gọi là Bản Phổ thông (Vulgata). Đây là bản Kinh Thánh chính thức trong Giáo Hội. Giéronimo còn để lại những bản diễn giải Thánh Kinh, những tác phẩm bút chiến và những lá thư đáng lưu ý.
- Augustino (354-430) là Giáo Phụ có ảnh hưởng sâu xa nhất trên tư tưởng tôn giáo Tây phương. Sinh ở Numiđia (Angiêri). Sinh viên rồi giáo sư ở Carthgo, tới Rôma và Milano. Một thời gian dài cố tìm chân lí qua triết lí và chủ thuyết Mani. Quan hệ với một người nữ và có một con trai. Cuối cùng gặp được ánh sáng chân lí nhờ ảnh hưởng của Giám Mục Ambrosio. Augustino chọn đời đan sĩ, nhưng rồi làm linh mục rồi Giám Mục (395). Giám Mục Augustino phải đốïi diện với mục vụ : giảng dạy, gặp gỡ đồng nghiệp, tham dự các công đồng địa phương. Có những cuộc xung đột với phái Đônatô một Giáo Hội đối địch, tranh luận với Pélagio về ân sủng.
Augustino đã để lại cho chúng ta nhiều tác phảm nhất với những bài giảng thuyết và huấn giáo, những bài diễn giải uyên thâm, về Thánh Kinh, những khảo luận triết học và thần học mà một số là nhắm chống lại những sai lầm. Nổi tiếng nhất là cuốn “Tự thú”, một lời nguyện dài vì được Chúa hoán cải, cuốn “Thành trì của Thiên Chúa”, một suy tư về lịch sử và khảo luận về Chúa Ba Ngôi. Tất cả các thần học gia sau này cho tới Luther, Calvin, và Giansénio đều nại tới Augustino.

Chương VII



GIÁO HỘI THỜI THƯỢNG TRUNG CỔ

(Thế kỉ V-XI)



TAN RÃ VÀ TÁI THIẾT THẾ GIỚI KITÔ GIÁO

Mười thế kỉ ở giữa thời Thượng cổ và thời phục hưng (thế kỉ XVI) được gọi là thời Trung cổ. Các nhà nhân bản thế kỉ XVI muốn ám chỉ với một chút miệt thị, thời kì trung gian giữa họ và nền văn minh cổ đại mà họ muốn phục hồi. Biết bao biến cố đã diễn ra trong một nghìn năm. Thời Trung cổ gợi lên cho ta các Đại Giáo đường, thập tự chinh... Nói cách khác cả một Kitô giới. Nhưng để đạt tới đó chúng ta phải rảo qua sáu thế kỉ đen tối, trong đó văn minh Âu châu dựa trên Kitô giáo hình thành rất vất vả.


I. CÁC CUỘC XÂM LĂNG VÀ ĐỊA LÍ TÔN GIÁO MỚI
1. Cuộc xâm lăng của dân Man-di
Những năm đầu thế kỉ V, nhiều sắc dân Germani bị dân Hung nô áp đảo đã vượt sông Đanubê và sông Rhin tràn vào đế quốc Rôma. Năm 410, thành Rôma bị dân Wisigothi của Alarico chiếm đóng và tàn phá. Năm 455 thành Rôma lại bị quân Valđali của Gensenico cướp phá. Năm 476 hoàng đế Rôma cuốïi cùng là Rômalo Augusto bị một người man-di là Odoacro hạ bệ. Thế giới cổ đại Tây phương không còn nữa, phân thành nhiều vương quốc man-di.
Nhiều kitô hữu tin là ngày tận thế đã tới, dân ngoại coi đó như là một hình phạt của thần linh và tội người ta đã bỏ đạo cổ truyền. Các tín hữu tự hỏi : tại sao các Tông đồ và các thánh tử đạo không bảo vệ thành, khi thân xác các ngài đang nằm ở Rôma ? Trong tình thế bi đát này, thường chỉ có Giáo Hội là định chế có tổ chức tồn tại. Nhiều Giám Mục nắm giữ công việc hành chính đang tan rã của đế quốc. Tình thế buộc phải thỏa hiệp với người man-di. Hơn nữa, có những người man-di rất thán phục thế giới Rôma. Việc Clovis, vua dân Franci theo đạo đem lại nhiều hậu quả quan trọng. Được sự ủng hộ của người gốc Rôma ở Gallia, Clovis thắng các nhóm Germani theo lạc giáo Ario, người Công Giáo có Clovis là vua của mình.
2. Cuộc xâm lược của Hồi giáo và người Ảrập
Trước các đế quốc đã suy sụp là Rôma và Ba-tư, người Ảrập tạo thành một lực lượng quân sự mới. Họ tung ra các cuộc tấn công như vũ bão, hăng say đón nhậûn cái chết trong “nỗ lực trên con đường của Thiên Chúa”. Những kẻ xâm lược có thêm lợi thế nhờ thái độ thụ động của dân vùng Đông phương là Syria và Aicập là những vùng thường xuyên tranh chấp với Constantinopoli về các vấn đề tín lí và chủng tộc, nên đôi khi còn có kẻ xâm lược là người giải phóng. Nhiều vùng ở Đông phương và Ba Tư bị chiếm đóng. Cuối thế kỉ VII đến lượt Bắc phi, dù nơi đây có sự chống cự mãnh liệt hơn. Năm 711 người Aírập và Berberi theo đạo Hồi đánh Tây Ban Nha, tiến tới tận Poitiers của Gallia (732). Tuy không vào được trung tâm Âu châu nhưng người Hồi giáo đã kiểm soát được cả Địa Trung Hải.
3. Một địa lý mới về tôn giáo
Trọng tâm của Giáo Hội chuyển rời : các Giáo Hội Kitô cổ kính nhất ở Đông Phương và Bắc Phi rơi vào ách thống trị của Hồi giáo. Ở Bắc Phi, các cộng đồng Kitô giáo tàn lụi dần. Những kitô hữu cuối cùng biến mất vào đầu thế kỷ XII. Như vậy trọng tâm Giáo Hội không là Địa Trung Hải với trung tâm Rôma, nhưng đã dời lên phía Bắc. Sự hiện diện của người Ảrập trên biển này còn làm cho liên lạc giữa Tây và Đông thêm khó khăn. Hơn nữa khu vực Tây và Đông đã bị người Slova tràn chiếm vào cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII. Những nét chính của một địa lý kitô giáo mới đã được ấn định.
Đế quốc Byzantino : đế quốc Rôma đông phương bị mất Syria, Palestin và Ai cập, được gọi là đế quốc Byzantino.
Tây Phương man-di : Bên tây phương của các vương quốc man-di, các thế kỷ sau những đợt xâm lăng cho người ta thấy một sự suy tàn đồng bộ.
II. TÁI THIẾT THẾ GIỚI KITÔ GIÁO LẦN I
1. Phục hưng dưới thời Carôlô
Các vua dòng họ Carôlô coi mình có bổn phần tái lập trật tự trong Giáo Hội, và gây dựng một chút uy tín cho Giáo Hội, do đó, có thể coi đây là thời phục hưng dưới triều đại dòng họ Carôlô.
2. Những thăng trầm của đế quốc Byzantino
Truyền thống Byzantino coi các ảnh tượng đóng một vai trò sư phạm. Chúng là những “Bài giảng thầm lặng”, là “sách dành cho người mù chữ”.
Cuối thế kỷ IX khi Giáo Hội Tây phương lại bị sa sút thì đế quốc Byzantinô bước vào một thời kỳ rực rỡ. Ngoài các thành công về quân sự và các công trình văn chương, đời sống đan viện phát triển mạnh mẽ.
3. Công cuộc truyền giáo
Ở Tây Phương, các cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông và Tây, không ngăn cản đà tiến của việc truyền giáo. Tiền bán thế kỷ VIII, nhà truyền giáo nổi tiếng là Bonifaciô (680 - 754) tổ chức lại Giáo Hội ở Gallia, lập nhiều tòa Giám Mục và tu viện trước khi tử đạo ở Hòa lan.
- Nơi dân Slova : Hylạp và Latinh tranh nhau truyền giáo cho người Slova ở đồng bằng sông Danube.
III. TÌNH HÌNH ĐEN TỐI CỦA GIÁO HỘI
1. Thời kỳ đen tối của Tây phương cuối thế kỷ IX-X
Sự thống nhất của đế quốc Franci không còn nữa. Hòa ước 843 chia vương quốc thành ba phần : vương quốc Pháp, vương quốc Đức và một vương quốc trải dài từ Hắc hải tới Nam Ý. Vương quốc này sẽ sớm biến thành vô số các vương quốc. Ngoài cuộc nội chiến, các đợt xâm lăng mới làm tan rã hoàn toàn sự ổn định của Tây phương.
2. Giáo Hội trong chế độ phong kiến
Người nắm giữ một chức vụ trong Giáo Hội có một phần đất, một bổng lộc để sống. Giám Mục là lãnh chúa và chư hầu như các giáo dân.
3. Đoạn giao giữa Giáo Hội Latinh và Hylạp : cuộc li khai 1054
Từ thế kỷ V, hố ngăn cách Giáo Hội Latinh và Giáo Hội Hy lạp không ngừng tăng lên với các lý do chính trị, văn hóa và tín lý.
Sự dị biệt văn hóa còn trầm trọng hơn. Hai Giáo Hội không còn hiểu nhau nữa. Đông phương không biết tiếng Latinh và Tây phương không biết tiếng Hylạp. Người Latinh và Hy lạp khinh bỉ nhau. Người Hy lạp cho người Latinh là người sống trong vùng tăm tối, những tên quê mùa, bọn man-di kém văn hóa và háu ăn. Người Latinh lại coi người Hy lạp là bọn thoái hóa, những tên chẻ sợi tóc làm tư.
Hai Giáo Hội còn đối nghịch nhau về các khác biệt về phụng vụ và giáo lý. Với người Hy lạp, nghi thức là đức tin được diễn tả, còn Tây phương phân biệt dễ dàng hơn giáo lý với nghi thức.
Đặc sứ của Giáo Hoàng là hồng y Humberto tha thiết canh tân nhưng ít thông thạo văn hóa Hy lạp và hoàn toàn thiếu mềm dẻo. Còn thượng phụ Constantinopoli là Cerulariô cũng là một con người cứng nhắc không kém : không quan hệ với Rôma càng tốt. Vì vậy, ông là lãnh tụ duy nhất của Giáo Hội Hy lạp. Ở Constantinôpôli,Humberto ra vạ tuyệt thông cho Cerulariô, Cerulariô cũng ra vạ tuyệt thông cho Humberto.

Chương VIII

KITÔ GIỚI - NHỮNG NỀN TẢNG CỦA MỘT XÃ HỘI

(Cuối thế kỷ XI-XIII)

Hạn từ “Kitô giới” chỉ một hình thức quan hệ giữa Giáo Hội và xã hội thời Trung cổ. Một trong những nét nổi bật nhất của Kitô giới là vị trí nổi bật nhất của ngôi Giáo Hoàng. Vị trí này đạt được bằng các cuộc đấu tranh thường là dữ dội với hoàng đế Đức. Tuy nhiên, thế quân bình lúc nào cũng mong manh. Nếu như nửa đầu thế kỷ XIII, uy quyền Giáo Hoàng đạt tới đỉnh cao thì những năm cuối thế kỷ, người ta lại thấy có sự chống đối nghiêm trọng đối với những tham vọng của Rôma, và những rạn nứt đầu tiên của Kitô giới.


I. CÁC NỀN TẢNG CỦA KITÔ GIỚI THỜI TRUNG CỔ
1. Khẳng định quyền Giáo Hoàng
Năm 1059, tòa thánh xác định luật bầu giáo hoàng. Giáo Hoàng sẽ do các Hồng Y bầu, các giáo sĩ khác và dân chúng chỉ còn hoan hô vị đắc cử. Do việc này mà các hồng y đóng vai trò đặc biệt trong Giáo Hội. Đây là những thành viên quan trọng nhất của hàng giáo sĩ Rôma. Hoàng đế khó lòng chấp nhận luật trên, vì ông mất quyền chỉ định Giáo Hoàng. Trong những lúc khủng hoảng sau này, ông sẽ chỉ định Giáo Hoàng của mình đối nghịch với các vị do Hồng Y đoàn bầu chọn.
Giáo Hoàng Grêgôriô VII (1073-1085) tiến hành cuộc cải tổ luân lý, nhằm vào tệ nạn mại thánh, vào các linh mục còn sống tư hôn. Ngài cho rằng mọi tệ hại đều xuất phát từ việc phong ban của thế quyền, và muốn chấm dứt điều này. Thế nên, ngài cấm các Giám Mục nhận trách vụ từ tay một người đời, cấm các Tổng Giám Mục tấn phong những ai đã nhận sự phong ban này. Ngài muốn chức Giám Mục không lệ thuộc vào thế quyền.
Hoàng đế nước Đức là Henri IV, chống lại quyết định của Giáo Hoàng vì làm ông mất một phần lớn quyền bính trong một nước mà các Giám Mục thuộc vào số các lãnh chúa lớn nhất. Hoàng đế công bố truất phế Giáo Hoàng, Giáo Hoàng cũng hạ bệ hoàng đế và tháo lời thề tuân phục cho các thần dân. Nhưng cuối cùng Grêgôriô lại chết nơi lưu đày năm 1085.
Các Giáo Hoàng sau đức Grêgôriô củng cố sự cải tổ này, từ nay can thiệp như những thủ lĩnh trong Kitô giới, khởi xướng việc triệu tập công đồng bên Tây Phương, giáo luật được áp dụng khắp nơi trong việc cai trị Giáo Hội Rôma. Quyền Giáo Hoàng lên tới tột đỉnh thời Giáo Hoàng Innocentê III (1198-1216).
2. Giáo Hội đan viện
Các đan sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc cải tổ và trong tất cả đời sống Giáo Hội thời trung cổ. Trong một thời gian dài, đan sĩ tượng trưng cho người kitô hữu lý tưởng.
Được thiết lập năm 910, tu viện Cluny đã phục hồi những qui tắc lớn của qui luật Biển Đức. Thế kỷ XI-XII, Cluny đứng đầu một dòng tu có mặt khắp châu âu. Vào thời cực thịnh “Nhà nước Cluny” có đến 50 ngàn tu sĩ. Dòng tu đề cao vai trò của Giáo Hoàng, cung cấp nhiều Giám Mục và Giáo Hoàng. Tu viện thực hành rộng rãi bác ái đối với người nghèo, phổ biến nghệ thuật Rôman.
Cuối thế kỷ XI, một phong trào ẩn tu phát triển mạnh, vì muốn sống sám hối và nghèo khó, nhiều người đi vào rừng sâu, hải đảo... để đền tội. Nổi bật nhất là Phêrô, nhà ẩn sĩ. Thời Trung cổ còn có lối tu kỳ lạ là biệt tu, sống giam mình suốt quãng đời còn lại trong một căn phòng nhỏ xây dựa vào nhà thờ.
Năm 1084, khi thành lập dòng Chartreuse, thánh Brunô muốn kết hợp đời sống ẩn tu và đời sống cộng đồng, ngài dành ưu tiên cho sự cô tịnh cũng như cho sự đơn sơ khi tiếp xúc với Kinh Thánh.
Tu viện Sitô lập năm 1098 muốn tìm lại sự nhiệm nhặt của tinh thần Biển Đức mà Cluny dường như lãng quên. Nghèo khó trong cách ăn, mặc, ở, phụng vụ đơn giản, sống cô tịnh giữa rừng.
Thánh Bênađô (1090-1153) lập tu viện Clairvaux năm 1115, làm cho dòng Sitô phát triển đáng kể. Riêng mình ngài lập 66 tu viện. Giữa thế kỷ XII, Bênađô là nhân vật số một của Giáo Hội.
II. CÁC CÔNG TRÌNH CỦA ĐỨC TIN
1. Tôn giáo đan viện và tôn giáo bình dân
Tôn giáo thời Trung cổ vay mượn nhiều nét của xã hội phong kiếïn và nông nghiệp. Thiên Chúa ở trên chóp đỉnh của phẩm trật phong kiến. Ngài là Chúa tối cao, mọi lãnh chúa trần gian chỉ là chư hầu và nông nô của Ngài.
- Vào thời mà chỉ các giáo sĩ biết dùng chữ viết để tự diễn tả mình, người Kitô hữu lí tưởng chính là đan sĩ. Niên lịch Chư Thánh hầu như chỉ chấp nhận các Giám Mục, đan sĩ và nữ tu. Bênađô so sánh thế gian như một biển cả phải vượt qua để đạt tới phần rỗi. Các giáo sĩ sử dụng con thuyền thánh Phêrô, còn người có gia đình phải bơi và nhiều kẻ chết đuối. Vì không được làm đan sĩ, cuối đời, nhiều giáo dân xin được chôn cất trong bộ áo dòng.
- Tuy nhiên, nếu hình dung đời sống đạo của dân chúng qua các thí dụ điển hình này, thì sẽ hoàn toàn thiếu chính xác. Có một khoảng cách lớn lao giữa các tổng hợp đẹp đẽ của các nhà thần học, với tôn giáo của người dân quê thô lỗ, mù chữ, phải đấïu tranh với thời tiếït bất thường và ôn dịch để sinh tồn.
2. Sự tiến triển của bí tích và phục vụ
Thế kỉ XII-XIII, Giáo Hội ấn định giáo lí về bảy bí tích, cố gắng tái lập một kỉ luật chung.
- Khắp nơi trẻ em được Rửa tội một vài ngày sau khi sinh, thay việc dìm bằng cách đổ nước trên đầu.

- Không cho trẻ sơ sinh rước lễ dưới hình rượu như xưa.

- Công Đồng Latêranô IV (1215) qui định phải xưng tội rước lễ ít nhất một lần trong năm vào mùa Phục sinh, trong giáo xứ của mình.

- Bí tích sám hối, từ nay gọi là xưng tội.

- Thế kỉ XIII Hôn nhân được xác định là một trong bảy bí tích và chỉ thuộc quyền Giáo Hội. Giáo Hội xác định các ngăn trở và các điều kiện để hôn phối thành sự.
Thời này chưa có giáo lí đúng nghĩa, đức tin thấu nhiễm nơi trẻ em qua cộng đồng. Con số 7 được dùng như thuật nhớ để dạy đạo.
3. Đời sống tôn giáo và trần tục
Đặc điểm của thời Trung cổ là sự có mặt khắp nơi của một tôn giáo thuộc về đời sống công cộng. Đó là sự pha trộn trần tục và thiêng liêng : tôn giáo không biết đến những ô ngăn như ngày nay.
Thánh lễ Chủ nhật là luật buộc trên nguyên tắc, nhưng cách tham dự không khá lắm. Có sự pha trộn giữa những nghi thức tôn giáo đích danh với những phong tục có nguồn gốc và ý nghĩa mơ hồ. Khách hành hương và lính thập tự chinh muốn thấy và chạm đến những nơi Đức Kitô và các thánh đã sống. Ước muốn này giúp hiểu được sự phát triển kì lạ của việc tôn kính hài cốt các thánh.
III. VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT
1. Một văn hóa xây dựng trên đức tin
Như đã thấy trong thời Thượng - Trung cổ hoạt động trí thức là một nét chuyên biệt của đan viện. Việc phát triển Kitô giới vào các thế kỉ VII-XIII làm gia tăng những nhu cầu trí thức. Cuộc cải tổ của Đức Grêgôriô khuyến khích các môn luật. Trong truyền thống đan viện, công tác trí thức chủ yếu là diễn giải Thánh Kinh.
Trong bộ tổng luận thần học của thánh Thomas, ngài thực hiện một tổng hợp hài hòa giữa tri thức cổ đại và mạc khải Kitô giáo. Nghiên cứu suy lí lệ thuộc vào cứu cánh của con người. Cho nên, triết học là nữ tì của thần học.
2. Nghệ thuật dân gian Kitô giáo
Đức tin của người Kitô hữu còn được diễn tả qua kịch tuồng tôn giáo bình dân. Các vở kịch phụng vụ trình diễn Cựu Ước và Tân Ước ngay trong nhà thờ hoặc ở tiền đường.
Các kịch phép lạ minh họa sự can thiệp của Đức Trinh Nữ và các thánh. Sau này, các kịch mầu nhiệm trình diễn dài và phức tạp, các trích đoạn Thánh Kinh, thí dụ tuồng thương khó do các nhóm trình diễîn.
Nghệ thuật Rôman có nguồn gốc từ các đan viện, phát xuất từ Địa Trung Hải, phát triển vào cuối thế kỉ XI có đặc điểm là các vòm bán nguyệt, các chạm trổ ở trần và đầu cột. Tiếp đến là nghệ thuật Gothique thay thế nghệ thuật Rôman. Đây là nghệ thuật của thành thị chứng tỏ sự quân bình của thế kỉ XIII.
Kính màu và û thuật làm tượng phát triển, điêu khắc, kính màu và bích họa tạo nên một cuốn Thánh Kinh và một pho giáo lí bằng hình ảnh.Các nghệ nhân ghi trên đá những lo âu và hi vọng của người tín hữu : mong đợi thiên đàng, kinh sợ hỏa ngục.


Chương IX

KITÔ GIỚI : BÀNH TRƯỚNG

BỊ PHẢN KHÁNG VÀ TỰ VỆ

(Thế kỉ XI-XIII)



Là một thực tại vừa trần thế vừa thiêng liêng một xã hội muốn trở thành một toàn thể đồng nhất đặt nền tảng trên Kitô giáo, Kitô giới thâïy mình cần phải chiến đấu chống lại kẻ thù của đức tin.
Bên ngoài, có Hồi giáo, bên trong có lạc giáo. Thế là Kitô giới trang bị vũ khí đi thập tự chinh, tổ chức giáo tòa để trấn áp. Nhưng mọi sự không vì thế mà được giải quyết. Không thể áp đặt Tin Mừng bằng vũ lực. Từ sự nghi ngờ về thập tự chinh nảy sinh ý muốïn truyền giáo. Từ sự phản kháng có màu sắc Tin Mừng, trước một số cách hành xử của Giáo Hội, thể chế nảy sinh những hình thức tu trì mới.
I. KITÔ GIỚI BÀNH TRƯỚNG : THẬP TỰ CHINH VÀ TRUYỀN GIÁO
1. Kitô giới vũ trang
Ý thức về chính mình và sự duy nhất của mình bằng cách qui tụ lại và vũ trang chống kẻ thù chung là Hồi giáo đang chiếm đóng Thánh Địa và đe dọa các Kitô hữu Đông Phương. Thập tự chinh bắt nguồn từ việc hành hương Giêrusalem. Hành hương trước là một nghi thức thanh tẩy và đền tội, họ có thể chết nơi Đức Kitô, chết để cùng sống lại với Ngài lúc phán xét. Nhưng các cuộc hành hương đó râït khó khăn do một lực lượng Hồi giáo đe dọa. Họ chiếm Giêrusalem (1099) với những cuộc tàn sát khủng khiếp. Nhưng đến 1187 vua Hồi giáo đã chiếm lại. Năm 1291, không còn một bóng dáng thập tự quân nào ở Palestin. Từ 1099 đến 1270 có tất thảy tám cuộc thập tự chinh, nhưng tất cả đều kết thúc trong thất bại. Tuy nhiên, phần nào góp phần gắn bó Kitô giáo Tây phương, củng cố quyền lực Giáo Hoàng, nhưng mặt khác lại đào sâu hố chia cắt, chia rẽ giữa tín hữu Đông và Tây.
2. Công cuộc truyền giáo
Thập tự chinh thất bại khiến người ta thêm tỉnh ngộ, thay vì tận diệt Hồi giáo, tốt hơn là thuyết phục họ. Lần thập tự chinh (1218) thánh Phanxicô Assisi đã gặp vua Hồi giáo Aicập, cũng như những người khác cho rằng cảm hóa là công trình của tình yêu, được thực hiện bằng sự hiểu biết, và như thế, dưới sự hướng dẫn của các tu sĩ Phan Sinh và Đa Minh, họ tự tổ chức để thực hiện những chuyến viễn hành này, và tự gọi là những “Anh em viễn hành”. Họ có mặt ở Trung Á, vịnh Ba tư, Ấn Độ, cho đến tận Trung Quốc.
II. KITÔ GIỚI BỊ PHẢN KHÁNG
1. Những cuộc phản kháng
Một số trong Giáo Hội dựa vào Tin Mừng chống lại một Giáo Hội quá giàu có, họ phản ứng trước những linh mục tham tiền hay sống tư hôn. Họ muốn Giáo Hội trung thành với tinh thần nghèo khó của Đức Kitô trong Phúc Âm. Trong số này nổi bật nhất là phong trào “Những người nghèo thành Lyon” do Valdo phát động khoảng năm 1173. Nhưng phong trào này bị trục xuất ra khỏi Giáo Hội. Các phong trào, các giáo thuyết khác lại xuất hiện, họ muốn trở về với Tin Mừng và Giáo Hội thuở đầu, bởi trước sự buông thả của hàng giáo sĩ, nên nhiều người theo giáo phái để phản đối Giáo Hội.


tải về 0.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương