ĐỜi sống trong chúa kitô (câu 279 468)



tải về 0.52 Mb.
trang7/8
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích0.52 Mb.
#10744
1   2   3   4   5   6   7   8
368, 372

  • Con cái là một chúc phúc của Chúa. William Shakespear 1564- 1616, nhà soạn kịch Anh

  • Mỗi đứa con đều quí giá. Mỗi đứa con đều là thụ tạo của Thiên Chúa. Mẹ Têrêsa

  • Con cái có quyền được tôn trọng như là con người ngay từ lúc thụ thai. Đức Gioan Phaolô II, Donum vitae 2,8

  1. Cha mẹ nên có bao nhiêu con ?

- Cha mẹ Công giáo đón nhận bao nhiêu con cái tùy Chúa ban và tùy họ có thể chu toàn trách nhiệm đối với con cái. [2373]

  • Tất cả những đứa con mà Chúa ban cho ta đều là một ân huệ, một chúc phúc lớn lao. Nói thế không phải là đôi bạn Kitô hữu không đếm xỉa gì đến sức khỏe, đến hoàn cảnh kinh tế và xã hội để quyết định số con mà họ có thể đảm nhận trách nhiệm. Khi có đứa con “bắt đắc dĩ” chào đời, cha mẹ phải đón nhận với niềm vui và chấp nhận với tình yêu cao thượng. Trong trông cậy vào Thiên Chúa, nhiều đôi bạn công giáo đã can đảm có một gia đình đông con hơn bình thường.

  • Làm cha mẹ có trách nhiệm. Hội Thánh quả quyết và bảo vệ quyền của chính đôi bạn có thể quyết định số con cũng như thời gian cách nhau để sinh con tùy theo khuôn khổ của việc điều hòa sinh sản theo tự nhiên.

  1. Đôi vợ chồng Công giáo có nên điều hòa số con cái của họ không ?

- Có. Cha mẹ Công giáo được và nên có trách nhiệm trong việc dùng món quà là đặc ân lưu truyền sự sống. [2368-2369, 2399]

  • Đôi khi có những hoàn cảnh xã hội hoặc những lý do tâm lý hay sức khỏe làm cho việc có thêm con trở nên gánh quá nặng có khi quá sức loài người đối với đôi bạn. Đối với trường hợp này có những tiêu chuẩn rất rõ ràng để xem xét. Kế hoạch điều hòa sinh sản không phải là (1) Loại bỏ việc thụ thai sinh con. (2) Từ chối sinh con vì ích kỷ. (3) Chịu sự ép buộc bên ngoài, cụ thể là do Nhà nước ấn định số con. (4) Có thể dùng bất cứ phương pháp nào.

  • Điều hòa sinh sản là kế hoạch hóa gia đình theo luật tự nhiên, đây là một trong số các phương pháp điều hòa sinh sản bằng cách dùng quan sát các thời kỳ có thể thụ thai của người vợ để có con hoặc tránh phải thụ thai (như phương pháp Billings).

  • Kế hoạch hóa gia đình theo trật tự tự nhiên không là gì khác hơn là tự làm chủ trong tình yêu đôi bạn. Mẹ Têrêsa

  1. Tại sao các phương pháp ngừa thai không tốt như nhau ?

- Hội thánh khuyến khích dùng phương pháp chính xác dựa vào quan sát chu kỳ kinh nguyệt nơi người nữ hàng tháng. Phương pháp này tôn trọng phẩm giá người nam và người nữ trong tình yêu. Nó giúp đôi bạn tôn trọng và cư xử âu yếm nhau, nó là trường dạy đôi bạn yêu nhau. [2370-2372, 2399]

  • Hội thánh chăm chú để tôn trọng trật tự trong tự nhiên, và Hội thánh thấy trong đó có một ý nghĩa sâu xa. Đối với Hội thánh, việc đôi bạn can thiệp một cách nhân tạo vào việc thụ thai của người vợ rất khác với việc sử dụng những thời kỳ có thể thụ thai và thời kỳ không thể thụ thai trong chu kỳ kinh nguyệt của người vợ. Việc “kế hoạch hóa gia đình theo trật tự tự nhiên” vừa tôn trọng con người, vừa ủng hộ cho việc vợ chồng âu yếm nhau và không làm tổn hại sức khỏe. Vả lại nếu việc kế hoạch theo đúng trật tự tự nhiên thì tỉ lệ thất bại của nó thấp hơn là ngừa thai nhân tạo bằng cách uống thuốc ngừa thai (Viên Pearl-Index). Ngược lại, Hội thánh không chấp nhận mọi phương thế ngừa thai nhân tạo, hiểu là những phương thế hóa học (viên thuốc ngừa thai), những phương thế cơ học (bao cao xu, vòng tránh thai…) và những phương thế giải phẩu (làm tuyệt sản bằng cắt ống), những phương pháp này can thiệp bằng thủ công vào sự liên kết không thể chia lìa giữa khía cạnh kết hợp tình dục và khía cạnh sinh sản trong hành vi vợ chồng. Những phương thế chống thụ thai nhân tạo này cũng có thể có hại cho sức khỏe người vợ, gây nên sớm xảy thai và về lâu dài làm hư hại cho đời sống âu yếm của đôi bạn.

  • Về vấn đề ngừa thai, đi nguợc với vấn đề điều hòa sinh sản, Đức Gioan Phaolô II đã nói rằng: “Điều hòa sinh sản là ngôn ngữ diễn tả cách tự nhiên việc đôi bạn trao hiến cho nhau trọn vẹn; còn ngừa thai là ngôn ngữ đi nguợc lại cách khách quan với ngôn ngữ điều hòa sinh sản, theo đó đôi bạn không còn trao hiến cho nhau trọn vẹn nữa. Như thế, không những đôi bạn chủ ý từ chối việc mở ngỏ cho sự sống, mà còn làm sai lệch sự thật nội tại của tình yêu vợ chồng, tình yêu này mời gọi trao hiến cho nhau trọn vẹn cả con người của mình.” Đức Gioan Phaolô II Familiaris Consortio, 32.

  1. Đôi vợ chồng không có con có thể làm gì ?

- Đôi bạn đau khổ vì không có con có thể nhờ sự giúp đỡ của y học, miễn là không nghịch với phẩm giá con người, nghịch với các quyền của trẻ em trong tương lai và nghịch với sự thánh thiện của bí tích hôn phối. [2375, 2379]

  • Đứa con không có quyền tuyệt đối. Mọi đứa con đều là quà tặng của Thiên Chúa. Các đôi bạn không có được quà tặng đó sau khi đã dùng mọi cách cứu vãn hợp pháp của y học, họ có thể xin con nuôi, dấn thân phục vụ người khác và săn sóc trẻ bị bỏ rơi.

  • Bạn đừng quên rằng trên thế giới có nhiều trẻ em, nhiều người vợ nhiều người chồng không có được cái bạn có, và bạn cũng hãy nghĩ tới việc phải yêu thương chính họ nữa đến nổi phải đau khổ vì họ. Mẹ Têrêsa

  1. Hội thánh nói gì về mang thai mướn và thụ thai nhân tạo ?

- Hội thánh cho biết: việc tìm thuốc men để có thể có con là hợp pháp, nhưng mọi sự giúp đỡ thụ thai qua sự nghiên cứu tìm kiếm và thuốc men phải chấm dứt, nếu cuối cùng họ dùng những phương thế không thể chấp nhận được về mặt luân lý, hoặc khi có người thứ ba can thiệp vào làm cho quan hệ cha mẹ bị phân ly, hoặc khi đứa con được sinh ra cách nhân tạo không do đôi bạn kết hợp tình dục với nhau. [ 2374- 2377]

  • Vì tôn trọng phẩm giá con người, Hội thánh từ chối việc sinh con nhờ phương pháp thụ tinh nhân tạo khác nguồn hay cùng nguồn. Mọi đứa con đều có quyền có một cha và một mẹ, có quyền biết mặt cha mẹ nó, và được lớn lên trong tình yêu bao bọc của cha mẹ. Việc thụ tinh nhân tạo khác nguồn nghĩa là dùng tinh trùng của một người khác cho (khác nguồn) hoặc dùng noãn sào của một người khác cho, việc thụ tinh này phá hủy tinh thần của hôn nhân trong đó đôi bạn có độc quyền là chỉ nhờ nhau mà trở thành cha mẹ. Và cũng phạm đến quyền của đứa con là quyền có cha mẹ chính thức kết hôn. Còn việc thụ tinh nhân tạo cùng nguồn nghĩa là dùng tinh trùng và noãn sào của chính cha mẹ, việc thụ tinh này tách rời hành vi tình dục khỏi hành vi sinh sản làm cho việc có con không còn là hành vi hiến thân cho nhau của đôi bạn; nó cũng làm cho đứa con chỉ là sản phẩm của kỹ thuật chứ không còn là kết quả tình yêu của đôi bạn. Nếu đứa con là sản phẩm của kỹ thuật thì có nguy cơ người ta “thiết lập một sự thống trị nào đó của kỹ thuật trên nguồn gốc và số phận của con người. Sự thống trị như vậy tự bản chất đi ngược với phẩm giá và sự bình đẳng chung cho cả cha mẹ lẫn con cái.” (Donum Vitae 2,5). Hội thánh cũng từ chối việc chẩn đoán trước khi sinh chỉ nhằm mục đích phá hủy phôi thai khuyết tật. Việc thụ tinh nhân tạo trong ống nghiệm hoặc “mang thai mướn” cũng là những việc trái nghịch với phẩm giá người phụ nữ.  280

  • Cái xấu xa hơn trong tất cả các bi kịch không phải là sự tàn bạo của những con người xấu, mà là sự im lặng của những người tốt. Martin Luther King (1929-1968, mục sư người Mỹ da đen).

  1. Thế nào là ngoại tình? Ly dị có hợp luân lý không?

- Ngoại tình là tội phạm của hai người có quan hệ tình dục, mà ít nhất, một người đã có vợ hay chồng. Ngoại tình phản bội lại tình yêu từ nền tảng, xâm phạm giao ước được ký kết trước Thiên Chúa, hành xử bất công với người thân cận mình. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh sự bất khả phân ly của hôn nhân khi nói: « Điều gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly » (Mc 10, 9). Dựa vào ý muốn đầu tiên của Đấng Tạo Hóa, Chúa Giêsu đã hủy bỏ sự khoan dung cho phép ly dị của Cựu ước.

  • Chúa Giêsu có hứa trong sứ điệp: “Các bạn là con cái của Cha trên trời, các bạn đã nhận được khả năng yêu thương suốt đời”, lời này ban ơn can đảm. Dẫu thế, không dễ trung thành với bạn đời của mình suốt đời. Vì thế không nên kết án những người thất bại trong hôn nhân. Tuy nhiên các Kitô hữu, sống bay bướm đến chỗ phải ly dị thì phạm một tội nặng. Họ phạm tội chống lại tình yêu của Chúa, được biểu lộ trong hôn nhân. Họ phạm tội chống lại người bạn đời mà họ bỏ đi và chống lại những đứa con mà họ để lại. Người bạn đời trung thành của hôn nhân trở nên không chịu nổi, đôi khi có thể bỏ không ở nhà chung với nhau nữa. Để tránh khổ cực, có thể cần được ly dị theo luật dân sự. Có những trường hợp được xác định và có căn cứ, sau khi khảo sát xem hôn nhân có thành sự không, Hội thánh có thể tuyên bố hôn nhân vô hiệu  269.

  • Hoặc là trung tín cách tuyệt đối hoặc là chẳng trung tín gì. Karl Jaspers (1883-1969, triết gia Đức)

  • Cái gốc của khủng hoảng hôn nhân và gia đình ở tại những quan niệm sai về tự do. Chân Phước Gioan Phaolô II

  • Hôn phối đã thành sự và hoàn hợp thì không thể bị tháo gỡ bởi một quyền bính nhân loại hay một nguyên do nào khác, ngoài sự chết. Giáo luật Điều 1141

  1. Hội thánh chống lại những đôi hôn phối không có bí tích Hôn phối thế nào ?

- Người Công giáo không có hôn nhân, nếu chưa cử hành nghi lễ Hôn phối. Trong nghi lễ đó, Chúa Giêsu đến với đôi vợ chồng, Người ban dồi dào phúc lành trên họ. [2390-2391]

  • Đôi khi có những người lớn tuổi nghĩ rằng mình phải khuyên đám trẻ ngày nay từ bỏ nghĩ đến một hôn nhân “suốt đời và trong bộ áo trắng”. Đối với họ hôn nhân chỉ cốt tại việc tập hợp công cộng, có những lời hứa không thể giữ được về của cải, về dự tính, về ý định tốt. Không thể được. Hôn nhân Kitô giáo không phải chuyện bịp bợm, mà là quà tặng đẹp nhất Thiên Chúa đã tưởng tượng ra cho đôi tình nhân. Thiên Chúa đến thắt dây nối kết họ rất bền chặt, mà không người đời nào có thể làm được. Chúa Giêsu đã nói: “Không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5), lời này luôn có mặt thường xuyên trong bí tích Hôn nhân. Chính sức mạnh tình yêu của Chúa luôn luôn ở đó, ngay cả khi theo bên ngoài, sức mạnh của đôi tình nhân đã cạn kiệt. Vì thế bí tích Hôn nhân khác hẳn với việc chỉ là một thủ tục giấy tờ. Bí tích Hôn nhân như một cái xe của Chúa luôn sẵn ở đó mà đôi tình nhân luôn có thể bước lên – một cái xe có đủ xăng nhớt để đưa vợ chồng, với sự trợ giúp của Thiên Chúa, đi cho tới đích của tất cả những gì họ khao khát. Bởi vậy, Hội thánh mời các bạn trẻ cách đặc biệt chống lại dứt khoát và mạnh mẽ cái áp lực xã hội của tất cả những người hôm nay đang coi việc quan hệ tình dục là không quan trọng, không cần đựơc liên kết bằng những cam kết trước hoặc ngoài hôn nhân.

  • Có thì nói có, không thì nói không, thêm bớt là do sự Dữ mà ra. Mt 5,37

  • Anh nhận em làm vợ của anh, và hứa giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời anh. Nghi thức Hôn phối

     

    Điều răn thứ 7: Chớ lấy của người





  1. Điều răn thứ 7 đòi buộc những gì ?

- Điều răn thứ 7 không những cấm lấy gì của người khác, nó cũng đòi quản trị cách ngay thẳng và phân phát của cải dưới trần gian cách công bằng nữa. Nó điều chỉnh vấn đề tư hữu và phân chia những lợi tức phát sinh do lao động của con người. Sự phân chia bất công những nguyên liệu cũng bị điều răn thứ 7 tố giác. [2401]

  • Thực ra điều răn thứ 7 chỉ cấm cầm giữ bất công của gì của người khác. Đồng thời cũng thúc đẩy mọi người cố gắng làm cho thế giới công bằng hơn, có tính xã hội hơn, và quan tâm đến việc phát triển thế giới lành mạnh. Điều răn thứ 7 tuyên bố rằng vì có đức tin ta có bổn phận dấn thân vào việc bảo vệ công cuộc tạo dựng và vào việc gìn giữ các tài nguyên thiên nhiên.

  • Dù Chúa Giêsu giầu, nhưng đã ra nghèo vì ta, để ta trở nên giàu nhờ sự nghèo của Người. 2 Cr 8,9

  • Nếu không có của tư hữu thì cũng chẳng có niềm vui khi cho. Như thế, không ai còn có thể có niềm vui khi được giúp cho bạn bè khỏi nghèo túng, cho người qua đường, cho người đau khổ. Aristote

  • Trong Thông điệp về xã hội Populorum Progressio, Đức Phaolô VI long trọng nhắc lại rằng: “Kinh tế là để phục vụ con người”, và ngài không thừa nhận một chế độ coi “lợi nhuận như lý do cốt yếu của tiến bộ về kinh tế, coi cạnh tranh như luật tối thượng để tiến bộ về kinh tế, coi tư hữu các của cải để sản xuất như là luật tuyệt đối, không có gì giới hạn cũng như xã hội không có nghĩa vụ nào tương ứng để giới hạn.” Populorum Progressio 26

  1. Tại sao quyền tư hữu không được là quyền tuyệt đối ?

- Quyền tư hữu không là quyền tuyệt đối, và vô điều kiện, vì Thiên Chúa dựng nên trái đất và mọi sản vật trong đó cho tất cả mọi người trong nhân loại. [2402-2406, 2452]

  • Những ai được “sở hữu” những phần của cuộc sáng tạo bởi vì họ đã có được cách hợp pháp do lao động của họ, hoặc được do thừa kế hay ban tặng, cần phải biết rằng quyền tư hữu một tài sản đòi buộc người nắm giữ phải mưu ích cho xã hội. Đồng thời, Hội thánh chống lại những người suy ra từ bổn phận xã hội của những người có tư hữu rằng: quyền tư hữu không thể tồn tại được, và tất cả đều thuộc về hoặc là mọi người, hoặc là Nhà Nước. Mọi người chủ sở hữu một của cải theo như Đấng Tạo Hóa muốn, họ chăm sóc cẩn thận, họ phân phối các lợi ích để mỗi người đều được hưởng phần xứng đáng, chính người chủ đó đang hành động theo trật tự của Đấng Sáng Tạo.

  • Có của mà không chia sẻ thì trong nhiều trường hợp còn nặng tội hơn ăn cắp. Marie Von Elner Eschenbach

  • Quyền tư hữu không ban cho ta một quyền tuyệt đối và vô điều kiện. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, Populorum Progressio

  1. Ăn trộm là gì ? Điều răn thứ 7 dạy gì ?

- Ăn trộm là chiếm đoạt bất hợp pháp của cải thuộc về người khác. [2408-2410].

  • Ai chiếm giữ cách bất công của gì của người khác là phạm điều răn thứ 7, dù việc đó không bị luật dân sự kết án. Bất công, là điều không công bằng trước mặt Chúa. Không những ăn cắp là trái với điều răn thứ 7, nhưng từ chối cách bất công để trả lương xứng đáng, cầm giữ những đồ vật tìm được hoặc đã mượn mà có thể trả lại, hoặc gian lận một cách chung cũng lỗi như vậy. Điều răn thứ 7 cũng tố cáo những việc sau đây: sử dụng nhân công trong những điều kiện bất xứng, không tôn trọng hợp đồng mình đã cam kết, phung phí những lợi tức thu được mà coi thường nghĩa vụ phải chia sẻ, tăng hay giảm giá cách giả tạo, gây thiệt hại cho việc làm của các bạn cùng lao động, chấp thuận cho hối lộ và mua chuộc, lôi kéo các bạn cùng cộng tác trong những hành vi bất hợp pháp, không thi hành các công việc hoặc đòi hỏi làm việc quá giờ bất tương xứng, phí phạm của công hoặc quản trị không tốt, làm giả chi phiếu hoặc làm sai hóa đơn, phạm những gian lận về thuế vụ hoặc thương mại.



  1. Có luật nào liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ không ?

- Sự chiếm đoạt những sản phẩm trí tuệ cũng là ăn cắp. [2408-2409]

  • Không phải chỉ có chuyện “đạo văn” (đạo là ăn cắp) mới là ăn cắp. Ăn cắp sản phẩm của trí tuệ con người đã bắt đầu ngay từ ở nhà trường khi người ta chép bài (cóp bài) của người bên cạnh, nó còn tiếp tục bằng việc nạp dữ liệu từ xa cách bất hợp pháp trong Internet, chiếm giữ như của mình những văn bản không được phép, cướp lấy những dữ liệu tin học hoặc cung cấp do các phương tiện truyền thông…và đi tới chỗ buôn bán từ những dữ liệu là ý tưởng hay quan niệm đã đánh cắp. Tất cả việc chiếm giữ các tài liệu (tài sản) trí tuệ (phi vật chất) thuộc về sở hữu của người khác đó, đòi hỏi phải được sự ưng thuận và được đền bù cho thích hợp, nếu xảy ra là tác giả chiếm giữ có tham gia vào việc thực hiện tác phẩm mới.

  • Đạo văn – là coi tác phẩm của người khác như của mình một cách trái phép, bằng cách chép lại, hoặc bắt chước mô phỏng mà không xin phép.

  1. Công bằng giao hoán là gì ?

- Công bằng giao hoán là sự trao đổi giữa các con người với nhau trong tôn trọng đúng quyền lợi của họ. Nó giám sát để quyền sở hữu được bảo đảm, nợ được trả lại, bổn phận đã tự ý giao kèo phải làm xong, và nó theo dõi để bất công đã phạm phải đền bù, và của cải bị ăn cắp được trả lại. [2411-2412]

  • Chúa Giêsu khen ông Giakêu người thu thuế đã hứa: Thưa Ngài nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì. Tôi xin đền gấp bốn. Lc 19,8

  • Tôi yêu tiền bạc vì nó cho tôi khả năng giúp đỡ người khác. Blaise Pascal

  1. Có được phép gian lận thuế không ?

- Sáng kiến các hệ thống thuế phức tạp thì không bị chỉ trích về mặt luân lý. Điều trái luân lý là tìm các thủ đoạn để không trả thuế, gian lận thuế, làm sai hoặc che giấu của cải bị cầm giữ. [2409]

  • Khi phải trả thuế theo lợi tức, các người nộp thuế chi trả cho những tổn phí công cộng của Nhà Nước. Vì thế, gian lận thuế không phải tội nhẹ. Thuế phải công bằng và tương xứng, và phải được thu theo luật định.

  • Còn ông Dakêu thì đứng mà thưa với Chúa rằng, "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn". Lc 19,8

  1. Kitô hữu có thể đầu cơ trong giao dịch chứng khoán, hoặc trên Internet không ?

- Kitô hữu có quyền làm các giao dịch chứng khoán hay trên Internet, khi mà việc đầu tư trên của mình hoặc được người khác gửi, được thực hiện trong khuôn khổ giao dịch thương mại bình thường vừa khôn ngoan vừa hợp luân lý.

  • Việc đầu cơ trong giao dịch chứng khoán trở nên trái luân lý khi nó dùng đến những thực hành bất lương (ví dụ: Le délit d’initié) khi nó gây nguy cơ làm cho người ta mất nguồn lợi tài chính riêng của họ hoặc của người khác mà đáng lẽ nó phải bảo đảm; khi nó mặc lấy tính cách của người ghiền như mê chơi cờ bạc, cá cược.  434

  • Ai yêu tiền sẽ không thỏa mãn với tiền. Hc 5,10

  • Tiền của hắn chi phối hắn hơn là hắn chi phối tiền. Thánh Cyprien ở Carthage

  1. Phải đối xử với tài sản thuộc về mọi người thế nào ?

- Chủ trương phá hoại và cố ý làm hư hỏng các công trình và tài sản chung là các thứ hành vi trộm cắp, và đòi phải bồi thường. [2409]

  • Khi bạn cung cấp hoặc sử dụng một đồ vật, bạn hãy nghĩ rằng đó là sản phẩm do lao động của mọi người, và nếu bạn dùng nó một cách lạm dụng, chẳng hạn làm hư hỏng hoặc phá hủy nó, đó chính là bạn đã phá hủy sự lao động, và cả sự sống con người mà bạn đã lạm dụng. Léon Tolstoi (1818-1910, văn sĩ Nga)

  1. Kitô hữu có được chơi cá cược và chơi cờ bạc không ?

-  Cá cược (cá độ) và cờ bạc (bài bạc) là hành vi vô luân và nguy hiểm khi người chơi làm mất đi những phương thế để sinh sống. Nó trở nên nguy hiểm hơn khi liên quan đến cuộc sống của người khác, nhất là những người trông cậy vào sự săn sóc của mình. (con cái trông cậy cha mẹ...)

  • Thật là điều cực kỳ đáng trách về mặt đạo đức khi đem số tiền kếch sù để chơi cờ bạc cá cược đang khi có người thiếu cả những cái cần thiết để sống. Vả lại, những trò chơi cờ bạc có nguy cơ làm cho con người đâm ghiền và nô lệ nó nặng nề.

  • Một nguời giàu nhiều khi chỉ là “một người nghèo” có nhiều tiền bạc. Aristote

  1. Có được phép mua bán con người không?

- Không được buôn bán con người hoặc bộ phận con người, và cũng không được bán mình như một món hàng. Con người thuộc về Thiên Chúa, đã ban cho có tự do và nhân phẩm. Ngày nay, thường có chuyện mua bán con người, không phải chỉ trong việc mãi dâm mà thôi. Thực là chuyện rất đáng khiển trách.[2414]

  • Việc buôn bán các bộ phận hoặc bào thai để làm kỹ nghệ sinh học, buôn bán trẻ em để làm con nuôi, tuyển mộ trẻ em làm lính, mãi dâm, tất cả đều được buôn bán, từ xa xưa như trái đất, buôn bán con người và buôn bán nô lệ lại tái xuất hiện với nhiều hình thức ngày nay. Những việc buôn bán này cướp lấy của con người sự tự do, phẩm giá, tự do ý chí, và sự sống của họ cách nào đó. Đó là làm cho họ đi vào tình trạng của đồ vật, để thành nguồn lợi nhuận cho những người buôn bán. Ở đây cũng phải nói đến việc mua hay bán cầu thủ bóng đá hoặc các môn thể thao khác, mặc dầu sự thực việc chuyển nhượng được thực hiện với sự đồng ý hoàn toàn của các đương sự.

  • Trước những hành vi độc ác của tư bản chủ nghĩa hạ giá con người xuống loại hàng hóa, mắt chúng ta mở ra để thấy những nguy hiểm do của cải giàu sang và chúng ta hiểu đựơc cách mới mẻ hơn điều Chúa Giêsu muốn nói khi phải canh chừng đối với tiền bạc, đối với thần Mammon đã tiêu diệt con người và đã dùng nanh vuốt tham lam kinh khủng bóp chết cả phần lớn thế giới. Đức Bênêđictô XVI, Đức Giêsu thành Nadaret

  • Khoảng 12,3 triệu người phải làm nô lệ cho việc cưỡng bách lao động. Khoảng 2,4 triệu người làm nạn nhân cho việc buôn bán con người. Lợi nhuận tổng cộng khoảng 10 tỉ đôla. Thống kê của tổ chức quốc tế về lao động cho năm 2005.

  1. Phải đối xử với vạn vật được sáng tạo thế nào?

- Ta làm tròn sự ủy nhiệm của Chúa trong sáng tạo của Người khi ta tôn trọng và tuân giữ lâu bền trái đất như không gian sinh sống, với các luật lệ chi phối sự sống, sự khác biệt của các loài, vẻ đẹp thiên nhiên, những của cải trái đất sản xuất, để cho các thế hệ tương lai cũng có thể sinh sống tốt đẹp trên hành tinh của ta. [2415]

  • Sách Sáng thế nói rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở và hãy đầy dẫy trên đất, và hãy bá chủ nó. Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất.”(St 1, 28). Hãy “trị trên đất” không thể hiểu là con người có quyền tuyệt đối sử dụng tùy tiện cái thế giới hữu sinh và vô sinh này, các động vật và thực vật. Còn về chuyện “được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa” thì đòi hỏi con người phải lo tôn trọng sự sáng tạo của Thiên Chúa, là Đấng chăn dắt và quản lý sự sáng tạo đó. Bởi vì Chúa cũng nói: Thiên Chúa đem người đặt vào vườn Eden để nó canh tác và gìn giữ (St 2, 15).  42-50,57

  • Bạn dấn thân cách chính đáng để tôn trọng sự lành mạnh của môi trường, của cây cối và súc vật. Bạn cũng hãy đồng ý thẳng thắn hơn để tôn trọng sự sống con người, vì trong trật tự của sáng tạo, con người trổi vượt xa các thực tại được tạo dựng trong thế giới hữu hình. Đức Gioan Phaolô II, 8-9-1985

  • Kinh nghiệm cho ta thấy, sự vô tâm đối với môi trường chung quanh luôn có hại cho sự sống chung của con người, không thể nào tránh khỏi. Điều đó luôn chứng tỏ rằng, sự bình an đối với thiên nhiên, và bình an giữa con người luôn luôn có một quan hệ không thể phân ly được. Đức Bênêđictô XVI, 1-1-2007

  1. Phải đối xử với các loài vật thế nào?

- Các loài vật cũng như ta, là tạo vật Thiên Chúa dựng nên. Ta cần để ý chăm sóc chúng, vui có chúng như Thiên Chúa vui trong các thụ tạo của Người. [2416-2418, 2456-2457]

  • Các loài vật cũng là loại thụ tạo có cảm giác. Hành hạ chúng và đánh đập chúng đau, giết chúng vô cớ đều là tội. Tuy nhiên không ai được yêu loài vật hơn là yêu người thân cận.

  1. Tại sao Hội thánh có những học thuyết riêng về xã hội ?

- Vì mọi người đều là con cái Thiên Chúa, đều có một phẩm giá ngang nhau, nên Hội thánh có những học thuyết riêng cho con người, để phẩm giá họ được tôn trọng. Hội thánh công nhận quyền tự trị của chính trị và kinh tế, tuy nhiên, khi chính trị và kinh tế xâm phạm  đến phẩm giá của con người thì Hội Thánh phải can thiệp. [2419-2420, 2422-2423]

  • Những vui mừng và hy vọng, những buồn sầu và lo lắng của con người thời nay, nhất là của người nghèo, cũng là những vui mừng và hy vọng, những buồn sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô. (Công đồng Vatican II, Hiến chế Vui mừng và Hy vọng, mở đầu). Học thuyết xã hội của Hội thánh lấy câu này để áp dụng cụ thể. Hội thánh đặt câu hỏi: làm thế nào chúng ta gắn kết trách nhiệm của chúng ta để làm cho mọi người sống sung túc và được đối xử công bằng, kể cả những người không phải Kitô hữu? Quan niệm sống về đời sống cộng đồng giữa mọi người, về các thể chế chính trị, kinh tế và xã hội cốt tại gì? Đường lối hướng dẫn Hội thánh dấn thân cho hòa bình là tình yêu người, đặt nền móng trên tình yêu Chúa Kitô đối với nhân loại.

  1. Học thuyết xã hội của Hội thánh phát triển thế nào ?

- Học thuyết xã hội của Hội thánh phát triển vào thế kỷ XIX, để đáp ứng vấn đề giữa chủ nhân và công nhân. Kỹ nghệ hóa dẫn đến gia tăng thịnh vượng, nhưng giới chủ nhân lợi dụng để gia tăng lợi tức, còn giới công nhân trở nên nghèo khổ, mất hết quyền lợi. Từ tình huống này, lý thuyết Cộng sản ra đời, họ cho rằng không thể dung hòa giữa 2 tầng lớp công nhân  lao động và chủ nhân tư bản, nên phải có đấu tranh giai cấp để giải quyết. Ngược lại, Hội thánh cổ vũ một sự cân bằng xã hội chính đáng giữa lợi tức của giới công nhân và chủ nhân. [2421]

  • Hội thánh đã can thiệp để tất cả giới công nhân chứ không phải chỉ một số chủ nhân, có thể cùng được hưởng một hình thức sung túc mới nhờ việc kỹ nghệ hóa và cạnh tranh kinh tế. Hội thánh chấp thuận việc thành lập các nghiệp đoàn và đòi hỏi Nhà Nước phải bảo vệ giới thợ thuyền khỏi bị khai thác bằng các luật và phải có một hệ thống an ninh xã hội, để bảo đảm cho thợ và gia đình họ trong trường hợp bệnh tật và nghèo khổ.

  • Tư bản không thể thiếu nhân công, nhân công không thể thiếu tư bản. Chủ không thể thiếu thợ, thợ không thể thiếu chủ. Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, TĐ Rerum novarum, 1891

  1. Kitô hữu có buộc can thiệp vào các việc chính trị và xã hội không ?

- Đây là một nhiệm vụ đặc biệt của người giáo dân Công giáo. Giáo dân can dự vào việc chính trị, kinh tế, xã hội, phù hợp với tinh thần của Phúc âm: bác ái, sự thật, công bằng. Học thuyết xã hội của đạo Công giáo đã cung cấp những chỉ thị rõ ràng về vấn đề này. [2442]

  • Dấn thân vào một đảng chính trị không phù hợp với nhiệm vụ của giám mục, linh mục và tu sĩ. Các ngài phải lo phục vụ tất cả cộng đồng.

  • Thật là thích hợp để nhấn mạnh đến vai trò nổi bật thuộc về giáo dân, cả nam lẫn nữ...Chính nhiệm vụ của họ đã làm sôi động lên các thực tại trần thế bằng việc dấn thân Kitô hữu, qua đó, họ tỏ ra rằng, họ là những chứng nhân và tác nhân của công lý và hòa bình. Chân phước Gioan Phaolô II, Sollicitudo rei socialis

  1. Hội thánh nói gì về dân chủ ?

- Hội Thánh hỗ trợ dân chủ, vì đó là hệ thống chính trị  có điều kiện tốt nhất để người dân được bình đẳng trước pháp luật và quyền con người được bảo đảm. Nhưng dân chủ thực sự không phải chỉ do đa số nắm quyền tối cao, dân chủ chỉ có thể có, khi Nhà Nước công nhận những quyền căn bản Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người, và Nhà Nước phải bảo vệ những quyền ấy, nếu cần Nhà Nước phải chống lại quyết định của đa số. [1922]

  • Lịch sử dạy rằng ngay dân chủ cũng không đem lại sự bảo vệ tuyệt đối chống lại những xâm phạm đến quyền con người và phẩm giá con người. Dân chủ luôn có nguy cơ biến đổi thành độc tài của đa số trên thiểu số. Dân chủ tự nó không thể bảo đảm những nguyên tắc chi phối sự có mặt của nó. Vì thế Kitô hữu phải đặc biệt quan tâm để người ta không làm xói mòn các giá trị mà không có nó dân chủ không thể bền vững đựơc.

  • Nền dân chủ không đúng cách, sẽ dễ trở nên chủ nghĩa độc tài méo mó, có khi công khai có khi ngấm ngầm. Chân phước Gioan Phaolô II, Centesimus Annus

  1. Hội thánh có lập trường thế nào về chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường ?

- Chủ nghĩa tư bản không cắm rễ sâu trong hệ thống chính đáng của các giá trị thì có nguy cơ không nhắm đến công ích mà chỉ nhắm tới lợi tức cá nhân. Hội thánh dứt khoát từ bỏ thuyết này. Hội thánh ủng hộ thuyết kinh tế thị trường, nó nhắm tới phục vụ mọi người, điều chỉnh mọi thứ độc quyền và cung cấp cho mọi người có việc làm và có những hàng hóa cần thiết. [2426]

  • Học thuyết xã hội của Hội thánh đánh giá cao mọi việc kinh doanh của con người để phục vụ “công ích”, nghĩa là “tất cả những gì giúp cho các cá nhân, các gia đình, và tất cả các nhóm xã hội đạt tới hoàn thành cách sung mãn” (Công đồng Vatican II Hiến chế Vui mừng và Hy vọng). Đối với kinh tế cũng vậy, nó cần phát triển trước hết nhằm phục vụ con người.

  • Một chủ nghĩa tư bản không có nhân đạo, không có tình liên đới cũng không có công bằng thì vừa chẳng có đạo đức, vừa chẳng có tương lai. Hồng y Reinhard Max (1953- , tổng giám mục Munich và Freising)

  • Việc khám phá các tài nguyên, các tài trợ vốn, việc sản xuất, tiêu thụ và tất cả những giai đoạn của chu kỳ kinh tế đều không thể thoát ra khỏi những đòi hỏi của luân lý. Do đó mà mọi quyết định về kinh tế đều có hệ quả đến luân lý. Đức Bênêđictô XVI, Bác ái trong chân lý 37

  1. Bổn phận của nhà quản lý và lãnh đạo xí nghiệp là gì?

-  Bổn phận các nhà lãnh đạo xí nghiệp là, ngoài những lợi tức hợp pháp cho mình và cho xí nghiệp, họ còn có trách nhiệm để ý đến lương chính đáng cho người thợ, người thầu lại, khách hàng, cũng không bỏ quên những đòi hỏi của xã hội và của môi trường xung quanh. [2432]

  • Không con người nào sẽ tuyên bố rằng mình sẵn sàng hành động như vua Sisyphe (trong thần thoại Hy Lạp có chuyện vua Sisyphe phạm nhiều tội ác bị phạt phải đẩy một khối đá lên đỉnh núi, nhưng khối đá đã không bao giờ lên nổi). Pierre Teilhard de Chardin, (1881-1955, dòng Tên)

  1. Hội thánh nói gì về lao động và thất nghiệp ?

- Lao động là bổn phận Thiên Chúa giao cho con người để tiếp tục bổn phận của con người. Thiên Chúa đặt con người vào trong vườn địa đàng để con người trông coi và làm việc (St 2,15). Đối với hầu hết mọi người, làm việc là phương thức để kiếm sống. Thất nghiệp là một bất hạnh nặng nề cần phải được giải quyết.

  • Hiện nay nhiều người muốn lao động nhưng không kiếm được việc làm, nhiều người khác phải lao động đến nỗi không còn thì giờ dành cho Thiên Chúa cũng như cho người thân cận. Trong khi nhiều người chỉ có đồng lương không đủ nuôi sống gia đình, nhiều người khác lại kiếm được quá nhiều tiền đến nỗi sống xa hoa không tưởng tượng được. Lao động tự nó không phải là cùng đích, lao động phải góp phần thực hiện một xã hội xứng đáng với con người. Học thuyết xã hội của Hội thánh ca tụng một trật tự kinh tế mà tất cả mọi người có thể tham dự cách tích cực và có được phần sung túc cho họ. Hội thánh đòi hỏi cho mọi người có lương chính đáng để mỗi người có cuộc sống xứng đáng và Hội thánh thúc giục người giàu thực hành nhân đức tiết độ và chia sẻ với tình liên đới. 

    tải về 0.52 Mb.

    Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương