ĐỜi sống trong chúa kitô (câu 279 468)



tải về 0.52 Mb.
trang3/8
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích0.52 Mb.
#10744
1   2   3   4   5   6   7   8
449

  • Học thuyết xã hội của Hội thánh là giáo huấn của Hội thánh tổ chức đời sống xã hội và về việc tôn trọng công bằng cá nhân cũng như xã hội. Nó gồm bốn nguyên tắc chính: phẩm giá con người, công ích, tính liên đới, và sự bổ trợ.

  • Công bằng hôm nay là bác ái hôm qua; bác ái hôm nay là công bằng ngày mai. Chân phước Etienne Michel Gillet (1758–1792, linh mục tử đạo)

  • Hội thánh đánh giá hệ thống dân chủ là hệ thống bảo đảm cho các công dân tham gia việc chọn lựa chính trị, và bảo đảm cho người chịu cai trị khả năng chọn lựa và kiểm soát những nhà cai trị, hoặc khả năng thay thế các nhà cai trị một cách hòa bình, khi công việc đó thuận tiện. Đức Gioan Phaolô II, thông điệp 100 năm

  1. Quyền bính trong xã hội nên dựa trên căn bản nào?

-  Mọi xã hội đều cần để trật tự, sự nối kết và phát triển của mình được đòi hỏi và bảo đảm bởi một quyền bính hợp pháp. Sự cần có một quyền bính này dựa trên bản tính con người được Thiên Chúa tạo dựng [1897-1902, 1918-1919, 1922]

  • Chắc chắn không người nào có thể đòi cho mình quyền được thi hành quyền bính trong xã hội nếu không được trao ban cho. Người quản trị và lo tôn trọng hiến pháp phải tùy thuộc vào quyết định của công dân. Hội thánh không áp đặt một hình thức Nhà Nước nào, nhưng chỉ tuyên bố rằng hình thức đó phải không nghịch với công ích.

  • Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.
    Cv 5,29

  • Không có xã hội nào mà không có cấp xét xử cao nhất. Aristote

  1. Khi nào gọi là quyền bính hợp pháp?

- Quyền bính gọi là hợp pháp khi nó hành động cho công ích và áp dụng những phương pháp công bằng để đạt đích. [1903-1904,1921]

  • Công dân phải có quyền hãnh diện vì được sống trong một “Nhà Nước có pháp quyền” mà các luật đều được chấp nhận cho mọi người về mặt đạo đức. Không ai bị bó buộc vâng theo những luật lệ độc tài hay bất công, hoặc trái với trật tự luân lý tự nhiên. Nếu không, người ta có quyền, có khi có bổn phận phải chống đối.

  • Công ích. Công ích là điều tốt lành cho hết mọi người. Công ích gồm “toàn bộ những điều kiện xã hội cho phép một nhóm cũng như mỗi cá nhân của nhóm đạt tới sự hoàn thiện của mình một cách toàn bộ và dễ dàng. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng số 26

  1. Công ích được thực hiện thế nào ?

- Công ích được thực hiện khi những quyền lợi nền tảng của con người được tôn trọng, và khi con người được tự do phát triển về trí thức và tôn giáo của mình. Công ích đòi hỏi rằng con người có thể sống trong tự do, hòa bình, yên ổn. Trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày nay, công ích phải bao trùm ra cả thế giới để bảo vệ các quyền lợi và bổn phận của cả nhân loại. [1907-1912, 1925, 1927]

  • Công ích được tôn trọng khi người ta đặt trọng tâm vào việc lo điều tốt cho mỗi cá nhân và cho những đơn vị nhỏ nhất trong xã hội (chẳng hạn gia đình). Cá nhân hay gia đình đều cần được nâng đỡ và bảo vệ bởi những thể chế chính trị.

  • Phải lo công bằng và nhân đạo cho tất cả mọi người. Công đồng Vatican II, Phẩm giá con người.

  1. Cá nhân có thể góp phần cho công ích thế nào ?

- Góp phần cho công ích có nghĩa là đảm nhiệm trách nhiệm đối với người khác. [1913-1912,1925,1927]

  • Công ích phải lo công việc của mọi người. Vì thế trước hết phải lo dấn thân và đảm nhận những trách nhiệm đối với người thân cận mình – gia đình, lối xóm, nghề nghiệp. Cũng cần phải đảm nhận những trách nhiệm xã hội và chính trị. Vì thế mỗi người có trách nhiệm đều có một quyền và luôn có nguy cơ lạm dụng quyền. Do đó con người luôn được mời gọi không ngừng hoán cải và đổi mới, để thi hành việc quan tâm đến người khác trong tinh thần luôn công bằng và bác ái.

  • Khi ngươi làm việc gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là ngươi làm cho Ta đó. Mt 25,40

  • Không ai có thể nói như Cain «tôi vô trách nhiệm với số phận người em». Chân phước Gioan Phaolô II

  • Hãy kính trọng tiếng tốt của kẻ thù anh em.
    Thánh Gioan Vianney

  • Mọi người phải quan tâm đến sự sống và những phương tiện cần thiết giúp đồng loại sống một đời sống xứng đáng. Hiến chế Vui mừng và Hy vọng 27,1

  1. Trong xã hội, làm thế nào để có công bằng xã hội ?

-  Công bằng xã hội chỉ có được khi phẩm giá mỗi người được tôn trọng, nghĩa là quyền lợi của họ được công nhận và tôn trọng và mỗi người có thể tham gia tích cực vào đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa trong xã hội. [1928-1933, 1943-1944]

  • Nền tảng của mọi công bằng là tôn trọng phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, mà Đấng Tạo hóa đã trao cho để bảo vệ, và tất cả mọi người nam nữ ở mọi thời đại trong lịch sử đều là người mắc nợ buộc phải trả theo đúng nghĩa (Đức Gioan Phaolô II, Quan tâm đến xã hội 1987). Từ phẩm giá con người phát sinh trực tiếp ra các quyền của con người mà không một Nhà Nước nào có thể hủy bỏ hoặc thay đổi. Những Nhà Nước hoặc nhà chỉ huy nào dẫm lên các quyền đó đều là các chế độ bất hợp pháp và họ mất quyền bính của họ. Còn về sự hoàn thiện mà xã hội loài người nào cũng khao khát, nó không thể đạt được bằng các luật lệ, nhưng chỉ đạt được bằng tình yêu người thân cận, khi mà hết mọi người không trừ ai “đều coi người khác như “cái tôi thứ hai” (Hiến chế Vui mừng và Hy vọng 27,1). → 280

  • Tất cả khoa học và nghệ thuật đều tìm kiếm một điều tốt rất lớn, nhưng điều quan trọng hơn tất cả là khoa học chính trị: mục đích tối cao của nó là công bằng; mà công bằng cốt tại thực hiện công ích. Aristote

  1. Mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa thế nào ?

-  Mọi người bình đẳng trước Thiên Chúa, vì mọi người đều do một Thiên Chúa tạo thành, mọi người là "hình ảnh Chúa", có linh hồn, biết suy luận, có cùng một Đấng Cứu chuộc. [1934-1935, 1945]

  • Vì mọi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa, nên mỗi người xét như ngôi vị, đều hưởng một phẩm giá như nhau, và mỗi người phải được sử dụng những quyền lợi như nhau. Vì thế mọi hình thức kỳ thị trong xã hội, kỳ thị chủng tộc, giới tính, văn hóa hoặc tôn giáo đều là một bất công không chấp nhận được.

  • Con người không thể vừa thờ Chúa và đồng thời khinh dể người thân cận mình, cả hai cách không thể dung hòa được. Mahatma Gandhi

  • Chúa nói: Ta muốn người này cần người kia, và mọi người là người thừa hành của Ta để phân phát các ơn, các quà tặng, chúng đã nhận được nơi Ta. Thánh Catarina Siena

  1. Tại sao trong loài người lại có những sự bất bình đẳng?

- Mọi người đều có phẩm giá như nhau, nhưng lại không có những điều kiện sinh sống như nhau. Những bất bình đẳng là do xã hội loài người gây ra và đều nghịch Phúc Âm. Thiên Chúa ban cho con người những ơn phúc và tài năng khác nhau, Chúa mời gọi họ chia sẻ cho nhau. Trong tình bác ái, người này phải chia cho người kia những gì họ còn thiếu thốn. [1936-1938,1946-1947]

  • Có một thứ bất bình đẳng giữa con người, không phải do Thiên Chúa mà do những điều kiện kinh tế và xã hội, nhất là do sự phân phối trên thế giới không đều nhau về các nguyên liệu, các của cải và vốn. Thiên Chúa chờ đợi ta để ta làm biến mất khỏi thế giới tất cả những gì trái nghịch công khai với Tin Mừng, và coi thường phẩm giá con người. Nhưng cũng có sự bất bình đẳng giữa con người tương ứng với kế hoạch của Thiên Chúa như bất bình đẳng về tài năng, về điều kiện lúc ban đầu, về khả năng. Thiên Chúa muốn như vậy để ta biết rằng làm người có nghĩa là để « cho và vì » người khác, để yêu mến họ, để chia sẻ, để phục vụ sự sống. → 61

  • Bạn là Kitô hữu, bạn đang có sẵn một tư liệu gồm khá nhiều thuốc nổ để làm cho cả cái văn minh này nổ tung ra, để làm cho thế giới không còn trên dưới, để mang lại hòa bình cho thế giới bị xé nát vì chiến tranh. Nhưng các bạn lại đối xử với tư liệu đó chỉ như một tác phẩm văn chương mà thôi, và thế là hết. Mahatma Gandhi (1869–1948, hướng dẫn tinh thần cho phong trào độc lập của Ấn Độ, sáng lập phong trào bất bạo động)

  • Hãy thương người nghèo, và đừng quay lưng lại với họ, nếu bạn quay lưng với người nghèo là bạn quay lưng với Chúa Kitô. Người làm cho mình thành người đói, người ở trần, người không nhà, để các bạn và tôi có dịp yêu Người. Mẹ Têrêsa Calcutta

  1. Kitô hữu nên tỏ tình liên đới với những người khác như thế nào ?

- Kitô hữu dấn thân cho những cơ cấu xã hội công bằng để giúp cho mọi người được hưởng những lợi ích vật chất và tinh thần của thế giới. Kitô hữu cũng quan tâm để trong lao động phẩm giá con người phải được tôn trọng, nghĩa là họ được trả lương công bằng. Việc truyền đạt đức tin cho họ cũng là hành vi liên đới với mọi người.

  • Người ta nhận ra Kitô hữu dựa theo việc họ thực thi tình liên đới. Quả thật, liên đới không phải chỉ là một hành vi mà lý trí đòi hỏi. Chúa Giêsu Kitô đã hoàn toàn đồng hóa chính mình với người nghèo và bé nhỏ (Mt 25,40). Từ chối liên đới với họ là loại bỏ Chúa Kitô.

  • Ai có hai áo hãy chia cho người không có, và ai có đồ ăn cũng chia như vậy. Lc 3,11

  • Nguyên tắc của liên đới là nguyên tắc của học thuyết xã hội của Hội thánh, nó dựa theo đòi hỏi của tình huynh đệ giữa mọi người, và nó nhắm tới thiết lập một nền “văn mình tình yêu”. Đức Gioan Phaolô II

  • Không gì thuộc về ta cho đến khi ta chia nó đi.
    C.S Lewis

  1. Có luật tự nhiên nào mà mọi người đều có thể biết không?

- Người ta phải làm lành lánh dữ, là vì những điều đó đã được ghi khắc rõ ràng và chắc chắn trong tâm rồi. Mọi người đều có thể dùng lý trí mà nhận ra cái luật luân lý được coi là tự nhiên đó. [1949-1960,1975,1978-1979]

  • Luật luân lý tự nhiên. Tất cả các văn minh và văn hóa đều có nhiều nguyên tắc khác nhau giúp sống chung với nhau, đó là những biểu lộ của cùng một bản tính nhân loại do ý muốn Đấng Tạo hóa, và do sự khôn ngoan về luân lý của nhân loại, nó được gọi là luật tự nhiên. Đức Bênêđictô XVI, Bác ái trong sự thật.

  • Luật luân lý tự nhiên có giá trị cho mọi người. Nó chỉ dẫn cho con người về những bổn phận và quyền lợi căn bản họ có, nhờ đó nó trở thành nền tảng thực sự cho cuộc sống chung trong gia đình, xã hội và quốc gia. Con người cần Chúa giúp đỡ và mặc khải để đứng vững trên đường ngay lành, bởi vì do tội lỗi và sự yếu đuối của con người, nên con người thường chỉ nhận ra luật tự nhiên một cách không rõ ràng.

  • Đấng Tạo Hóa đã ghi vào sâu trong mỗi người “luật tự nhiên”, là phản ánh chương trình của Người trong lòng ta, như là chỉ dẫn và chừng mực trong đời sống ta. Đức Bênêđictô XVI 27-5-2006

  1. Luật tự nhiên và luật Cựu ước liên kết với nhau thế nào ?

- Luật Cựu ước diễn tả những sự thật mà lý trí có thể biết một cách tự nhiên, và những sự thật đó được mặc khải và chính thức công nhận như Luật của Chúa. [1961-1963,1981]

  • Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm, một phết trong lề luật cũng không thể qua đi được cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời. Mt 5,19

  • Thiên Chúa đã viết Luật trên bảng đá thế mà con người lại không đọc thấy trong lòng họ. Thánh Augustinô

  1. Luật Cựu Ước quan trọng thế nào ?

- Trong Luật Cựu Ước và nhất là 10 điều răn, Thiên Chúa tỏ ý Người cho dân Israel là nếu tuân giữ, họ sẽ được cứu rỗi. Kitô hữu biết rằng họ phải giữ Luật, nhưng cũng biết rằng không phải Luật cứu độ họ. [1965-1972, 1977, 1983-1985]

  • Theo kinh nghiệm, mỗi người cảm thấy như mình được “khuyên bảo” làm điều tốt. Nhưng ta thường thiếu sức mạnh để hoàn thành, vì khó quá, vì ta thấy mình yếu đuối (xem Rm 8,3 và Rm 7,14-25). Ta thấy cái phải làm, nghĩa là Luật Cựu Ước, nhưng lại cảm thấy muốn phạm tội. Chính nhờ sự hiểu biết này về Luật cũ chứng tỏ cho ta, ta cần có một sức mạnh bên trong để hoàn thành. Vì thế, Luật Cựu Ước dù tốt và quan trọng cũng chỉ có để sửa soạn cho ta sống bằng đức tin với Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ ta, như Người được mặc khải trong Tin Mừng.  349

  • Luật cũ là tiên báo và thầy dạy về các thực tại tương lai. Thánh Irênê ở Lyon.

  1. Chúa Giêsu coi Luật Cựu Ước có giá trị thế nào ?

- Chúa nói trong bài giảng trên núi: "Ta không đến hủy bỏ Luật, và các tiên tri, nhưng để làm hoàn tất" (Mt 5,7) [1965-1972, 1977, 1983-1985]

  • Chúa Giêusu đã sống như một người Do Thái có lòng tin hoàn toàn theo quan niệm và các quy định của thời Người. Nhưng qua một chuỗi suy nghĩ, Người rời xa lối giải thích Luật theo nghĩa đen và chỉ vụ hình thức.

  1. Chúng ta được cứu rỗi thế nào ?

- Không ai có thể tự cứu rỗi mình. Đối với chúng ta, cứu rỗi nghĩa là được giải thoát khỏi quyền lực tội lỗi, đem con người từ lãnh vực sự chết tới sự sống vô tận, sự sống trước nhan Thiên Chúa. Kitô hữu tin rằng họ được Chúa cứu rỗi vì Chúa đã sai Con của Người xuống trần và đổ tràn Thánh Thần của Người trên chúng ta. [1987-1995, 2017-2020]

  • Thánh Phaolô thấy rằng: “Mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa” (Rm 3,23). Trước Thiên Chúa là Đấng công chính và tốt lành tuyệt đối thì tội không thể có mặt được. Nhưng nếu tội chỉ có cho hư vô thì tội nhân là gì? Thiên Chúa tình yêu đã tìm ra con đường nhờ đó Người phá hủy tội, nhưng cứu tội nhân. Người làm cho tội nhân lại trở nên “đàng hoàng”, nghĩa là trở nên công chính. Vì thế, xưa nay ta gọi cứu độ là công chính hóa. Ta không trở nên công chính do sức lực riêng của ta. Không ai có thể tự mình tha tội cho mình, cũng như tự mình thoát khỏi chết. Vì thế, Thiên Chúa cần hành động để ủng hộ ta, Người làm như vậy chỉ vì lòng thương xót thuần túy mà thôi, không phải vì ta có thể xứng đáng được hưởng. Nhờ bí tích rửa tội, Thiên Chúa tặng cho ta sự công chính của Thiên Chúa nhờ lòng tin của ta vào Chúa Giêsu Kitô (Rm 3,22). Nhờ sức mạnh của Thánh Thần được phú ban trong lòng ta, ta tham dự vào sự chết và sống lại của Chúa Kitô: ta chết cho tội và sinh ra cho đời sống mới trong Thiên Chúa. Ta đến từ Thiên Chúa, đức tin, cậy, mến chiếm lấy ta và làm cho ta có thể sống trong ánh sáng cũng như sống phù hợp với ý Chúa.

  • Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ, đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa;  cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Ep 2,8-9

  • Sự công chính hóa. Đây là ơn-ban trung tâm của “học thuyết về ân sủng”. Ơn-ban này tái lập một quan hệ chính đáng giữa Thiên Chúa và con người. Vì chỉ Chúa Giêsu Kitô mới có thể ban cho mối quan hệ chính đáng này (sự công chính), nên ta chỉ trở lại được với Thiên Chúa nhờ được “công chính hóa” bởi Chúa Kitô, nghĩa là được vào trong quan hệ hoàn hảo với Thiên Chúa. Như vậy tin là đón nhận sự công chính của Chúa Kitô nơi bản thân và nơi cuộc đời mình.

  1. Ơn thánh là gì ?

- Ơn thánh là sự ân cần tự ý và đầy yêu thương của Chúa, là sự giúp đỡ tốt lành của Người, là sức sống từ Người mà đến. Qua thập giá và sự sống lại, Chúa tận tình hiến trọn cho ta, và thông truyền cho ta. Ơn thánh là tất cả những gì Chúa ban cho ta, không do chút công lao nào của ta cả. [1996-1998, 2005, 2021]

  • Đức Bênêđictô XVI nói rằng ân sủng là được Thiên Chúa nhìn đến, là được tình Chúa yêu ta chạm đến. Ân sủng không phải là một sự vật, mà là chính Thiên Chúa tự thông ban cho con người. Cái Chúa ban không phải là kém hơn chính mình Người. Trong ân sủng ta được ở trong Thiên Chúa.

  • Chúa không bao giờ ban ít hơn chính Người. Thánh Augustinô

  1. Ơn thánh Chúa làm gì cho ta ?

- Ơn thánh đưa ta vào đời sống thân mật của Thiên Chúa Ba Ngôi, vào trong sự trao đổi Tình yêu giữa Cha, Con và Thánh Thần. Ơn thánh giúp ta sống trong Tình yêu Chúa và hành động nhờ Tình yêu này. [1990-2000, 2003-2004, 2023-2024]

  • Ân sủng từ trên đến với Ta, ân sủng được phú ban cho linh hồn, và không do các nguyên nhân “tự nhiên” (ta gọi là ân sủng siêu nhiên). Có ơn làm ta trở thành con cái Thiên Chúa “nhất là do ơn của bí tích Rửa tội”, và được thừa kế Nước Trời “đây là ơn thánh hóa hoặc thần hóa”. Có ơn giúp ta kiên trì làm điều tốt “ơn thường sủng”. Có ơn giúp ta phân định, muốn và làm tất cả những gì dẫn đến sự tốt, dẫn đến Thiên Chúa và dẫn về trời (ơn hiện sủng). Ơn này được ban đặc biệt trong các bí tích, đó là nơi tốt nhất mà ý Chúa cho ta gặp gỡ Chúa (ơn bí tích). Ân sủng cũng được bày tỏ ra đặc biệt cho một số người (gọi là đặc sủng), hoặc có thể là những sức chuyên biệt kèm theo các phận vụ như lập gia đình, chịu chức thánh, và tu dòng (ơn tùy phận vụ).

  • Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh? 1Cr 4,7

  • Tất cả là hồng ân. Thánh Têrêsa Hài Đồng

  • Quá khứ của tôi không liên can đến tôi nữa, nó thuộc về lòng thương xót Chúa. Tương lai của tôi chưa liên can đến tôi, nó thuộc về Chúa quan phòng. Điều liên can đến tôi, điều thử thách tôi là hôm nay, nó thuộc về ơn Chúa và về sự dâng hiến của lòng tôi và thiện chí của tôi. Thánh Phanxicô Salêsiô

  1. Ơn thánh Chúa và tự do của ta liên quan thế nào ?

- Ơn thánh Chúa luôn tôn trọng tự do của con người, nó khơi gợi và mời gọi con người đáp lại hoàn toàn tự do. Ơn thánh không ép buộc, tình yêu Chúa muốn con người tự ý chấp nhận. [2001-2002,2022]

  • Ta luôn có thể từ chối ân sủng. Ân sủng không phải cái gì ở bên ngoài, xa lạ với con người, thật sự ân sủng là điều mà tự do của con người khao khát rất sâu xa. Ân sủng chạm đến trong ta là để Thiên Chúa đi trước và ta tự ý đáp lại.

  • Đức Maria nói: Đây tôi là tôi tá Chúa, tôi "xin vâng" như lời thiên thần dạy. Lc 1,38

  • Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa,  nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu. Rm 3,23-24

  • Thánh thiện không phải là chuyện xa xỉ cho một số người, nhưng đơn giản là bổn phận của bạn và của tôi. Mẹ Têrêsa Calcutta

  1. Người ta có thể nhờ làm việc lành mà lên Thiên đàng không ?

- Không. Không ai có thể lên Thiên đàng chỉ nhờ cố gắng của mình. Chúng ta được cứu độ chỉ nhờ ơn Chúa mà thôi, tuy nhiên, ơn Chúa đòi sự cộng tác tự do của mỗi cá nhân. [2006-2011, 2025-2027]

  • Dầu chỉ nhờ ân sủng và đức tin mà ta được cứu rỗi, thì vẫn còn cần đến tình yêu ta, được thúc đẩy bởi tác động của Chúa, bày tỏ qua các việc lành.

  • Chúa không đòi ta những công việc lớn, mà đơn giản là ta hiến mình cho Chúa và tạ ơn Người. Người không cần việc làm của ta nhưng chỉ cần duy nhất là tình yêu của ta. Thánh Têrêxa ở Lisieux

  1. Mọi người chúng ta có thể nên "thánh" được không ?

- Có chứ. Mục đích cuộc sống là kết hợp với Thiên Chúa trong tình yêu và hoàn toàn sống như ý Chúa muốn. Chúng ta cần để "Chúa sống trong ta" (Mẹ Têrêsa Calcutta). Ông thánh, bà thánh là thế đó. [2012-2016, 2018-2024]

  • Mọi người đều đặt câu hỏi: Tôi là ai? Tại sao tôi lại ở đây? Và tương lai của tôi là gì? Đức tin trả lời: Chính trong việc nên thánh mà con người trở nên điều mà Chúa đã tạo dựng họ. Chính trong thánh thiện mà con người đạt tới hòa hợp với chính mình và với Đấng Tạo Hóa. Nhưng sự thánh thiện không phải là sự hoàn hảo được tự tạo mà có, nó phải là sự hiệp nhất với tình yêu đã làm người, đó là Chúa Kitô. Ai kiếm tìm cuộc sống mới đó là tìm được chính nó và trở nên thánh.

  • Không ai chọn cho mình một ơn gọi, ta phải đón nhận ơn gọi và cố gắng để nhận ra ơn gọi. Ta phải lắng nghe tiếng Chúa gọi để nhận ra một dấu hiệu của ý Chúa. Và một khi đã nhận ra ý Chúa, cần phải làm theo luôn luôn mặc dầu có thế nào và phải trả giá đắt bao nhiêu. Chân phước Charles de Foucauld

Chương 3. Hội Thánh




  1. Hội thánh giúp ta nên người tốt, và người có trách nhiệm thế nào ?

- Trong Hội thánh, ta được Rửa tội. Trong Hội thánh, ta nhận được đức Tin mà Hội thánh đã gìn giữ nguyên vẹn qua bao thế kỷ. Trong Hội thánh, ta nghe Lời Chúa và học biết sống sao cho đẹp lòng Chúa. Qua các Bí tích, mà Chúa Giêsu trao phó cho các môn đệ, Hội thánh làm cho lớn lên, củng cố và an ủi ta. Trong Hội thánh, ánh sáng của các thánh, soi sáng ta. Trong Hội thánh, Thánh lễ được cử hành, lễ hy sinh của Chúa Giêsu được thực hiện, để ban sức mạnh và đổi mới ta, để ta kết hợp với Người, trở nên Thân thể Người và sống bởi Sức của Người. Dù Hội thánh còn nhiều người yếu đuối, không ai có thể là Kitô hữu nếu ở ngoài Hội thánh. [2030-2031, 2047]

  • Yêu mến Chúa Kitô và yêu mến Hội thánh cũng chỉ là một. Thầy Roger Schutz

  1. Tại sao Hội thánh lại can thiệp vào những vấn đề luân lý và về phẩm hạnh của cá nhân ?

- Tin là con đường. Chỉ sống theo lời dạy của Tin Mừng người ta mới có thể ở lại trên con đường này, nói cách khác, là hành động theo công bằng, và sống ngay lành. Quyền giáo huấn của Hội thánh phải nhắc cho người ta về những đòi hỏi của luật luân lý tự nhiên. [2032-2040, 2049-2051]

  • Sự thật không thể nào có hai nghĩa. Điều gì là đúng đối với nhân loại không thể lại sai đối với Kitô hữu. Điều gì là đúng đối Kitô hữu không thể lại sai đối với nhân loại. Chính vì thế phận sự của Hội thánh là can thiệp cách tổng quát vào tất cả những gì liên quan đến luân lý.

  • Ngày nay Hội thánh ban Chúa Giêsu cho ta nghĩa là ban tất cả. Ta biết gì về Chúa, về liên hệ hiệp nhất ta với Chúa nếu không có Hội thánh? Hồng y Henri de Lubac (1896-1991), thần học gia Pháp

  1. Năm Điều răn của Hội thánh là điều nào?

- Một là dự lễ ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, kiêng các việc xác và hoạt động phản lại đặc tính thánh thiêng của ngày lễ đó. Hai là xưng tội trong một năm ít là một lần. Ba là chịu Mình Thánh Đức Chúa Giêsu trong mùa Phục sinh. Bốn là giữ chay, kiêng thịt những ngày Hội thánh dạy (Thứ Tư lễ Tro, thứ Sáu Tuần thánh). Năm là đóng góp cho nhu cầu vật chất của Hội thánh. [2042-2043]

  • Bạn muốn đến với đức tin nhưng bạn không biết đường? hãy học ở những ai trước bạn đã nghi ngờ như bạn. Bắt chước lại hành động của họ, làm mọi việc đức tin đòi hỏi, như bạn đã là tín hữu vậy. Đi dự thánh lễ, dùng nước thánh… điều đó chắc sẽ làm cho bạn có tấm lòng đơn sơ và dẫn bạn đến với đức tin. Blaise Pascal.

  1. Điều răn của Hội thánh có mục đích gì? Buộc những ai giữ ?

- Năm điều răn Hội Thánh cốt ý dùng những đòi hỏi tối thiểu để nhắc cho ta rằng: ta không thể là Kitô hữu nếu không tự mình cố gắng, sống theo luân lý, không tham gia cụ thể trong đời sống bí tích của Hội thánh, không sống liên đới với Hội thánh. Điều răn Hội thánh buộc mọi người Công giáo. [2041-2048]

  • Các con thân mến, đừng yêu thương bằng đầu môi chót lưỡi nhưng hãy yêu thương bằng việc làm và trong sự chân thật. 1 Ga 3,18

  1. Tại sao Kitô hữu "sống đạo đức nước đôi (hai mặt)" lại là điều thiếu sót nặng ?

- Điều kiện trước hết để loan báo Tin Mừng là sống đúng với Tin Mừng. Không thực hành điều mình tuyên xưng là giả mạo, phản lại bổn phận của Kitô hữu là "muối ướp đời" và là “ánh sáng thế gian”. [2044-2046]

  • Thánh Phaolô nhắc nhớ cho giáo đoàn Côrintô rằng: “Anh em là bức thư của Chúa Kitô được giao cho chúng tôi chăm sóc, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt tức là lòng người”(2 Cr 3,3). Các Kitô hữu là bức thư khuyên bảo của Chúa Kitô cho thế giới bằng chính cuộc sống của mình hơn là bằng lời nói. Như thế những tác hại của những phản chứng càng thêm phá hoại hơn, khi lại do các linh mục và nữ tu gây ra cho trẻ em. Họ không chỉ phạm tội vô số kể trên các nạn nhân của họ. Họ còn làm cho nhiều người nghi ngờ về lòng trông cậy nơi Chúa và làm tắt đi ánh sáng đức tin nơi nhiều người.

  • Luân lý nước đôi có ý chỉ một thứ luân lý ở nơi công cộng hay ở nơi riêng tư được người ta thực hành cách khác nhau tùy theo hoàn cảnh. Bên ngoài người đó bảo vệ những mục tiêu và những thái độ phù hợp với các giá trị. Chỗ riêng tư thì họ không tôn trọng nữa. “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thành và bằng việc làm.” 1 Ga 3,18

  • Thế giới đầy những người giảng thì giảng về nước, mà uống thì uống rượu”. Giovanni Guareschi (1908- 1968, tác giả Ý của sách Dom Camillo và Peppone)

ĐOẠN II. MƯỜI ĐIỀU RĂN

  1. "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời”?

- Chúa Giêsu nói: "Nếu anh muốn vào sự sống, hãy giữ các điều răn" (Mt 19,17). Rồi Người nói thêm: "Hãy đi theo tôi" (Mt 19, 21). [2052-2054, 2075-2076]

  • Là Kitô hữu phải sống hơn là chỉ giữ đúng các điều răn. Là Kitô hữu là duy trì mối quan hệ sống động với Chúa Giêsu. Một Kitô hữu nối kết sâu xa bằng cả bản thân mình với Chúa của mình, và cùng với Người đi theo con đường dẫn tới sự sống thật.

  • Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép. Hãy sống thánh thiện vì Ta là Đấng Thánh. 1 Pr 1,15-16

  • Chúa Kitô không muốn có những người hâm mộ, nhưng muốn có những người “sống theo”. Soren Kierkegaard

  1. Mười Điều Răn là những điều nào ?

- Mười Điều Răn là những điều được đọc trong kinh Đạo Đức Chúa Trời có mười điều răn: “Thứ nhất, thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. Thứ hai, chớ kêu Tên Đức Chúa Trời vô cớ. Thứ ba, giữ ngày Chúa nhật. Thứ bốn, thảo kính cha mẹ. Thứ năm, chớ giết người. Thứ sáu, chớ làm sự dâm dục. Thứ bảy, chớ lấy của người. Thứ tám, chớ làm chứng dối. Thứ chín, chớ muốn vợ chồng người. Thứ mười, chớ tham của người. Mười điều răn ấy tóm về hai việc: trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau là yêu người như mình ta vậy. Amen”.

  • Mười Điều răn – là bản tóm tắt đầu tiên những luật căn bản cho lối sống của con người trong Cựu Ước. Người Do thái cũng như Kitô hữu hướng dẫn đời sống mình theo bản văn căn bản này.

  1. Mười Điều răn có phải là bản danh sách do ngẫu nhiên tập hợp lại không ?

- Không. 10 Điều răn làm nên một bản thống nhất, điều nọ liên quan tới điều kia, bạn không thể tách ra từng điều. Ai phạm một điều là phạm toàn bộ Lề Luật. [2069,2079]

  • Tính đặc biệt của Mười Điều răn là nó liên quan đến toàn bộ đời sống con người. Ta là người, ta có các bổn phận đối với Thiên Chúa (điều răn 1 đến 3), và với những người chung sống (điều 4 đến 10). Ta là những người có tôn giáo và có tính xã hội.

  • Việc công thức hóa Mười Điều răn không thấy có bản văn trong Kinh Thánh: nó dựa vào hai nguồn Kinh Thánh: Xuất hành 20, 2-7 và Đệ nhị luật 5, 6-21. Từ xưa Hội thánh đã tổng hợp hai nguồn lại và đề nghị để tín hữu học trong giáo lý.

  1. Mười Điều Răn có phải lỗi thời rồi không?

- Không. Mười Điều Răn không phải là sản phẩm của thời nào đặc biệt. Nó là những bổn phận căn bản và không thể thay đổi đối với Thiên Chúa và tha nhân, có giá trị mọi nơi, mọi thời. [2070-2072]

  • Mười Điều Răn là những điều răn của lý trí, và cũng là thành phần của những điều Thiên Chúa đã mặc khải như có tính bắt buộc. Bản chất nó có tính bắt buộc, không ai có thể tự miễn trừ không phải tuân giữ.

  • Chúng ta yêu mến Chúa, vì Chúa đã yêu thương chúng ta trước. 1 Ga 4,19

  • Mười Điều Răn hoàn toàn không phải là những bổn phận do một “bạo chúa” áp đặt cách độc tài… Ngày nay và mãi mãi chỉ có các điều răn là bảo đảm cho tương lai gia đình và nhân loại. Các điều răn bảo vệ con người khỏi quyền lực phá hại của ích kỉ, của hận thù và dối trá. Chúng chỉ bảo cho con người biết tất cả những thần tượng lầm lạc bắt con người phải nô lệ: tự ái loại bỏ Thiên Chúa, ý chí ham quyền lực, mưu cầu lạc thú, làm đảo lộn trật tự chính đáng và hạ thấp phẩm giá con người và phẩm giá của người thân cận.

Chương 1


Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn

    Điều răn thứ nhất: Ta là Thiên Chúa, Chúa ngươi. Ngươi không được có thần lạ trước mắt Ta.





  1. "Ta là Thiên Chúa, Chúa ngươi" (Ex 20, 2) nghĩa là gì ?

- Vì Đấng Toàn năng đã mặc khải mình cho ta  như là Thiên Chúa và là Chúa, nên ta không được đặt bất cứ cái gì trên Người, coi cái gì quan trọng hơn Người, dành cho người và vật nào ưu tiên hơn Người. Nhận biết, phụng sự và thờ phượng Người, phải là ưu tiên tuyệt đối trong đời sống của ta. [2083-2094, 2133-2134]

  • Thiên Chúa chờ đợi ta hết lòng tin Người, đặt tất cả hy vọng vào Người, hướng tất cả tình yêu vào Người. Điều răn mến Chúa là điều quan trọng hơn hết mọi điều răn khác, và là chìa khóa của các điều răn. Vì thế Chúa là trên hết mọi người.

  • Còn phần ta, hãy yêu mến Chúa vì Chúa yêu ta trước. 1Ga 4,19

  • Khi Thiên Chúa lớn lên, con người không bị hạ thấp đâu, con người cũng được lớn lên và thế giới sáng sủa ra. Đức Bênêđictô XVI 11-09-2006

  • Ngợi khen Thiên Chúa đã cứu độ tôi. Thánh Têrêsa Avila

  1. Tại sao ta thờ phượng Thiên Chúa ?

- Ta thờ phượng Thiên Chúa vì Người hiện hữu, và khi tôn kính thờ phượng ta đáp lại việc Thiên Chúa hiện hữu và mặc khải cách xứng hợp. "Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa Chúa ngươi và chỉ phụng thờ mình Người thôi" (Mt 4,10). [2083-2094,2133-2134]
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương