LƯỢc sử giáo hội côNG giáO


Canh tân Công Giáo và chống cải cách sau Công Đồng



tải về 0.53 Mb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu26.07.2016
Kích0.53 Mb.
#6260
1   2   3   4   5   6   7

3. Canh tân Công Giáo và chống cải cách sau Công Đồng
Trong thời kỳ này có hai nhân vật góp phần rất lớn vào việc canh tân theo ý hướng Công Đồng : Phêrô Canisio và Carolo Borromeo. Canisio (1521-1597) là một tu sĩ dòng Tên, người Hòa Lan, đi khắp Âu châu, đặc biệt trong nước Đức để thực hiện canh tân Công Giáo. Còn Borromeo (1538-1584) là Giám mục Milano. Ngài sống khắc khổ, triệu tập Công Đồng giáo tỉnh, lập trường học và chủng viện. Các văn thư của Ngài phổ biến trong khắp Âu châu Công Giáo.
Trong thời kỳ này, linh đạo và dòng tu phát triển. Téréxa Avila (1515-1582) lập tu viện Cát minh canh tân đầu tiên ở Avila (1562), và đi khắp Tây Ban Nha để cải tổ tu viện Cát minh nam nữ khác, với sự trợ giúp đắc lực của Gioan thánh giá (1542-1591).
Ở Ý, Philiphe Neri (1515-1585) qui tụ giáo dân và linh mục để cầu cầu nguyện, ca hát, diễn giảng Thánh Kinh, học lịch sử Giáo Hội, phục vụ bệnh nhân... Đó là tu hội Diễn giảng.
Khắp nơi các dòng tu phát triển mạnh mẽ. Dòng Tên đạt tới 10 ngàn tu sĩ năm 1600, và 15 ngàn năm 1650. Dòng Capucin là 20 ngàn đầu thế kỷ XVII. Nói chung, sau Công Đồng Trento, Giáo Hội Công Giáo được ổn định, được tổ chức qui củ, tập trung quanh vị thủ lãnh là Giáo Hoàng.
II. SỰ TRIỂN NỞ TÔN GIÁO Ở THẾ KỶ XVII
1. Tôn giáo và chính trị
Các vua Công Giáo cũng như Thệ phản đều muốn coi mình là chủ của mọi định chế, kể cả Giáo Hội. Tôn giáo phải phục vụ lợi ích của họ. Họ không nhượng bộ dù phải chấp nhận những nghịch lý : ví dụ : nước Pháp liên minh với các ông hoàng Thệ phản và cả Thổ Nhĩ Kỳ, khi chống lại hoàng đế Đức và vua Tây Ban Nha là những người bảo vệ Công Giáo.

2. Những Giám mục và linh mục mới
- Thánh Phanxico Sale (1567-1622), Giám mục Genève và Annécy. Đặc điểm của ngài là lạc quan, giảng thuyết đơn sơ và dựa vào Phúc Âm. Hai tác phẩm của ngài là : "dẫn vào đời sống đạo đức" (1608) và "khảo luận về tình yêu Thiên Chúa" (1616) rất có ảnh hưởng về linh đạo giáo dân, tu sĩ, linh mục.
- Trường phái linh đạo Pháp : Phêrô de Brulle (1575-1629), du nhập dòng Cát minh canh tân vào nước Pháp, lập hội các linh mục tức hội Diễn giảng (1611), để tôn kính chức linh mục của Chúa Giêsu và phục hưng bậc sống của các linh mục. Tất cả lo truyền bá Phúc Âm trong dân chúng và quan tâm tới việc đào tạo các linh mục. Gioan Eudes (1601-1680), lập hội dòng và phát triển việc tôn sùng Trái Tim Chúa Giêsu. Gioan Giacobe Olier (1608-1657) lập hội linh mục Xuân bích, nhằm đào tạo hàng giáo sĩ. Vincente Phaolo (1581-1660), lập hội dòng truyền giáo (Lazaristes), nhắm tới việc rao giảng Tin Mừng cho dân quê. Ngài cũng lập hội Nữ tử baõc ái (1633), phục vụ người nghèo.
Thời ấy, Giáo Hội chưa đặt ra một điều kiện nào để làm linh mục. Những chủng viện đích danh chỉ xuất hiện vào giữa thế kỷ và phải cuối thế kỷ mới được thiết lập trong mỗi giáo phận. Các Giám mục giao trách nhiệm điều hành chủng viện cho các linh mục thuộc hội Diễn giảng, Xuân bích... Thời gian ở chủng viện thay đổi từ vài tháng tới một năm (cuối thế kỷ XVII) rồi hai năm (thế kỷ XVIII).
3. Sự biến đổi trong đời sống dân Chúa
Cuộc cải cách của Thệ phản cũng như cuộc canh tân của Công Đồng Trento là khởi điểm của một cuộc Phúc Âm hóa mọi tín hữu theo chiều sâu.
Trong các giáo xứ, cha xứ cố làm cho giáo dân thực hành đều đặn một số việc : cho Rửa tội 3 ngày sau khi sinh, Thêm sức khi Giám mục đến, rước lễ mùa Phục sinh. Việc dự lễ Chúa nhật cũng nhiệm nhặt hơn. Biểu lộ lòng tôn sùng Thánh Thể bằng việc rước lễ, đặc biệt là kiệu Thánh Thể trong ngày lễ Thánh Thể. Cha xứ củng cố đức tin cho giáo dân bằng việc dạy giáo lý. Cũng có nhiều nhà hảo tâm mở trường học miễn phí trong các giáo xứ.
III. NHỮNG TRANH CHẤP VÀ KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ
Công Đồng Trento đã không giải quyết mọi vấn đề thần học do cuộc cải cách nêu ra. Những cuộc tranh cãi còn kéo dài. Truyền thống Kinh Thánh bắt đầu va chạm với những tìm tòi và khám phá khoa học đầu tiên
1. Cuộc va chạm đầu tiên giữa khoa học và truyền thống Thánh Kinh
Môt tu sĩ Ba Lan là Kopernik đã khám phá ra rằng, không phải mặt trời quay xung quanh trái đất, nhưng là trái đất quay xung quanh mặt trời và quanh mình nó (1543). Nửa thế kỷ sau, lý thuyết này gây xáo động ở Rôma khi nó được Bruno, rồi Galilei lặp lại. Theo các nhà thần học Công Giáo cũng như Thệ phản, hệ thông Kopernik đi ngược lại những xác quyết của Thánh Kinh (Hc 1,4 ; Yos 10,12-13). Thực ra, từ lý thuyết của Kopernik, Bruno đã rút ra những kết luận xa rời Kitô giáo, và ông đã bỏ những lời khấn dòng. Vụ án kéo dài 7 năm, và kết thúc bằng việc Bruno bị thiêu sống ở Rôma năm 1600. Đến lượt Galilei cho rằng trong Thánh Kinh : "ý định của Chúa Thánh Thần không nhằm cho ta bầu trời xoay chuyển thế nào, nhưng là người ta lên trời thế nào". Ông bị giam lỏng năm 1633. Đây là bước đầu hiểu lầm giữa Giáo Hội và khoa học.
2. Giáo thuyết Giansenio
Giáo thuyết này bắt nguồn từ cuộc tranh luận thời cải cách : đâu là vai trò ân sủng và tự do trong việc cứu rỗi con người ? Truyền thống Augustin nhấn mạnh ân sủng và sự tiền định, làm phương hại đến tự do của con người. Những luận đề của Baio, nhà thần học ở Louvain, đi theo hướng này và bị kết án (1567). Ngược lại, các cha Dòng Tên nhấn mạnh về tự do (tuy không phủ nhận ân sủng).
Dựa vào Augustino, Giansenio đưa ra một quan niệm thật bi quan về bản tính của con người bị tội nguyên tội làm cho hư hoại. Rôma kết án 5 luận đề rút ra từ cuốn Augustinus. Cuộc tranh cãi còn tiếp tục giữa phe Giansenio và phe Dòng Tên. Nhiều người theo phe Giansenio bị cầm tù. Giáo Hoàng kết án 101 luận đề rút ra từ cuốn sách của Quesnel (1713). Phe Giansenio còn tiếp tục chống đối trong thế kỷ XVIII.

Chương XIII

CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO

(Thế kỉ XV-XVIII)



I. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN HỆ ĐẾN VIỆC TRUYỀN GIÁO
1. Điều kiện và động cơ
- Công cuộc Truyền giáo cho toàn thế giới gắn liền với những khám phá lớn, nên tùy thuộc rất nhiều vào những điều kiện vật chất, thương mại và chính trị của các cuộc chinh phục xa xôi. Mặt khác, do phương tiện và thời tiết, các cuộc hải hành vẫn chậm và đầy nguy hiểm gây ra những hệ quả quan trọng cho công tác Truyền giáo.
- Công cuộc Truyền giáo dĩ nhiên có mục tiêu rao giảng Tin Mừng, nhưng không thể không lưu ý tới nhiều động cơ khác, đặc biệt nơi những người khám phá : nào là đi tìm những nguồn vàng, để có thể buôn bán ; nào là đi tìm những gia vị rẻ hơn (hồ tiêu), đất đai trồng trọt và nô lệ. Tất cả những động cơ trên đây đan chéo vào nhau. Người khám phá, kẻ chinh phục, nhà Truyền giáo có những hành xử mà ngày nay chúng ta coi là dường như nghịch lý và gây gương mù : họ vừa cắm Thánh giá, vừa tàn sát người da đỏ.
2. Tổ chức Truyền giáo
- Chế độ bảo trợ : trong thế kỷ XV, Tòa thánh cho các vua Bồ được quyền tài phán cả trong việc trần thế lẫn trong việc thiêng liêng ở những vùng đất mà họ chiếm được hay khám phá ra. Việc ông Christopho Colombo khám phá Châu mỹ (1492) gây ra căng thẳng giữa hai cuốc gia hùng mạnh trên bán đảo Iberic. Đức Giáo Hoàng Alex. VI phải đứng ra làm trọng tài. Ngài chia : Tây thuộc Tây Ban Nha, Đông thuộc Bồ Đào Nha. Trong lãnh thổ thuộc quyền mình, hai vua có trách nhiệm tổ chức Giáo Hội : phân định ranh giới giáo phận, bộ nhiệm Giám mục. Tất cả những ban nhượng này tạo nên cái gọi là chế độ bảo trợ. Chế độ này gây ra nhiều bất tiện nặng nề. Việc Truyền giáo lệ thuộc vào những thăng trầm của chính trị và công cuộc thực dân.
- Thánh bộ Truyền giáo : những khó khăn trên thúc đẩy Tòa thánh nắm giữ việc điều khiển công cuộc Truyền giáo bằng cách lập Thánh bộ Truyền giáo. Tòa thánh không xét lại quyền bảo trợ, do đó những cuộc đụng đổ tranh chấp ngày càng gia tăng.
- Nhân sự Truyền giáo : những vị thừa sai đầu tiên nơi các thế giới mới, tiên vàn là những thành viên của các dòng tu, nhất là Dòng Phan sinh và Đa minh, cùng với Phanxicô Xavie (1540), các tu sĩ Dòng Tên bắt đầu đi Truyền giáo. Hội thừa sai Paris (1663) gồm những linh mục chỉ phục vụ cho công cuộc Truyền giáo và công cuộc thực dân.
II. CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO Ở CÁC NƠI TRÊN THẾ GIỚI
1. Châu Phi
Sau khi đánh chiếm Ceuta của người Hồi giáo, Bồ Đào Nha tiếp tục bành trướng dọc theo bờ biển Phi châu cho tới mũi Hảo vọng và tới Mozambique. Việc bành trướng này cũng là nguồn gốc cho công cuộc Truyền giáo ở Phi châu. Ở vương quốc Công gô, nhà vua được Rửa tội, một Giáo Hội Công gô nẩy nở. Con ông là người da đen đầu tiên được làm Giám mục. Nói chung, sự thông đồng giữa công cuộc thực dân được mua bán nô lệ và việc Truyền giáo đã hoàn toàn làm méo mó việc rao giảng Phúc Âm.
2. Châu Mĩ
Chính quyền Tây Ban Nha đã thi hành nghiêm túc nhiệm vụ của một người tổ chức Giáo Hội. Từ 1511-1620, lập được 34 Tòa Giám mục. Công cuộc Truyền giáo đầu tiên thường bằng cách bày tỏ đức tin và bằng cả vũ lực nữa : dựng Thánh giá, lễ nghi lộng lẫy, phá hủy ngẫu tượng. Các thừa sai học tiếng bản xứ, soạn sách giáo lý và giảng bằng tiếng bản xứ.
Ở vùng Paragay, Uragay và Braxin, các cha dòng Tên lập những khu chiêu dân, qui tụ các bộ lạc du mục sống tập trung, lập thành những làng Công Giáo, tránh sự bóc lột của dân. Có tới 30 khu chiêu dân với số người 150 000. Các cha tổ chức đời sống cộng đồng dựa trên nền tảng Kitô giáo, trong đó mọi sự là của chung.
3. Châu Á : Ấn Độ - Nhật Bản
- Ấn Độ : Phanxico Xavie Truyền giáo ở Ấn Độ một thời gian, Rửa tội hàng ngàn người. Nhưng vị thừa sai nổi tiếng nhất ở Ấn là cha Nobili thuộc Dòng tên. Ngài học tiếng bản xứ, sống theo lối các Tu sĩ Ấn giáo, chủ trương để các người trở lại được duy trì tập quán của giai cấp mình. Nhiều thừa sai chống lại phương pháp của Nobili, tố giác tới Rôma. Nhưng Giáo Hoàng nhận một vài kiểu thích nghi của Ngài. Có những thừa sai khác hòa mình vào những giai cấp thấp nhất, sống như họ và để phục vụ họ.
- Nhật bản : trong bước đầu Truyền giáo ở Nhật, không thể không nói đến Phanxicô Xavie. Theo Ngài, ở Nhật rất phức tạp, phải xem xét lại phương pháp Truyền giáo. Muốn hoán cải dân, ngài phải học tiếng nói, biết triết học Nhật rập theo những tập quán địa phương. Phanxicô Xavie được coi là mẫu thừa sai của thời đại mới. Dân trở lại đông : số tín hữu lên tới 300 ngàn, phần lớn ở đảo Cửu châu, cũng như người vùng quanh Kyoto và Tokyo. Về sau các tu sĩ dòng tên cũng theo đường lối của ngài.
4. Trung Quốc - Việt Nam - Triều Tiên
- Trung Quốc : Việc Truyền giáo rất khó khăn vì dân quá sùng đạo Khổng, đạo Lão và đạo Phật, phải được kể là cha Mateo Ricci có công nhất, ngài sống như một nhà sư Phật giáo. Ngài chấp nhận y phục và lối sống của giới Nho sĩ. Ngài lao vào một Tông đồ vũ tri thức, phổ biến các khoa học Tây phương. Ngài trình bày giáo lý Công Giáo trong một tác phẩm bằng tiếng Hoa.
- Việt Nam : các cha dòng tên là những người Truyền giáo đầu tiên. Các ngài có công lớn, hình thành chữ Quốc ngữ mà công lớn nhất là cha Đắc lộ. Theo cha Đắc lộ, điều cơ bản của việc Truyền giáo là biết tiếng địa phương, đào tạo các Thầy giảng, sử dụng văn hóa Việt Nam, hiểu biết tập quán phong tục. Sau các cha dòng tên là các cha thuộc dòng Phan sinh và Đa minh, rồi tiếp là Hội thừa sai Paris, hoạt động theo phương pháp của các cha dòng Tên, kết quả rất khả quan.
- Triều Tiên : vào thế kỷ XVII và XVIII, giới trí thức khám phá ra Kitô giáo trong những sách vở từ Trung Quốc truyền vào. Năm 1784, một nho sĩ trẻ đến Trung Quốc được Rửa tội. Khi trở về Triều Tiên ông Truyền đạo : Rửa tội, giải tội, Thánh lễ. Sau đó, ông xin Trung Quốc gửi đến một linh mục.
III. ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC TRUYỀN GIÁO ĐỐI VỚI CHÂU ÂU
1. Truyền giáo và dư luận ở Châu Âu
Từ thế kỷ XV đến XVIII, văn chương Truyền giáo thành công lớn giữa các tác phẩm khác. Nhiều tác phẩm viết về Nhật bản và Trung Quốc được xuất bản. Nhiều tập san, ký sự và thư cũng được phổ biến. Một số tác phẩm này, đặc biệt những tác phẩm của các tu sĩ dòng Tên ở Trung Quốc rất có giá trị khoa học, và góp phần mở rộng địa lý của các người Âu châu. Họ được biết có những văn minh rất cổ, một số rất tinh tế, khác hẳn với những văn minh Châu âu. Châu âu và Trung Quốc bù đắp cho nhau để làm hoàn hảo tất cả những gì có ở hai bên.
2. Cơn khủng hoảng lớn của việc Truyền giáo
Những cuộc tranh chấp về quyền tài thẩm ngày càng tăng giữa các Giám mục do Lisboa bổ nhiệm và các đại diện Tông tòa do Thánh bộ Truyền giáo sai đi. Nhưng nghiêm trọng hơn chính là cuộc tranh cãi về lễ nghi, vì nó cáo giác những phương pháp Truyền giáo và thái độ Kitô giáo trước các văn hóa. Chia rẽ nhiều mặt :
- Ngôn ngữ

- Phụng vụ

- Các tập quán truyền thống.
Cuối cùng Tòa thánh cấm dòng Tên và bãi bỏ dòng năm 1773. Nhưng một điều đáng ghi nhận là Giáo Hội đã có mặt trên toàn thế giới.

Chương XIV

GIÁO HỘI TRONG ÁNH SÁNG

VÀ THỜI KỲCÁCH MẠNG PHÁP

Từ cuối thế kỷ XVIII, nhiều người tỏ ra thái độ mới đối với tôn giáo, nhưng đồng thời cung cách sống đạo của thế kỷ XVII còn được duy trì ở thế kỷ XVIII. Tuy vậy, từ giữa thế kỷ này, người ta thấy có những dấu hiệu giảm sút trong Giáo Hội. Có thể cắt nghĩa dấu hiệu này là do sự xuất hiện của Ánh sáng. Và thời kỳ cách mạng Pháp được coi như cuộc chiến thắng của triết học Ánh sáng và của những người thù nghịch với Giáo Hội, nhưng chính sự bền bỉ của một đức tin được tôi luyện qua thử thách buộc chính quyền phải trả lại cho Giáo Hội địa vị của nó trong xã hội.


I. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
1. Tình hình Giáo Hội
* Thế kỷ XVIII tập trung canh tân : đào tạo hàng giáo sĩ, thanh tẩy những việc đạo đức, phát triển truyền giáo nội địa, chuyên cần thực hành đạo...
* Chống chủ thuyết Giansêniô : đâu là vai trò ân sủng và tự do trong việc cứu rỗi con người ? Chủ thuyết này đã gây ra rất nhiều cuộc tranh luận ; một số Giám mục Pháp đã không chấp nhận, đồng thời kết án và kêu gọi triệu tập một Công Đồng chung. Nhóm này (Giansêniô) tuy ít nhưng rất năng nổ, về sau đã ly khai với Giáo Hội Công Giáo lấy tên : Giáo Hội của những người Công Giáo cựu trào.
* Lòng đạo Pháp (thế kỷ XVIII) tỏ ra nguội lạnh và giảm sút ; Giám mục, linh mục tuy nhiều nhưng thường xuyên bỏ nhiệm sở, nhà dòng bị bãi bỏ...
2. Triết học Ánh sáng tấn công Kitô giáo
Thế kỷ XVIII nổi bật lên những khuôn mặt như : Voltair, Diderot, d'Alembert... Chủ trương triết học này ở Pháp. Họ thường lưu ý tới khía cạnh chống Kitô giáo ; phần đông, họ nghĩ phải có một tôn giáo quần chúng, phù hợp với lý trí, loại trừ mọi mặc khải. Theo họ, các tín điều đi ngược với lý trí và tự nhiên, nên phải chiến đấu tiêu diệt Giáo Hội và Kitô giáo.
3. Giáo Hội trước trào lưu Ánh sáng
Để bảo vệ mình, Giáo Hội cố gắng chống lại các địch thủ bằng những phương tiện truyền thông : kiểm duyệt sách xấu, xin chính quyền can thiệp, viết những tác phẩm Kitô giáo...
II. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG CÁC GIÁO HỘI CẢI CÁCH VÀ CHÍNH THỐNG
Trong các Giáo Hội Cải cách, thần học chịu ảnh hưởng của các trào lưu ánh sáng thường đi từ con đường chủ thuyết duy lý và sự tục hóa về văn hóa.
1. Giáo thuyết mộ đạo ở Đức
Giáo thuyết này luôn đề cao giá trị của lòng đạo theo tình cảm và trả lại địa vị cho các việc làm. Phong trào mộ đạo này chi phối phần lớn nước Đức ở thế kỷ XVIII.
2. Những giáo phái phát sinh từ Anh giáo
Những tên tuổi như Fox : ông thường rao giảng về giáo lý Ánh sáng nội tâm, chính Ánh sáng này làm cho các tín điều và cơ cấu Giáo Hội trở thành thứ yếu. Hơn nữa, ông luôn kêu gọi các tín hữu run sợ trước Thiên Chúa và qui tụ thành Hội những người bạn của Thiên Chúa.
Nhưng ở đây, Wesley mới là người đã làm đảo lộn Anh giáo một cách sâu xa. Cùng với em trai, ông qui tụ sinh viên Đại học Oxford thành câu lạc bộ sống thánh, trong đó người ta đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, làm việc bác ái... Họ sống rất chặt chẽ và nghiêm nhặt. Nói chung, Wesley muốn nhấn mạnh vào việc hoán cải và thánh hóa thường xuyên.
3. Các Giáo Hội Đông phương
Các Giáo Hội này lệ thuộc vào chính quyền ; vì tất cả quyền lực của Giáo Hội là do chính quyền nắm giữ : Nga hoàng chỉ định các vị đại diện lãnh đạo Giáo Hội...
III. GIÁO HỘI THỜI CÁCH MẠNG PHÁP
1. Tổ chức lại Giáo Hội Pháp
Để giải quyết những khủng hoảng về tài chính và chính trị. Pháp hoàng triệu tập Quốc dân đại hội, gồm những đại biểu thuộc ba thành phần : giáo sĩ, qúi tộc và thứ dân. Giáo sĩ phần đông là cha xứ, thuộc phe với các đại biểu thứ dân, để lập Quốc hội lập hiến. Do đó, mà có bản Dân hiến giáo sĩ. Năm 1791, Giáo Hoàng Piô VI đã kết án bản Dân hiến và những nguyên tắc mà các nhà làm luật dựa vào.
2. Con đường gian nan của Giáo Hội Pháp
Trong vòng 10 năm thì Giáo Hội Pháp bị xáo trộn cách xâu xa. Những khó khăn bên trong cũng như bên ngoài càng làm gia tăng những biện pháp không chỉ chống những người không thể, nhưng là chống mọi hình thức của đời sống tôn giáo : nhiều giáo sĩ bị giết, và việc khai sinh - tử, hôn nhân trước đây giáo sĩ nắm, nay trao cho dân sự ; chính quyền cho phép ly dị... Hơn nữa, thái độ thù ghét đạo, muốn triệt hạ đạo lên tới tột đỉnh vào thời kỳ khủng bố : phá hủy cơ sở tôn giáo, hội hè trong nhà thờ, tôn thờ thần lý trí...
Khi hạ bệ Robespierre (1794) mới chấm dứt thời kỳ khủng hoảng, đánh dấu bước đầu giai đoạn tạm ổn cho Giáo Hội. Quốc ước hội hủy bỏ ngân sách cho việc phượng tự và công nhận quyền tự do làm việc phượng tự trong các nhà thờ.
3. Thời Napoléon
Năm 1800, các Hông Y họp tại Venetia bầu lên Giáo Hoàng Piô VII. Hồi còn làm Giám mục, ngài đã quả quyết là hình thức chính quyền dân chủ không phải là không thể dung hòa với Phúc Âm. Còn về phía Napoléon cho rằng : không thể cai trị mà không hòa giải với Giáo Hội, nhưng nhãn quan của ông về tôn giáo hoàn toàn có màu sắc chính trị. Từ đó, hai bên đã đi đến ký kết một thỏa ước năm 1801. Theo thỏa ước : hàng Giám mục của chế độ cũ phải từ nhiệm hết, Giáo Hội không được đòi lại tài sản đã bị tịch thu, chính quyền thì lo chu cấp cho hàng giáo sĩ... Cuộc hòa giải giữa hai bên kéo dài được mấy năm, thì năm1806 lại xẩy ra căng thẳng giữa Giáo Hoàng và hoàng đế. Quân Pháp chiếm Rôma và sát nhập Tòa thánh vào Pháp. Giáo Hoàng ra vạ tuyệt thông, nhưng bị bắt và giam lỏng ở Genoa, sau đó đưa về Pháp và mãi năm 1814 mới trả về Rôma.

Chương XV



GIÁO HỘI VÀ CHỦ THUYẾT TỰ DO

(1815-1870)



Khi Napoléon rời khỏi chính trị, nhiều người coi một phần tư thế kỷ vừa qua cần xóa bỏ, cần phải phục hồi Âu châu và Giáo Hội lại tình trạng trước 1789. Trong thế kỷ XIX có một cuộc canh tân tôn giáo ; không thể để vua chúa hoặc Giáo Hội ngăn cản tự do. Để bảo vệ chân tính mình, Giáo Hội buộc mình chống lại chủ thuyết tự do nơi các người Công Giáo. Để giải quyết vấn đề, Đức Piô IX đã triệu tập Công Đồng Vatican I (1869).
I. GIÁO HỘI THỜI TRÙNG HƯNG
1. Những nguyên tắc trùng hưng
Sau những đảo lộn do cuộc cách mạng và Để nhất đế chính do Pháp gây ra ; hội nghị Vienna muốn tổ chức lại Âu châu, Giáo Hoàng lấy lại nước Tòa thánh. Ba nước Nga, Áo và Phổ lập liên minh thánh nhằm chống lại ý tưởng và các thực hiện cách mạng ; đồng thời đề cao giá trị quá khứ về tôn giáo, luân lý, phẩm trật. Thế nhưng không thể một ngày mà xóa bỏ đươc não trạng 25 năm lịch sử. Những người được thừa hưởng cuộc cách mạng, họ công kích trùng hưng chính trị và Giáo Hội.
2. Ở Pháp
Công Giáo trở thành Quốc giáo : việc phục hồi tôn giáo gặp nhiều thuận lợi ; nhờ đó tăng được các giáo xứ và chủng viện. Các dòng tu được phục hồi và còn được thiết lập các dòng mới cả nam và nữ.

3. Ở các nước Âu châu khác
- Ở Ý : các Giáo Hoàng kế vị Đức Piô VII gặp những khó khăn về nước Tòa thánh. Chủ trương bài giáo sĩ được hộ trở của hội Tam điểm, đảng Carbonari. Tòa thánh đã cứng rắn đối với các hội này. Nước Ý đòi hủy bỏ tiểu quốc để thống nhất một nước Ý.
- Ở Đức và Áo : các ông hoàng của những tiểu quốc thuộc Thệ phản nên cuộc đàm phán giữa nhà nước và Tòa thánh gặp nhiều khó khăn. Phổ là nước có nhiều Thệ phản, nên cũng tìm cách bức bách Công Giáo. Ở Đức Công Giáo phát triển mạnh. Ở nước Áo là một đế quốc lớn. Giáo Hội ở đây ít bị thế tục hóa, Giáo Hội được bảo vệ. Ở Vienna, thánh Hofbauer chấn hưng tinh thần Công Giáo khắp Trung âu.
- Ở quần đảo Anh : sáu triệu dân ở đảo Ailen đa số là Công Giáo. Từ lâu họ bị bách hại, nhưng nhờ O Connell năm 1829 mọi người được giải phóng. Ở đây có Tổng Giám mục Wiseman là người đã gây lại sức sống cho Giáo Hội Anh ; và người là nhân vật sáng lập phong trào Oxford nhằm canh tân Giáo Hội Anh giáo, sau trở lại Công Giáo.
- Ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha : Ở Tây Ban Nha, vua Fermando lên ngôi, cố gắng phục hưng Giáo Hội, nhưng 1820, một cuộc cách mạng căm thù Giáo Hội bùng nổ, Pháp phải can thiệp ; tới giữa thế kỷ một thỏa ước giữa Tòa thánh và chính quyền được ký. Ở Bồ Đào Nha người Công Giáo bị bách hại nặng nề.

4. Trong thế giới Thệ phản và Chính thống
Vua phổ cho sát nhập Giáo Hội phái Luther và Giáo Hội phái Calvin thành một Giáo Hội Phúc Âm. Nhiều nhóm Thệ phản gia tăng, người ta nhận ra hai trào lưu : trào lưu thức tỉnh và trào lưu tự do.
Trong thế giới Chính thống giáo : Hy lạp được độc lập, Giáo Hội được tự do. Ở Nga, Giáo Hội Chính thống bị chia rẽ nhiều phe phái.
II. GIÁO HỘI TRƯỚC CHỦ THUYẾT TỰ DO CHÍNH TRỊ
1. Thái độ của Giáo Hội trước trào lưu cách mạng
- Cuộc trùng hưng Công Giáo gây chống đối với giới trưởng giả tự do, đặc biệt là ở Pháp. Có những người Công Giáo liên minh với phái tự do bài giáo sĩ. Ở nước Tòa thánh, dân chúng nổi dậy sau khi Đức Giáo Hoàng Piô VIII qua đời ; Đức Gregoriô nhờ Áo can thiệp, Giáo Hoàng được coi là kẻ thù.
- Ba Lan bị Nga đô hộ cũng vùng dậy (1830) tuyên bố độc lập.
2. Chủ thuyết tự do và quan điểm của Lamennais
Chủ thuyết tự do được phổ biến sau thời cách mạng 1789. Trong lãnh vực chính trị là chống lại chuyên chế, phong kiến, qúi tộc, bảo hoàng, bảo thủ, tìm cách triệt hại Giáo Hội. Trước tình hình đó linh mục Lamennais đề nghị giải pháp tự do tôn giáo, đồng thời ông và các bạn đề nghị canh tân Giáo Hội và xã hội. Ông đã bị các Giám mục và Tòa thánh kết án. Ngày nay khát vọng của Lamennais đã biến thành hiện thực.

3. Tình trạng mong manh của nước Tòa thánh
Thời Đức Gregoriô XVI, Tòa thánh nhờ Áo can thiệp, phải nhượng đất cho Áo. Đức Piô IX lên thay, tổ chức lại nước Tòa thánh. Vì Tòa thánh không tham gia liên minh chống Áo nhằm giải phóng Ý, dân chúng nổi dậy. Giáo Hoàng kêu gọi, Pháp đem quân đến giúp chiếm lại Rôma. Các nhà ái quốc Ý không chấp nhận liên bang do Giáo Hoàng thủ lãnh, nên hướng về Piamonte, miền Lombardia thuộc về Piamonte, đến lượt ba tỉnh phía bắc của nước Tòa thánh cũng sát nhập vào Piamonte. Nước Tòa thánh mất phần lớn, chỉ còn Rôma và vùng phụ cận
III. CÔNG ĐỒNG VATICAN I (1869)
Công Đồng Vatican I được triệu tập thời Đức Piô IX là một sự kiện quan trọng nhất của Giáo Hội.
1. Dư luận Công Giáo trước Công Đồng
Nhiều người Công Giáo muốn Công Đồng xác nhận quyền đạo của Giáo Hoàng ; khẳng định quyền Giáo Hoàng đã định tín (1854) : Đức Mẹ Vô Nhiễm.
2. Diễn tiến của Công Đồng
Công Đồng khai mạc 8.12.1869 : Định tín quyền bất khả ngộ. Công Đồng qui tụ 700 Giám mục, Công Đồng bàn về tương quan đức tin và lí trí, định tín một Thiên Chúa có Ngôi vị, quả quyết mặc khải là cần thiết ; quyền bất khả ngộ của Giáo Hoàng không được chính thức ghi trong dự thảo. Ngày bỏ phiếu, hiến chế chủ yếu xác định quyền tối cao và bất khả của Đức Giáo Hoàng. Do chiến tranh Pháp Phổ, sau khi Pháp đóng ở Rôma bảo vệ Tòa thánh về Pháp, Piamonte xua quân chiếm Rôma. 20-10 Đức Piô IX tuyên bố tạm ngưng Công Đồng.

3 Những hậu quả và ảnh hưởng của Công Đồng
Nói chung, những nghị quyết của Công Đồng đều được đón nhận, kể cả quyền bất khả ngộ cũng được đem ra bàn, chỉ có một vài đại học ở Đức chống đối.
Người ta có cảm nghị Công Đồng chỉ bàn về Giáo Hoàng mà không bàn về Giám mục. Công Đồng thừa nhận Giáo Hoàng có quyền tài thẩm thông thường trên toàn Giáo Hội. Quyền Giáo Hoàng còn cần phải được dung hòa với quyền của các Giám mục. Vat.II sẽ bổ túc điều này khi khẳng định tính tập đoàn của Giám mục.
Những định tín Vat.I đôi khi làm căng thẳng giữa xã hội chính trị và Giáo Hội. Đó là cớ nhiều Quốc gia đã bài Giáo Hội.



tải về 0.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương