I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 31 thưỜng niên năm c : CỨu những gì ĐÃ HƯ MẤT



tải về 1.13 Mb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu28.04.2018
Kích1.13 Mb.
#37535
1   2   3   4

- Chăm sóc mục vụ cho người ly dị tái hôn : không chỉ là vấn đề rước lễ:

Tiếp theo sau thông báo Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ triệu tập Thượng Hội đồng Giám mục khóa ngoại lệ vào tháng 10/2014 về chủ đề Chăm sóc mục vụ cho Gia đình, đã có những suy đoán rằng Thượng Hội đồng có thể thay đổi luật Giáo hội quy định người Công giáo đã ly dị và tái hôn không được rước lễ. Trong bối cảnh này, ngày 23/10, nhật báo LOsservatore Romano của Toà Thánh đã đăng tải một bài viết dài của Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, Đức Tổng giám mục Gerhard Ludwig Müller, nói về vấn đề tái hôn và việc lãnh nhận các bí tích.

Mở đầu bài viết nhan đề “Quyền năng của ân sủng”, Đức Tổng giám mục Müller tái khẳng định giáo huấn của Giáo hội rằng hôn nhân là bất khả phân ly, và điều này được cả Thánh Kinh và Thánh Truyền minh chứng. Ngài thừa nhận rằng ngày nay những hiểu sai về ý nghĩa của hôn nhân khiến cho có nhiều cuộc hôn nhân bất thành hơn trước đây, nhưng các cặp vợ chồng không được tự ý phán quyết rằng cuộc hôn nhân của họ có phải là vô hiệu hay không.

Đức Tổng giám mục Müller viết : “Hôn nhân không chỉ đơn giản là mối tương quan của hai người với Thiên Chúa, mà còn là một thực tại của Giáo hội, một bí tích, và không phải cá nhân có quyền phán quyết tính hợp lệ của hôn nhân, nhưng quyền ấy thuộc về Giáo hội, là cộng đoàn mà các cá nhân được tháp nhập vào nhờ đức tin và bí tích Rửa tội”.

Đức Tổng giám mục Müller nói rằng ngài biết giáo huấn ấy không hề dễ chịu, nhưng những người đã ly dị và tái hôn nên biết rằng họ không đơn độc, và Giáo hội “là một cộng đoàn của sự cứu rỗi luôn đồng hành với họ”.

“Rõ ràng, việc chăm sóc mục vụ cho người ly dị tái hôn không được giảm thiểu vào vấn đề lãnh nhận bí tích Thánh Thể, nhưng phải mở rộng hơn nhiều, và tìm cách đánh giá đúng đối với các tình huống khác nhau. Điều quan trọng là nhận ra rằng ngoài việc rước lễ còn có những cách khác nữa để ở trong mối tương giao bằng hữu với Thiên Chúa. Người ta có thể đến với Thiên Chúa bằng cách chạy đến với Người trong đức tin, đức cậy và đức mến, trong sám hối và cầu nguyện. Thiên Chúa có thể ban ơn cứu rỗi cho con người bằng nhiều cách khác nhau, ngay cả khi con người thấy mình đang sống đối nghịch [với ơn cứu rỗi]”.



- Đức Thánh Cha Phanxicô trao giải Ratzinger năm 2013 :

Hôm thứ Bảy 26/10 tại Vatican, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trao giải Ratzinger 2013 cho một nhà thần học giáo dân người Đức và một học giả Kinh Thánh người Anh thuộc Anh giáo.

Phát biểu tại buổi lễ trao giải, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập đến công trình của Đức Bênêđictô XVI, mà giải thưởng này mang tên ngài. Nhấn mạnh đến loạt tác phẩm Chúa Giêsu thành Nazareth của Đức Bênêđictô, Đức Thánh Cha Phanxicô nói vị tiền nhiệm của ngài đã trao tặng Giáo hội và cho tất cả mọi người một món quà quý giá : sự hiểu biết của ngài về Chúa Giêsu –được trình bày theo hình thức dễ hiểu–, là kết quả của nhiều năm nghiên cứu, cầu nguyện và dấn thân trong lĩnh vực thần học.

Hai người được trao giải Ratzinger năm nay là : (1) tiến sĩ Christian Schaller - thần học gia người Đức, giáo sư thần học tín lý và phó giám đốc Viện Giáo hoàng Bênêđictô Regensburg, Đức, nơi ấn hành toàn bộ công trình của Joseph Ratzinger; và (2) Richard A. Burridge - một linh mục Anh giáo, học giả Kinh Thánh người Anh, và là Hiệu trưởng Trường Đại học King ở London.



Trong tuần này linh mục Burridge cũng tham gia một hội nghị chuyên đề do Quỹ Joseph Ratzinger - Bênêđictô XVI của Vatican tổ chức, có chủ đề Các sách Tin Mừng : Lịch sử và Kitô học, diễn ra tại Đại học giáo hoàng Latêranô, từ 24 đến 26/10. Hội nghị chuyên đề sẽ khởi đầu với nghiên cứu của Joseph Ratzinger.

Linh mục Burridge được vinh dự trao giải vì những đóng góp vào việc công nhận –về mặt lịch sử và thần học– mối liên kết chặt chẽ giữa Phúc Âm với Đức Giêsu Nazareth.

Chia sẻ cảm nhận của mình khi nhận giải, linh mục Burridge nói khi nhận được tin ông đã mong đến Roma để dự một hội nghị khác.

“Chúng tôi nhận được thư – đúng vào ngày sinh nhật của tôi vào tháng Sáu – từ vị Sứ thần Toà Thánh, hỏi xem tôi có chấp nhận vinh dự này không. Ai cũng nghĩ đây là một trò đùa của các sinh viên, nhưng thực là một niềm vui khi khám phá ra rằng đó một bất ngờ thực sự, một vinh dự tuyệt vời”.

Là người không Công giáo đầu tiên được trao giải Ratzinger, linh mục Burridge nói rằng việc ông nhận giải “nói lên tầm quan trọng của điều đã xảy ra trong hai hoặc ba thập kỷ qua, không chỉ trong cuộc đối thoại Công giáo Roma và Anh giáo, nhưng còn trong lĩnh vực nghiên cứu Kinh Thánh quốc tế, mà chúng tôi đã cùng nhau hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn”.

Giải Ratzinger bao gồm 3 lĩnh vực: nghiên cứu Kinh Thánh, giáo phụ học và thần học căn bản. Đây là lần thứ ba giải này được trao.



- Huấn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Đại hội về Gia đình :

Hãy giới thiệu với mọi người về vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình”

Trong khuôn khổ Năm Đức Tin 2012-2013, Hội đồng Toà Thánh về Gia đình đã tổ chức Đại hội toàn thể tại Rôma, trong hai ngày 24 và 25/10/2013. Đại hội diễn ra với chủ đề : “Gia đình sống niềm vui đức Tin” nhằm nhìn lại và thúc đẩy những sáng kiến sống đức Tin trong các gia đình Công giáo, đồng thời cũng đánh dấu 30 năm ra đời Hiến chương về các Quyền của gia đình (1983-2013). Hiến chương được Toà Thánh công bố ngày 22/10/1983, khẳng định các quyền của gia đình phải được tôn trọng, bảo vệ và thực thi. Kỷ niệm 30 năm ngày Toà Thánh ban hành Hiến chương, Đức Tổng giám mục Vincenzo Paglia, Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Gia đình khẳng định: “Hiến chương là một lời kêu gọi mang tính tiên tri trong việc ủng hộ cho định chế gia đình, vốn phải được tôn trọng và bảo vệ khỏi  bị tước đoạt dưới mọi hình thức”.

Sáng 25/10 tại Hội trường Clementine, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp kiến các đại biểu tham dự Đại hội.

Sau đây xin lược dịch huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi tiếp kiến :

Kính thưa quý Đức Hồng y,

Quý anh em trong hàng giám mục và linh mục,

Anh chị em thân mến,

Tôi chào mừng anh chị em nhân dịp Đại hội toàn thể lần thứ 21 Hội đồng Toà Thánh về Gia đình, và cảm ơn Đức Tổng giám mục Chủ tịch Vincenzo Paglia đã phát biểu giới thiệu cuộc gặp gỡ của chúng ta.

1. Điểm đầu tiên tôi muốn dừng lại là: gia đình là một cộng đồng sự sống có một nền tảng tự tại. Như Chân phước Gioan Phaolô II đã viết trong Tông huấn Familiaris consortio, gia đình không phải tổng số những con người gộp lại mà là một “cộng đồng các ngôi vị” (các số 17, 18).

Đó là nơi con người học biết yêu thương, trung tâm tự nhiên của đời sống con người. Gia đình được tạo nên từ những khuôn mặt, từ những con người đang yêu thương, trò chuyện, hy sinh cho nhau và bảo vệ sự sống, nhất là những người yếu đuối, mong manh nhất. Nói gia đình là động lực của thế giới và lịch sử thì chẳng có gì quá đáng. Nhân cách của mỗi người chúng ta được xây dựng từ trong gia đình, trưởng thành nhờ cha mẹ, anh chị em mình, hít thở bầu khí ấm áp của gia đình. Gia đình là nơi chúng ta được nhận một tên gọi, là nơi của mọi tình thương mến và là không gian thân mật, là nơi chúng ta học cách đối thoại và giao tiếp giữa con người với con người. Trong gia đình con người dần ý thức về phẩm giá của mình, và nhất là khi được hưởng nền giáo dục Kitô giáo sẽ biết nhìn nhận phẩm giá nơi mỗi con người, đặc biệt người ốm đau, yếu đuối, bị loại trừ.

Tất cả những điều nói trên đây làm nên cộng đồng gia đình cần phải được nhìn nhận, nhất là ngày nay vốn đề cao việc bảo vệ các quyền của cá nhân. Vì thế Đại hội của anh chị em đã thực hiện việc rất tốt đẹp là thúc đẩy sự lưu tâm đặc biệt đến Hiến chương về các quyền của gia đình được công bố cách nay đúng 30 năm, vào ngày 22 tháng Mười 1983.

2. Chúng ta sang điểm thứ hai : gia đình được xây dựng trên nền tảng hôn nhân. Qua hành vi yêu thương được thực hiện với sự tự do và lòng trung tín, các đôi vợ chồng Kitô hữu minh chứng hôn nhân, với tư cách là một bí tích, là nền tảng xây dựng gia đình, củng cố vững chắc sự phối hợp vợ chồng và tự hiến cho nhau. Hôn nhân như vậy đã là bí tích đầu tiên của của loài người, là nơi con người khám phá chính mình, hiểu bản thân mình trong tương quan với tha nhân và trong mối liên hệ với tình yêu, nghĩa là có khả năng nhận lãnh và trao ban. Tình yêu vợ chồng và gia đình cũng cho thấy một cách rõ ràng con người được kêu gọi sống yêu thương theo một con đường độc đáo và mãi mãi, đồng thời cũng cho thấy những thử thách, hy sinh, khủng hoảng của vợ chồng, cũng như gia đình, là cả một hành trình trưởng thành trong chân, thiện, mỹ. Trong hôn nhân, con người hoàn toàn tự hiến, không chút so đo tính toán, chia sẻ mọi sự cho nhau, những món quà và những hy sinh, đặt niềm tín thác vào Chúa Quan phòng. Đó chính là kinh nghiệm người trẻ cần học hỏi nơi cha mẹ, ông bà. Đó là kinh nghiệm tin vào Chúa và tín cậy lẫn nhau, kinh nghiệm về tự do sâu thẳm, về thánh thiện, bởi vì thánh thiện là biết tự hiến với niềm tín trung và hy sinh mạng sống mình mỗi ngày !

Trong đời sống hôn nhân cũng có những vấn đề. Luôn luôn có những cách nhìn khác nhau, những ghen tị, cãi cọ. Cũng phải nói với các đôi vợ chồng trẻ: đừng bao giờ để một ngày kết thúc mà chưa làm lành với nhau. Chính nhờ biết làm hoà với nhau sau mỗi lần cãi vã, hiểu lầm, ghen ngầm, và kể cả phạm tội nữa, mà làm mới lại bí tích hôn nhân. Biết làm hoà với nhau sẽ mang lại sự hiệp nhất trong gia đình. Phải nói điều đó cho các bạn trẻ, các đôi vợ chồng trẻ, dù biết không dễ thực hiện nhưng đó là một con đường đẹp, rất đẹp. Cần phải nói cho các bạn trẻ con đường tốt đẹp đó!



3. Bây giờ tôi muốn đề cập ít nhất hai giai đoạn của đời sống gia đình: tuổi thơ và tuổi già. Trẻ em và người già là hai cực của sự sống và đều dễ bị tổn thương và dễ bị lãng quên nhất. Một xã hội bỏ rơi trẻ nhỏ và gạt người già ra ngoài thì tự cắt đứt cội rễ của mình và khiến tương lai trở nên mù mịt. Mỗi lần có một đứa trẻ bị bỏ rơi và một cụ già bị gạt ra ngoài lề thì không chỉ gây ra điều bất công mà chắc chắn đã làm cho xã hội trở nên suy thoái. Chăm sóc các trẻ nhỏ và người già là đã chọn đứng về phía văn minh.

Tôi vui mừng được biết Hội đồng Toà Thánh về Gia đình đã chọn bức icôn Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ làm biểu tượng mới về gia đình. Bức tranh thể hiện Đức Mẹ và Thánh Giuse bế Hài nhi lên Đền thờ để chu toàn bổn phận như Luật dạy, ngoài ra còn có hai cụ già Simêon và Anna, được Thánh Thần thúc đẩy, đã nhận Hài nhi làm Đấng Cứu thế. Tên của bức icôn mang ý nghĩa: “Lòng thương xót của Chúa từ đời nọ đến đời kia”. Một Giáo hội biết chăm sóc trẻ thơ và người già thì trở thành người Mẹ của mọi thế hệ tín hữu, đồng thời phục vụ xã hội nhân loại để tinh thần thương yêu, tinh thần của gia đình và sự liên đới giúp mọi người biết tái khám phá tình phụ tử và mẫu tử của Thiên Chúa.

“Tin Mừng” về gia đình là một phần quan trọng của công cuộc Phúc âm hoá mà các Kitô hữu có thể thông truyền cho mọi người qua việc làm chứng bằng đời sống. Rõ ràng các Kitô hữu đang thực thi điều đó trong một thế giới đã bị thế tục hoá: người ta nhận ra các gia đình Kitô hữu đích thực qua sự trung tín, nhẫn nại, biết quảng đại đón nhận sự sống, kính trọng người già… Bí quyết của mọi điều vừa nói là có Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình. Vậy với thái độ tôn trọng và lòng can đảm, chúng ta hãy đề nghị với mọi người vẻ đẹp của hôn nhân và vẻ đẹp của gia đình rạng ngời ánh sáng Tin Mừng! Vì vậy, chúng ta hãy lấy sự quan tâm và lòng thương mến đến với những gia đình đang gặp khó khăn, đến với những ai đang phải lìa xa quê hương, tâm hồn tan nát, không nhà cửa, không việc làm, hoặc những ai đang chịu đau khổ vì nhiều lẽ; đến với những đôi vợ chồng đang gặp khủng hoảng và những người hiện đã chia tay nhau. Chúng ta muốn đến bên tất cả những anh chị em đó.

Anh chị em thân mến, chúc công việc của anh chị em trong cuộc Đại hội này trở thành một đóng góp quý báu cho Thượng Hội đồng khoá ngoại lệ bàn về gia đình sắp tới. Cảm ơn anh chị em về sự đóng góp đó. Tôi trao phó anh chị em cho Thánh gia Nadarét và thân ái chúc lành cho anh chị em.



- Đức Thánh Cha Phanxicô gặp các gia đình hành hương Rôma trong Năm Đức Tin :

Hãy đến với Chúa Giêsu”

Chiều thứ Bảy 26/10/2013, trong khuôn khổ Năm Đức Tin, hàng chục ngàn gia đình từ khắp nơi trên thế giới hành hương về Rôma, viếng mộ thánh Phêrô tông đồ trong hai ngày 26 và 27/10/2013, đã yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô tại quảng trường Thánh Phêrô.

Buổi yết kiến diễn ra trong bầu khí tươi vui, thân tình như một buổi họp mặt gia đình. Chính giới trẻ, thế hệ thứ ba (với hàng vạn thanh thiếu nhi), sau các thế hệ cha mẹ và ông bà, đã là tác nhân kiến tạo bầu khí độc đáo của buổi yết kiến.

Buổi yết kiến đồng thời với Đại hội Gia đình do Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình tổ chức đang diễn ra tại Rôma.

Sau đây là toàn văn bài huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi tiếp kiến các gia đình :

Các gia đình thân mến,

Chào mừng anh chị em đến Rôma !

Anh chị em từ nhiều nơi trên thế giới đã hành hương đến Rôma, để tuyên xưng đức Tin trước mộ thánh Phêrô. Quảng trường này giang tay đón anh chị em: chúng ta là một dân tộc duy nhất, một tâm hồn duy nhất, được Chúa là Đấng yêu thương và phù trợ chúng ta, kêu gọi. Tôi cũng gửi lời chào mọi gia đình đang hiệp thông với cuộc hành hương này qua truyền hình và Internet : đó là một quảng trường rộng mở, không giới hạn.

Lúc này anh chị em muốn nhắc đến khẩu hiệu “Gia đình sống niềm vui đức Tin”. Tôi thích tên gọi này. Tôi đã nghe anh chị kể những kinh nghiệm, những câu chuyện. Tôi thấy có nhiều trẻ em, nhiều bậc ông bà… Tôi đã nghe các gia đình kể về nỗi đau thương khi lâm cảnh nghèo khốn và chiến tranh. Tôi đã nghe những người trẻ muốn được kết hôn với nhau bất chấp muôn ngàn khó khăn. Còn bây giờ chúng ta đang tự hỏi: làm thế nào có thể sống niềm vui đức Tin, ngay hôm nay, trong gia đình?



1. Có một câu Chúa Giêsu nói trong Phúc âm Matthêu soi sáng cho chúng ta: “Hỡi anh em là những người đang mang gánh nặng, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho anh em được nghỉ ngơi” (Mt 11, 28). Cuộc sống vốn nhọc nhằn khổ sở. Nhưng khổ nhất vẫn là thiếu tình yêu thương. Đó là khi chẳng nhận được một nụ cười, không được đón nhận. Là những khi sống lặng lẽ, trong gia đình chẳng ai nói với ai một câu, giữa chồng với vợ, giữa cha mẹ với con cái, giữa anh chị em với nhau. Không có tình yêu thương, gánh nặng thêm nặng hơn. Tôi nghĩ đến những người già sống cô độc, đến những gia đình gặp khó khăn mà chẳng được trợ giúp để nâng đỡ những người trong gia đình đang cần được quan tâm, chăm sóc. Chúa Giêsu nói: “Hỡi những người đang mang gánh nặng, hãy đến với Tôi”.

Các gia đình thân mến, Chúa biết những mệt mỏi và gánh nặng cuộc sống của chúng ta. Chúa cũng biết rõ mong muốn sâu xa của chúng ta là tìm được niềm vui nghỉ ngơi! Anh chị em có nhớ chăng? Chúa Giêsu đã nói: “Chớ gì niềm vui của các con được nên trọn” (Ga 15, 11). Chúa đã nói với các tông đồ và Người nhắc lại điều đó với chúng ta hôm nay. Vậy, chiều hôm nay, tôi muốn chia sẻ điều thứ nhất với anh chị em, chính là lời Chúa Giêsu nói: Hãy đến với Cha, hỡi các gia đình trên khắp thế giới, Cha sẽ cho các con được nghỉ ngơi, để niềm vui của các con được nên trọn.



2. Điều thứ hai là lời tôi lấy trong Nghi thức Hôn nhân. Ai kết hôn trong Bí tích Hôn nhân đều đọc : “Anh/em hứa giữ lòng chung thủy với em/anh khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em”. Giây phút đó, đôi tân hôn không biết được những niềm vui, nỗi khổ nào đang đợi mình. Như Abraham, họ ra đi, cùng nhau lên đường. Điều đó chính là hôn nhân! Ra đi và cùng tiến bước, nắm tay nhau và cùng đặt vào bàn tay Chúa.

Một khi tín thác vào Thiên Chúa trung tín, ta có thể đương đầu với tất cả, không hề sợ hãi, một cách có trách nhiệm. Những đôi vợ chồng Kitô hữu không ngây thơ, họ biết các vấn đề và những mối hiểm nguy trong cuộc sống. Họ không sợ gánh vác trách nhiệm của mình, trước mặt Thiên Chúa và xã hội; không trốn chạy, không tự cô lập, không thoái thác sứ mạng gầy dựng một gia đình và sinh con. – Nhưng thưa Cha, thời nay thật là khó khăn… – Quả thật, cả là một khó khăn. Vì thế cần phải có ân sủng của bí tích! Các bí tích không dùng để tô điểm cho cuộc sống; bí tích Hôn nhân không phải là một nghi lễ đẹp mắt! Các Kitô hữu kết hôn trong bí tích vì ý thức mình cần đến bí tích ! Họ cần lãnh bí tích để nên một với nhau và để chu toàn nhiệm vụ làm cha làm mẹ. “Khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe”. Rồi khi cử hành Hôn lễ, họ cùng nhau cầu nguyện và cầu nguyện với cộng đoàn. Vì sao vậy ? Chỉ vì xưa nay người ta vẫn quen làm thế ? Không ! Vì người ta cần cầu nguyện cho một chuyến hành trình dài cùng đi với nhau, cần được Chúa Giêsu giúp sức để cùng tiến bước bên nhau với niềm tín thác, để người này biết đón nhận người kia mỗi ngày, và tha thứ cho nhau mỗi ngày !

Trong cuộc sống của mình, gia đình có những giây phút đẹp: được nghỉ ngơi, ăn uống với nhau, đi công viên hoặc đi cắm trại, đi thăm ông bà, thăm một người bệnh… Nhưng nếu thiếu tình yêu, sẽ không có niềm vui, chẳng có lễ hội, và tình yêu được chính Chúa Giêsu ban cho chúng ta: đó là nguồn không hề vơi cạn được Người tự hiến cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể. Nơi đó Người ban cho chúng ta Lời của Người và Bánh hằng sống, để niềm vui chúng ta được nên trọn.

3. Trước mặt chúng ta là bức tranh icôn “Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ”. Đây là một bức icôn đẹp và quan trọng. Chúng ta hãy ngắm và nhờ bức tranh này giúp chúng ta. Giống như tất cả anh chị em, mỗi nhân vật trong tranh là một câu chuyện: Đức Mẹ và Thánh Giuse lên đường, làm người hành hương về Giêrusalem, tuân giữ Luật của Chúa; cũng vậy, cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna, cũng là một cụ già, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, cũng đi đến Đền thờ. Bức tranh cho chúng ta thấy có sự hòa quyện của ba thế hệ: cụ Simêon bồng trên tay Hài nhi Giêsu mà cụ biết đó chính là Đấng Cứu Thế, còn bà Anna thì cho thấy bà đang thể hiện cử chỉ chúc tụng Thiên Chúa và loan báo ơn Cứu độ cho những ai đã mong chờ Israel được cứu thoát. Đức Mẹ và Thánh Giuse là một gia đình được thánh hóa nhờ sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng hoàn tất mọi lời hứa. Mọi gia đình, cũng giống như gia đình Nadarét, đều gắn với lịch sử của một dân tộc và không thể tồn tại nếu không có các thế hệ tiền bối.

Các gia đình thân mến, anh chị em chính là những thành phần của dân Thiên Chúa. Anh chị em hãy bước đi trong niềm vui cùng với dân Chúa. Hãy luôn kết hiệp với Chúa Giêsu và mang Chúa đến cho mọi người qua đời sống chứng nhân của anh chị em. Cảm ơn anh chị em đã đến Rôma. Chúng ta hãy cùng đón nhận lời thánh Phêrô dạy làm của mình, những lời mang lại sức mạnh cho chúng ta, giúp chúng ta mạnh mẽ lúc gặp khó khăn: “Lạy Thầy, chúng con còn đến với ai nữa? Thầy mới có những lời mang lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68). Với ơn Đức Kitô ban cho, anh chị em hãy sống niềm vui đức Tin! Xin Chúa chúc lành cho anh chị em, và xin Đức Maria, Mẹ của chúng ta, đồng hành với anh chị em”.



- Thánh lễ kết thúc cuộc hành hương của các gia đình trong Năm Đức Tin :

Gia đình Công giáo : cầu nguyện, giữ vững đức Tin và truyền giáo”

Sáng Chúa nhật 27/10, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ đồng tế với các hồng y, giám mục, linh mục, kết thúc cuộc hành hương hai ngày (26 và 27/10) của các gia đình khắp nơi trên thế giới về Rôma, viếng mộ Thánh Phêrô tông đồ, trong khuôn khổ Năm Đức Tin.

Được biết đây là cuộc hành hương và quy tụ đông đảo cuối cùng, trước khi bế mạc Năm Đức Tin 2012-2013 vào ngày 24/11 sắp tới.

Cuộc hành hương này được tổ chức liền sau Đại hội toàn thể do Hội đồng Tòa Thánh về Gia đình tổ chức trong hai ngày 24 và 25/10. Đức Thánh Cha Phanxicô đã coi Đại hội và cuộc hành hương của các gia đình như những động thái mở đầu, gợi suy tư cho ngài trước Thượng Hội đồng về Gia đình sẽ diễn ra vào năm 2014.

Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh lễ bế mạc cuộc hành hương. Bài giảng đã khiến mọi người xúc động, đọng lại nhiều suy nghĩ. Tiếng vỗ tay vang dội khi Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng. Nhất là, sau Thánh lễ, nhiều người ngồi nán lại trên quảng trường Thánh Phêrô, nét mặt đăm chiêu, đắm vào suy nghĩ.

* * *

“Các bài đọc Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng ta suy ngẫm một số đặc điểm căn bản của gia đình Kitô hữu.



1. Thứ nhất : Gia đình cầu nguyện. Đoạn Tin Mừng nêu lên hai cách cầu nguyện, một sai: cách cầu nguyện của người Pharisêu – và một đúng: cách cầu nguyện của người thu thuế. Người Pharisêu tiêu biểu cho một thái độ không thể hiện việc tạ ơn Chúa đã ban ơn lành và lòng thương xót, mà lại tỏ ra tự mãn. Người Pharisêu thấy mình công chính, đúng mực, ưỡn ngực khoe khoang và đứng trên cao phán xét người khác. Trái lại, người thu thuế không khoe khoang khoác lác. Lời cầu nguyện của ông hạ mình, khiêm nhường, nhận rõ mình bất xứng, khốn khổ: người đàn ông này thực sự nhìn nhận mình cần được Chúa tha thứ, thương xót.

Lời cầu nguyện của viên chức thu thuế là lời cầu nguyện của kẻ nghèo, làm Chúa vui lòng, và như bài đọc I đã viết “thấu đến trời” (Hc 35, 16), còn lời cầu nguyện của người Pharisêu thì trĩu nặng sự hão huyền.

Các gia đình thân mến,

Được Lời Chúa soi sáng, tôi muốn hỏi anh chị em thỉnh thoảng có đọc kinh trong gia đình không ? Tôi biết có người nói có, nhưng cũng nhiều người bảo: đọc kinh như thế nào ? Rõ ràng là hãy làm giống như người thu thuế : khiêm nhường, trước mặt Chúa. Ước mong mỗi người sẽ lấy lòng khiêm nhường nài xin Chúa nhân từ đoái nhìn và đến với chúng ta. Vậy, trong gia đình thì cầu nguyện như thế nào, bởi cầu nguyện xem ra là việc cá nhân, vả lại trong gia đình cũng chẳng bao giờ có lúc thuận tiện, yên tĩnh… Đúng vậy, đó cũng chính là vấn đề phải biết khiêm nhường, nhìn nhận mình cần đến Chúa, như người thu thuế kia! Mọi gia đình đều cần đến Chúa ! Mọi người chúng ta cần đến Chúa ! Chúng ta cần được Chúa ban ơn trợ giúp, ban sức mạnh, ban phúc lành, ban lòng thương xót, ban ơn tha thứ. Và cũng phải đơn sơ : cầu nguyện trong gia đình, cần phải đơn sơ! Cùng nhau đọc kinh Lạy Cha, quanh bàn ăn, chẳng phải là chuyện phi thường, mà thật dễ dàng. Rồi cùng nhau lần chuỗi Mân Côi, trong gia đình, thật tuyệt đẹp, thêm sức cho chúng ta biết bao! Rồi người nọ cầu nguyện cho người kia: chồng cầu nguyện cho vợ, vợ cầu nguyện cho chồng, cả hai vợ chồng cầu nguyện cho con cái, con cái cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà… Mọi người cầu nguyện cho nhau. Đó là cầu nguyện trong gia đình, và cầu nguyện sẽ củng cố đời sống gia đình!



2. Bài đọc II gợi lên một điểm khác : gia đình giữ vững đức Tin. Vào cuối đời, thánh Phaolô tông đồ đưa ra một đúc kết mang ý nghĩa nền tảng: “Tôi đã giữ vững đức Tin” (2 Tm 4, 7). Ngài đã giữ vững đức Tin như thế nào ? Ngài không giữ đức Tin trong rương ! Cũng không vùi trong đất, như kẻ tôi tớ khá biếng nhác này. Thánh Phaolô ví đời mình như một cuộc chiến đấu hoặc một cuộc chạy đua. Ngài đã giữ vững đức Tin bởi đã không chỉ làm một việc bảo vệ đức Tin mà còn loan báo đức Tin, loan truyền đức Tin, đưa đức Tin vươn xa. Ngài mạnh mẽ đối kháng với những ai chỉ muốn bảo toàn đức Tin, làm cho sứ điệp của Đức Kitô “hóa thạch” trong giới hạn vùng Palestin. Vì lẽ đó ngài đã có những chọn lựa can đảm, đã đi vào những vùng đất thù nghịch, gieo mình vào những thử thách của những con người và nền văn hóa xa lạ, ngài đã nói chuyện thẳng thắn, không sợ hãi. Thánh Phaolô đã gìn giữ được đức Tin theo đúng cách ngài đã lãnh nhận : ngài đã cho đi đức Tin, bằng cách đi đến những vùng ngoại biên, không lui về những vị trí phòng thủ.

Một lần nữa, chúng ta có thể tự hỏi : bằng cách nào chúng ta giữ vững đức Tin trong gia đình ? Chúng ta giữ đức Tin ở lại với mình, trong gia đình mình, như của riêng, như tài khoản trong ngân hàng, hay chúng ta biết chia sẻ đức Tin bằng việc làm chứng, đón nhận và mở lòng hướng đến tha nhân ? Tất cả chúng ta đều biết các gia đình, đặc biệt các gia đình trẻ, thường chịu “sức ép”, rất bận rộn; nhưng có khi nào anh chị em nghĩ cuộc “chạy đua” này cũng có thể là cuộc chạy đua đức Tin ? Các gia đình Kitô hữu là những gia đình truyền giáo. Hôm qua, tại đây, nơi quảng trường này, chúng ta đã được nghe chứng từ của các gia đình thừa sai. Những anh chị em đó là những nhà truyền giáo ngay trong cuộc sống hằng ngày, bằng cách làm những công việc mọi ngày vẫn làm, rồi nêm muối và men đức Tin vào những công việc đó ! Giữ vững đức Tin trong gia đình và nêm muối và men đức Tin vào mọi việc hằng ngày.



3. Khía cạnh thứ ba rút ra từ Lời Chúa : Gia đình sống niềm vui. Đây là câu trong Thánh vịnh đáp ca : “Người nghèo hãy nghe và hãy mừng vui” (33/34,3). Toàn bộ Thánh vịnh này là lời ca tụng Chúa, nguồn vui và an bình. Vậy niềm vui này là do đâu? Đây: Chúa gần đến, Ngài nghe tiếng kêu van của những người khiêm hạ và giải thoát họ khỏi sự dữ. Thánh Phaolô cũng viết : “Anh em hãy vui luôn… Chúa đang đến gần” (Pl 4, 4-5). Hôm nay tôi muốn hỏi anh chị em một câu, nhưng anh chị em cứ giữ câu hỏi đó trong lòng và mang về, như một bài tập ở nhà, rồi tự trả lời một mình. Đối với bạn, thế nào là niềm vui ? Đối với gia đình bạn, thế nào là niềm vui ? Anh chị em hãy đưa ra câu trả lời.

Các gia đình thân mến,

Như anh chị em biết : niềm vui đích thực đến với gia đình không phải là điều gì hời hợt, đến từ những đồ vật, những hoàn cảnh thuận lợi… Niềm vui đích thực xuất phát từ sự hòa hợp sâu xa giữa những con người với nhau, được mọi người cảm nhận trong tâm hồn, khiến chúng ta cảm thấy vẻ đẹp được chung sống bên nhau và nâng đỡ nhau ttên đường đời. Làm nền tảng cho niềm vui sâu thẳm này là sự hiện diện của Chúa trong gia đình, là tình yêu của Chúa luôn đón nhận, thương xót và tôn trọng mọi người. Trên hết là một tình yêu nhẫn nại : nhẫn nại là một đức tính của Chúa, dạy chúng ta biết trong gia đình phải có tình yêu nhẫn nại này đối với nhau. Giữa chúng ta phải có sự nhẫn nại. Tình yêu nhẫn nại. Chỉ một mình Chúa mới biết làm cho mọi khác biệt được hòa hợp với nhau. Nếu thiếu tình yêu Thiên Chúa, gia đình sẽ mất hòa hợp, mọi thứ cá nhân chủ nghĩa sẽ thắng thế và niềm vui lụi tàn. Trái lại, gia đình sống niềm vui đức Tin sẽ thông truyền đức Tin một cách tự nhiên, gia đình thành muối cho trần gian và ánh sáng cho thế giới, thành men cho toàn xã hội.

Các gia đình thân mến,

Anh chị em hãy luôn sống với đức Tin và tấm lòng đơn sơ, như Thánh gia Nadarét. Niềm vui và bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”.

- Twitter @Pontifex : hơn 10 triệu follower :

Hôm 27/10/2013, trang Twitter của Đức Thánh Cha gửi đi tin nhắn: “Các bạn thân mến, tôi được biết số các bạn follower đã là hơn 10 triệu. Chân thành cảm ơn các bạn và xin tiếp tục cầu nguyện cho tôi”.

Như vậy, chỉ sau 10 tháng kể từ khi ra mắt, Twitter @Pontifex của Đức giáo hoàng đã vượt qua con số 10 triệu follower. Đây là một mốc quan trọng trong nỗ lực của Giáo hội Công giáo nhằm góp mặt trong không gian kỹ thuật số và loan báo Tin Mừng qua các phương tiện truyền thông xã hội hiện đại.






Twitter @Pontifex hiện có 9 ngôn ngữ, trong đó có tiếng Ả rập. Ngôn ngữ có nhiều follower nhất là Tây Ban Nha (hơn 4 triệu).

Tweet đầu tiên được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi đi ngày 12/12/2012 và tweet đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô được gửi ngày 17/3/2013.

- Sứ điệp của Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn gửi các tín đồ Ấn giáo nhân Lễ Deepavali (Lễ hội Ánh sáng) :

Kitô hữu và người Ấn giáo : cổ vũ các mối tương quan giữa con người qua tình bằng hữu liên đới” là chủ đề của sứ điệp được Đức hồng y Jean-Louis Tauran, chủ tịch Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn gửi đến các tín đồ Ấn giáo nhân dịp lễ Deepevali (lễ hội Ánh sáng) của Ấn độ giáo, được tổ chức vào ngày 03 tháng 11 năm nay. Cùng ký tên trong sứ điệp là cha Miguel Angel Ayuso Guixot, M.C.C.J., thư ký Hội đồng.

Sau đây là toàn văn sứ điệp :

Các Bạn tín đồ Ấn giáo thân mến,



1. Trong tinh thần bằng hữu, Hội đồng Toà Thánh về Đối thoại Liên tôn xin gửi đến các bạn lời chúc tốt đẹp nhất và lời chào thân ái nhân dịp các bạn mừng lễ Deepavali vào ngày 3 tháng 11 sắp tới. Nguyện xin Thiên Chúa, là nguồn mọi ánh sáng và sự sống, chiếu sáng cuộc sống các bạn và ban cho các bạn hạnh phúc và bình an sâu thẳm.

2. Trong một thế giới ngày càng cạnh tranh và mang nặng khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân và duy vật chất, gây ảnh hưởng tai hại đến các mối tương quan giữa con người và thường gây ra chia rẽ trong gia đình và toàn xã hội, chúng tôi muốn chia sẻ với các bạn những suy nghĩ của mình về cách thức mà Kitô hữu và tín đồ Ấn giáo có thể tạo thuận lợi cho các mối tương quan con người, vì lợi ích của toàn thể nhân loại, qua tình bằng hữu và liên đới.

3. Các mối tương quan này thiết yếu đối với cuộc sống con người. An ninh và hòa bình ở địa phương, trong quốc gia và các cộng đồng quốc tế được quyết định chủ yếu bởi phẩm chất của sự tương tác giữa con người của chúng ta. Kinh nghiệm dạy chúng ta rằng, các tương quan của chúng ta càng sâu xa, thì chúng ta càng tiến tới trong sự hợp tác, xây dựng hòa bình và hòa hợp thực sự. Khả năng thúc đẩy các mối tương quan tôn trọng lẫn nhau là thước đo sự tiến bộ đích thực của con người và thiết yếu để thúc đẩy hòa bình và phát triển toàn diện.

4. Những mối tương quan như vậy phải chiếu tỏa một cách tự nhiên trong cộng đồng nhân loại của chúng ta. Thật vậy, những mối tương quan giữa con người là tâm điểm của cuộc sống con người cũng như của sự tiến bộ và, tất nhiên sẽ kèm theo tinh thần liên đới với tha nhân. Mặc cho có những khác biệt về căn tính chủng tộc, văn hóa, tôn giáo và ý thức hệ, thực ra tất cả chúng ta đều thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất.

5. Đáng buồn thay, trong một xã hội đề cao vật chất và xem thường những giá trị sâu sắc của tinh thần và tôn giáo, sự tiến bộ kéo theo một xu hướng nguy hiểm là gán giá trị vật chất cho những mối tương quan của con người. Vì vậy, con người từ một “ai đó” bị giản lược thành “cái gì đó” mà người ta có thể gạt sang một bên. Hơn nữa, những xu hướng cá nhân chủ nghĩa còn tạo ra một cảm giác giả tạo về an toàn mà Đức giáo hoàng Phanxicô mô tả là “một nền văn hóa loại trừ”, “một nền văn hóa vứt bỏ” và “sự dửng dưng được toàn cầu hóa”.

6. Do đó, việc cổ vũ “nền văn hóa tương quan” và “nền văn hóa liên đới” mang tính bó buộc đối với mọi dân tộc; và mời gọi chúng ta thúc đẩy các mối tương quan xây dựng trên tình bằng hữu và tôn trọng lẫn nhau, nhằm thiện ích cho toàn thể gia đình nhân loại. Điều này đòi hỏi chúng ta nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá vốn gắn liền với ngôi vị con người. Tình bằng hữu và sự liên đới có quan hệ chặt chẽ với nhau là điều hiển nhiên. Sau cùng, một “nền văn hóa của tình liên đới có nghĩa là nhìn người khác không phải như một đối thủ cạnh tranh hay như một con số, mà như người anh em” (Phát biểu của Đức giáo hoàng Phanxicô khi đến thăm cộng đồng dân cư Varginha (Manguinhos), Rio de Janeiro, 25-07-2013) .

7. Để kết luận, chúng tôi muốn nêu rõ xác tín rằng một nền văn hóa của tình liên đới chỉ có thể đạt đến khi đó là “kết quả của một cố gắng phối hợp giữa tất cả các bên, nhằm phục vụ công ích” (Diễn văn của Đức giáo hoàng Phanxicô trong cuộc gặp gỡ các nhà lãnh đạo xã hội Brazil, Rio de Janeiro, 27-07-2013). Được hướng dẫn bởi giáo huấn tôn giáo riêng của chúng ta và ý thức tầm quan trọng của việc xây dựng những mối tương quan đích thực, mong sao người Ấn giáo và Kitô hữu chúng ta, cùng với các truyền thống tôn giáo và mọi người thiện chí, sẽ hành động cả trên phương diện cá nhân lẫn tập thể, để thúc đẩy và củng cố gia đình nhân loại nhờ tình bằng hữu và liên đới.

Chúng tôi xin chúc các Bạn một lễ Deepavali hạnh phúc!



Hồng y Jean-Louis Tauran

Chủ tịch

Lm Miguel Ángel Ayuso Guixot, M.C.C.J.

Thư ký

- Hội đồng thế giới các Giáo hội họp Đại hội tại Hàn Quốc :

Hôm thứ Tư 30/10, Hội đồng Thế giới các Giáo hội (WCC) khai mạc Đại hội Toàn thể lần thứ 10 tại Busan, Hàn Quốc. Đại hội kéo dài đến ngày 08-11 với chủ đề: “Lạy Thiên Chúa hằng sống, xin dẫn chúng con đến Công lý và Hoà bình”.

Đại hội được tổ chức bảy năm một lần. Tham dự Đại hội lần này có hơn 3.000 đại biểu, đại diện cho 345 Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội thành viên cũng như các đại diện của các tổ chức và Giáo hội không phải là thành viên.

Chương trình mỗi ngày của Đại hội bắt đầu bằng việc cầu nguyện chung và suy niệm Kinh Thánh ngắn, sau đó là những buổi hội thảo, học hỏi Thánh Kinh, đối thoại đại kết, trình diễn…; và kết thúc bằng giờ cầu nguyện buổi tối theo các truyền thống Kitô giáo khác nhau.

Một trong những nhiệm vụ chính của Đại hội là bầu ra Ủy ban Trung ương mới để đảm nhiệm công việc của WCC từ Đại hội tại Busan này cho đến Đại hội tiếp theo.

Đức hồng y Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Toà Thánh Cổ vũ Hiệp nhất các Kitô hữu, đã hiện diện tại phiên khai mạc và chuyển đến Đại hội một sứ điệp của Đức giáo hoàng Phanxicô.

Đức giám mục Brian Farrell, Thư ký Hội đồng Toà Thánh Cổ vũ Hiệp nhất các Kitô hữu, sẽ dẫn đầu phái đoàn Công giáo chính thức gồm 25 thành viên tham gia Đại hội. Các thành viên này đại diện cho Giáo triều Rôma, các Hội đồng Giám mục, các dòng tu và các phong trào giáo dân.

- 22/02/2014 : Đức Thánh Cha Phanxicô tấn phong các Tân hồng y

Phòng Báo chí Toà Thánh đã xác nhận sẽ có một Công nghị tấn phong Hồng y vào tháng Hai 2014. Theo tuyên bố của cha Federico Lombardi, S.J., giám đốc Phòng Báo chí Toà Thánh, hồi đầu tháng Mười, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thông báo cho cả Hội đồng Hồng y và Hội đồng của Thượng hội đồng Giám mục về ý định trên đây của ngài.

Công nghị Hồng y sẽ diễn ra vào lễ kính Toà Thánh Phêrô, 22/02/2014. Đức Thánh Cha Phanxicô đã quyết định thông báo ngày này để có thể sắp xếp các cuộc họp khác với các hồng y trên khắp thế giới.

Cha Lombardi nói rằng trước Công nghị Hồng y có thể sẽ có một cuộc họp của Hồng y đoàn, theo thông lệ của các vị tiền nhiệm. Trước cuộc họp này, sẽ là khoá họp thứ ba của Hội đồng Hồng y tư vấn gồm 8 thành viên, và hai ngày sau Công nghị Hồng y sẽ có cuộc họp của Hội đồng Thượng Hội đồng Giám mục.

Cha Lombardi cho biết Hội đồng Hồng y gồm 15 thành viên nghiên cứu các vấn đề tổ chức và kinh tế của Tòa Thánh cũng sẽ nhóm họp, như thường lệ, vào tháng Hai. Mặc dù thời điểm không được ấn định, có thể cuộc họp này sẽ diễn ra trước Công nghị tấn phong Hồng y.

Trong bản tuyên bố, cha Lombardi đã không cho biết các Hồng y mới sắp được tấn phong gồm những ai, mặc dù trong các Công nghị trước đây, danh tính của các vị Tân hồng y thường được công bố trong một vài tuần trước khi diễn ra Công nghị.



- Mọi người đều được kêu gọi nên thánh :

Hôm thứ Sáu 01/11, lễ Các Thánh, trước khi đọc kinh Truyền Tin tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với các tín hữu rằng lễ Các Thánh nhắc nhở chúng ta rằng mục tiêu của cuộc sống chúng ta không phải là cái chết, nhưng là Thiên đàng.

Đức Thánh Cha nói, các thánh là “những người bạn của Thiên Chúa”, và họ bảo đảm với chúng ta rằng lời Chúa hứa không làm chúng ta thất vọng. Nhưng Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “các thánh không phải là siêu nhân, cũng chẳng hoàn hảo, các ngài cũng giống như anh chị em và tôi : trước khi đạt đến vinh quang Thiên đàng các ngài đã sống một cuộc sống bình thường, với niềm vui và nỗi buồn, đấu tranh và hy vọng”.

“Nhưng điều làm thay đổi cuộc sống của các ngài là các ngài ý thức rằng mình được Thiên Chúa yêu thương, nên đã sống cuộc sống chịu đựng đau khổ và nghịch cảnh mà không oán ghét, đã lấy điều lành đáp lại điều ác, và gieo rắc niềm vui và bình an”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “nên thánh không phải là đặc quyền của một số ít người, nhưng là ơn gọi cho tất cả mọi người. Vì thế, chúng ta được kêu gọi bước đi trên con đường thánh thiện; con đường này có một cái tên và một khuôn mặt : đó là Chúa Giêsu Kitô”.

Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha cầu nguyện đặc biệt cho các nạn nhân của bạo lực, nhất là các Kitô hữu thiệt mạng vì bị bách hại. Đức Thánh Cha cũng nhớ đến những người di dân, đa số là phụ nữ và trẻ em, đã chết vì mất nước trong sa mạc Sahara gần đây, khi họ cố gắng đi từ Niger đến Algeria để tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Cuối cùng, Đức Thánh Cha đã chào mừng tất cả những người tham gia “Cuộc đua lễ các thánh” vào sáng thứ Sáu, từ trung tâm Roma đến Quảng trường Thánh Phêrô. “Thánh Phaolô đã ví cả cuộc sống của người Kitô hữu như một ‘cuộc chạy đua’ để giành giải thưởng thánh thiện; và anh chị em đã cho chúng tôi một ví dụ điển hình”.



- Hai phụ nữ Israel và Palestin được trao Giải “Núi Sion” :

Tại đan viện Biển Đức “Đức Mẹ An Nghỉ” trên Núi Sion ở Giêrusalem,  hôm Chúa nhật 27/10/2013 vừa qua, đã diễn ra lễ trao Giải “Núi Sion” cho hai phụ nữ, Yisca Harani và Margaret Karram. Hai năm một lần, giải thưởng này được trao tặng các cá nhân có những hoạt động góp phần phát triển cuộc đối thoại liên tôn vì hòa bình, đặc biệt giữa người Do Thái, người Kitô hữu và người Hồi giáo.

Đông đảo khách mời đã tới tham dự lễ trao giải tổ chức tại đan viện Đức Mẹ An Nghỉ để chào mừng hai người đoạt giải “Núi Sion” lần này. Đức giám mục Shomali, giám mục phụ tá Toà thượng phụ Giêrusalem, cha Pierbattista Pizzaballa, Bề trên tỉnh dòng Phanxicô quản thủ Thánh Địa, và nhiều đại diện của các Giáo hội Chính Thống đã có mặt cùng với một cộng đồng người Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Bà Verena Lenzen, giám đốc Viện Nghiên cứu Do Thái-Kitô giáo và cha Gregory Collins, Bề trên Tu viện Đức Mẹ An Nghỉ đã thay mặt ban tổ chức trao giải.

Từ khi được thiết lập vào năm 1986 –do một linh mục người Đức–, giải “Núi Sion” đã được trao cho khoảng ba mươi nhà hoạt động vì hoà bình qua việc xây dựng các cuộc đối thoại liên tôn và gặp gỡ giữa các nền văn hoá.

Theo truyền thống, giải thưởng được trao vào dịp 28 tháng Mười để ghi nhớ Tuyên ngôn Nostra Aetate của Đức giáo hoàng Phaolô VI, công bố ngày 28-10-1965; tuyên ngôn mở ra một quan hệ mới giữa Giáo hội Công giáo và các tôn giáo ngoài Kitô giáo, chẳng hạn Do Thái giáo.

Hai phụ nữ được trao giải

Việc hai phụ nữ, một là người Israel, một là người Palestin, được trao giải năm nay có thể được xem như là một biểu tượng.



Yisca Harani sinh tại Giêrusalem trong một gia đình Do Thái truyền thống. Bà là cố vấn về Kitô giáo cho các bộ An ninh Quốc gia, Tôn giáo và Du lịch của Israel. Từ năm 1989, bà đã dành thời giờ để giúp rất nhiều người Do Thái tìm hiểu Kitô giáo. Năm 1999, bà đã phát triển một sáng kiến độc đáo nhằm tạo thuận lợi cho các cuộc trao đổi và gặp gỡ giữa các thiếu niên người Ả Rập tại Thành phố Cổ và các thiếu niên người Do Thái tại Tel Aviv. Hiện nay bà hoạt động nhiều để người Do Thái và Kitô hữu khám phá và chấp nhận những gì họ có chung với nhau để hiểu rõ hơn các sự khác biệt và gặp gỡ nhau.

Margaret Karam xuất thân từ một gia đình Công giáo ở Haïfa. Bà tốt nghiệp Đại học về Do Thái giáo ở Los Angeles. Từ khi còn rất trẻ, bà đã sống trong môi trường Do Thái nhờ số đông bạn bè thuộc các gia đình Do Thái. Sống giữa những người bạn này, bà làm tất cả những gì có thể liên kết người Kitô hữu và người Do Thái mặc dù có những khác biệt về tôn giáo. Gắn với phong trào Focolari, Margaret Karam là thành viên của Ủy ban Giám mục phụ trách đối thoại liên tôn bên cạnh Hội đồng các Đấng bản quyền Công giáo tại Thánh Địa. Bà cũng đã giúp rất nhiều trong việc tổ chức các cuộc gặp gỡ giữa người Do Thái và người Kitô hữu tại Giêrusalem và các nơi khác.

Giải thưởng dành cho hai phụ nữ đang hoạt động vì hòa bình cùng với các người khác đã nhắc nhở mọi người về tầm quan trọng của đối thoại liên tôn để tạo nên sự thông hiểu giữa con người với nhau. Không có sự thông hiểu này, hòa bình không thể có được. Giải “Núi Sion” được thiết lập là để nói lên điều này, và để nhắc nhở rằng mọi người, nam cũng như nữ, đều có thể dấn thân vào công việc này.



- Lần đầu tiên từ 20 năm nay, Đức Giáo Hoàng cử hành Thánh Lễ tại nghĩa trang Verano, Roma :

Sau 20 năm bị ngắt quãng, truyền thống cử hành thánh lễ tại nghĩa trang Verano ở Roma đã được ĐTC Phanxicô đã tái lập chiều ngày 01/11/2013.

Đây là nghĩa trang chính của thành Roma rộng 80 hécta và có từ hơn 20 thế kỷ, với các hang toại đạo thánh Ciriaca. Nơi đây có nhiều ngôi mộ được thực hiện như những tác phẩm nghệ thuật với các tượng đài. Vì thế nghĩa trang này cũng được coi như một bảo tàng viện lộ thiên. Tại đây, nhiều dòng tu và tổ chức của Giáo Hội cũng có những khu mộ chung, như khu mộ của Kinh sĩ đoàn Đền Thờ Thánh Phêrô, nơi Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, nguyên bí thư của ĐGH Gioan Phaolô 2 được an táng; và di hài Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã được an táng tại đây 10 năm, trước khi được di chuyển về nhà thờ hiệu tòa của ngài ở trong thành Roma. Hoặc tại khu mộ của Bộ truyền giáo, cũng có một số LM Việt Nam được an nghỉ, trong đó có Đức Ông Phêrô Trần Văn Hoài thuộc giáo phận Huế.

Hôm qua là lần đầu tiên từ 20 năm nay, một vị Giáo Hoàng lại cử hành thánh lễ tại nghĩa trang này vào chiều ngày lễ Các Thánh. Lần chót Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 cử hành thánh lễ tại đây 11 lần, lần chót vào năm 1993. ĐGH Biển Đức 16 không giữ thói quen này, nhưng hồi năm 2008, ngài đã cử hành thánh lễ tại Đền thờ thánh Lorenzo cạnh nghĩa trang, nhân dịp viếng thăm mục vụ tại đây.

Đồng tế với ĐTC Phanxicô có ĐHY Giám quản Roma, Agostino Vallini, Đức TGM Phó Giám quản Filippo Iannone, 6 GM Phụ tá và cha sở giáo xứ thánh Lorenzo ngoại thành, Armando Ambrosi, trước sự hiện diện của hàng ngàn tín hữu, trong đó có ông thị trưởng thành Roma, Ông Ignazio Marino. Ông đi xe đạp đến nghĩa trang vài phút trước ĐTC.

Trong bài giảng thánh lễ, ĐTC đã bỏ qua bài giảng dọn sẵn và ứng khẩu nói về giai đoạn cuối đời như một cuộc chờ đợi trong hy vọng, vì ơn cứu độ chúng ta đến từ Thiên Chúa và Chúa muốn cứu thoát chúng ta, chứ không phải vì công nghiệp của chúng ta. Ngài nói :

“Chính Chúa cứu chúng ta, chính Ngài mang chúng ta như người cha cầm tay dẫn chúng ta vào cuối đời lên trời cao, nơi có các tiền nhân của chúng ta. Một trong các cụ già - trong sách Khải Huyền - hỏi : “Họ là ai, những người mặc áo trăng, những người công chính, những người thánh ở trên trời ? Đó là những người đến từ đau khổ lớn lao, và họ đã giặt áo trong máu của Chiên Con, làm cho áo trở nên tinh tuyền”. Chúng ta chỉ có thể về Trời nhờ máu Chiên Con, nhờ máu Chúa Kitô. Chính Máu Chúa làm cho chúng ta trở nên công chính, mở cửa trời cho chúng ta. Và sở dĩ hôm nay chúng ta tưởng niệm những anh chị em đã đi trước chúng ta trong cuộc sống và nay đang ở trên TGrời, vì họ đã được máu Chúa Kitô thanh tẩy. Và đó chính là niềm hy vọng của chúng ta, niềm hy vọng nhờ máu của Chúa Kitô. Và niềm hy vọng này không làm ta thất vọng. Nếu chún gta tiến bước với Chúa trong cuộc sống, Ngài sẽ không bao giờ làm cho chúng ta thất vọng.

ĐTC nói thêm rằng : “Hôm nay là một ngày hy vọng. Anh chị em chúng ta đang ở trước mặt Thiên Chúa. Cả chúng ta cũng sẽ đưcơ ở đó, nhờ ơn thánh của CHúa, nếu chúng ta tiến bước với Chúa Giêsu. Và thánh Tông Đồ kết luận : “Ai hy vọng nơi Chúa, thì thanh tẩy chính mình”. Cả niềm hy vọng cũng thay tẩy chúng ta !”

Cuối thánh lễ, trước khi ban phép lành, ĐTC tái mời gọi cầu nguyện cho những người tị nạn bị thiệt mạng trong sa mạc và trên biển cả, và cầu cho những người sống sót đang ở trong các trại tiếp cư sớm được đi định cư tại nơi tốt đẹp hơn.

- Lễ Các Thánh và lễ các Linh hồn là những “ngày lễ hy vọng” :

Vào ngày lễ Các Thánh 01/11, ngay trước khi mặt trời lặn, ĐTC Phanxicô đã cử hành Thánh lễ ngoài trời tại nghĩa trang Verano của Roma. Ngài mời gọi các tín hữu bám chắc vào niềm hy vọng khi suy ngẫm về lời hứa : cuộc sống trần gian sẽ kết thúc trong cuộc sống vĩnh cửu nơi Thiên đàng.

Không dùng bài giảng soạn sẵn, Đức Thánh Cha đã ứng khẩu, nói với hàng ngàn người tham dự đứng giữa những hàng mộ: “Chúng ta hãy suy ngẫm và nghĩ về tương lai của chính chúng ta, về tất cả những người đã đi trước chúng ta và hiện đang ở với Chúa”.

“Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ, là Đấng từ ái, là tình yêu viên mãn, đang chờ đợi chúng ta. Tất cả những người đi trước chúng ta và đã chết trong Chúa đang ở trên Thiên đàng với Thiên Chúa”.

“Ngay cả vị thánh cao cả nhất cũng được cứu chuộc không phải vì đã làm những việc tốt lành, mà là nhờ máu thánh Chúa Kitô”.

“Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc, là người cha dẫn đưa chúng ta vào Thiên đàng với tổ tiên chúng ta, khi chúng ta kết thúc cuộc sống này”.

“Bài đọc trích từ chương 7 Sách Khải Huyền mô tả cảnh vô số người từ mọi chủng tộc, mọi quốc gia đứng trước mặt Thiên Chúa. Họ mặc áo trắng, vì họ đã ‘giặt áo ấy trong máu Con Chiên’. Chúng ta chỉ có thể vào Thiên đàng nhờ máu của Con Chiên, máu của Chúa Kitô”.

“Hôm nay chúng ta nhớ đến những anh chị em chúng ta đã sống trước chúng ta và bây giờ đang ở trên trời, họ ở đó vì họ đã được rửa sạch bằng máu Chúa Kitô. Đó là hy vọng của chúng ta, và niềm hy vọng này không làm chúng ta thất vọng. Nếu chúng ta sống cuộc sống của chúng ta cùng với Chúa, Người sẽ không bao giờ làm chúng ta thất vọng”.

“Chúng ta là con cái Thiên Chúa, và chúng ta sống trong niềm hy vọng một ngày nào đó sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa”.

“Vào ngày lễ Các Thánh và trước lễ các Linh hồn, suy nghĩ về niềm hy vọng là điều quan trọng”.

“Các Kitô hữu thời sơ khai đã dùng một chiếc mỏ neo làm biểu tượng của hy vọng. Chúng ta hãy neo trái tim của chúng ta vào nơi những người thân yêu của chúng ta đang sống, nơi các thánh, Chúa Giêsu và Thiên Chúa đang ở – đó là hy vọng. Và niềm hy vọng ấy không làm chúng ta thất vọng”.

“Ngày lễ Các Thánh và lễ các Linh hồn là những ‘ngày lễ hy vọng’. Nhân đức hy vọng như là chút men làm cho linh hồn chúng ta được mở ra. Cuộc sống có những lúc khó khăn, nhưng với niềm hy vọng, chúng ta tiến về phía trước và hướng mắt nhìn lên những gì đang chờ đợi chúng ta. Hôm nay là một ngày hy vọng. Anh chị em của chúng ta đang được chiêm ngưỡng Thiên Chúa, và cả chúng ta cũng sẽ được ở trong vòng tay của Chúa nếu chúng ta bước theo con đường của Chúa Giêsu”.

Và Đức Thánh Cha kết luận : “Trước cảnh mặt trời lặn hôm nay, mỗi người chúng ta hãy nghĩ đến hoàng hôn của đời mình. Chúng ta có hy vọng và vui mừng chờ mong sẽ được Chúa đón tiếp không?”

Sau Thánh Lễ, Đức Thánh Cha đã đến viếng một số ngôi mộ, cầu nguyện cho người quá cố và chúc lành cho ngôi mộ của họ.

- Phỏng vấn Đức Thánh Cha Phanxicô : (Bản dịch của Dòng Tên VN) :

TÌM VÀ THẤY THIÊN CHÚA TRONG MỌI SỰ

Cách ĐTC Phanxicô nói về những thách đố của ngày nay rất không cân đối. Nhiều năm trước đây, ngài đã viết rằng để thấy được thực tại cần có cái nhìn đức tin, nếu không sẽ thấy một thực tại vỡ vụn, từng mảnh. Đây cũng là một trong những chủ đề của thông điệp Ánh sáng Đức Tin. Tôi nhớ đến một vài đọan trong diễn từ của ĐTC tại Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Rio de Gianeiro. Tôi trích dẫn cho ngài : “Thiên Chúa là có thật. Ngài tỏ mình lúc này đây. Ngài ở khắp mọi nơi.” Những lời lẽ này vọng lại câu nói của thánh Inhaxio “tìm và thấy Thiên Chúa trong mọi sự.” Vì thế tôi hỏi Đức Giáo Hoàng : “Thưa ĐTC, làm sao tìm và thấy Thiên Chúa trong mọi sự ?”

“Điều tôi đã nói ở Rio là có ý nhắm đến khía cạnh thời gian. Thực ra, có cám dỗ là hãy tìm kiếm Thiên Chúa trong quá khứ hay trong khả thể tương lai nào đó. Thiên Chúa chắc chắn ở trong quá khứ vì chúng ta có thể thấy những vết chân của Ngài. Và Thiên Chúa cũng ở trong tương lai như lời hứa. Nhưng vị Thiên Chúa “cụ thể”, có thể nói như thế, là ở lúc này đây. Vì thế, những phàn nàn không bao giờ giúp chúng ta nhận ra Thiên Chúa. Những phàn nàn của thời nay về việc sao thế giới lại trở nên “dã man” thế – những phàn nàn này rốt cuộc dẫn người ta đến việc sinh ra trong Hội Thánh những ước muốn thiết lập trật tự theo nghĩa bảo thủ thuần túy, như một cuộc tự vệ. Không: Thiên Chúa phải được gặp thấy trong thế giới của ngày hôm nay.”

“Thiên Chúa tỏ mình qua mặc khải mang tính lịch sử, trong thời gian. Thời gian khởi sự những giai đoạn, còn không gian thì kết tinh chúng. Thiên Chúa hiện diện trong lịch sử, trong những giai đoạn ấy.”

“Không nên đặt nặng những không gian của quyền lực, hơn là những thời gian, dù lâu dài, của tiến trình hình thành. Chúng ta phải khai mở những tiến trình hơn là chiếm lấy không gian. Thiên Chúa tỏ mình trong thời gian và Ngài hiện diện trong những tiến trình của lịch sử. Điều này khiến phải ưu tiên cho những hành động sẽ sinh ra những năng động mới. Và nó đòi hỏi sự kiên nhẫn, chờ đợi.”

“Gặp thấy Thiên Chúa trong mọi sự không phải là một sự ‘khám phá mang tính thường nghiệm’. Khi chúng ta khao khát gặp gỡ Thiên Chúa, chúng ta cũng muốn xác thực về Ngài ngay lập tức bằng phương pháp thường nghiệm. Nhưng chúng ta không thể gặp được Ngài theo cách này. Tiên Tri Elia đã nhận thức được Thiên Chúa qua làn gió nhẹ. Thánh Inhaxio gọi những giác quan có thể giúp ta nhận ra Thiên Chúa là các giác quan thiêng liêng. Thánh Inhaxio mời gọi chúng ta hãy mở sự nhạy cảm thiêng liêng của chúng ta ra để có thể gặp gỡ Thiên Chúa, vượt lên cách thức thường nghiệm thuần túy. Điều cần thiết là phải có một thái độ chiêm niệm: đó là cảm thấy mình đang bước đi trên đường lành của sự thấu hiểu và yêu mến trước mọi sự và mọi tình huống. Sự bình an sâu thẳm, an ủi thiêng liêng, yêu mến Thiên Chúa và thấy mọi sự trong Thiên Chúa.”



SỰ CHẮC CHẮN VÀ NHỮNG SAI LẦM

Tôi hỏi, “Thế nếu việc gặp gỡ Thiên Chúa không phải là một ‘khám phá mang tính thường nghiệm’, và nếu đó là một hành trình nhìn thấy bằng con mắt của lịch sử, thì liệu chúng ta có thể mắc những sai lầm không ?”

Đức Giáo Hoàng trả lời : “Vâng, trong nỗ lực tìm và thấy Thiên Chúa trong mọi sự, vẫn có một chỗ cho sự không chắc chắn. Phải có chứ. Nếu có ai đó nói rằng anh ta gặp được Thiên Chúa một cách hoàn toàn chắc chắn mà không chừa lề cho một tí nghi ngại nào, thì không ổn đấy. Theo tôi, mấu chốt quan trọng nằm ở đây. Nếu người nào đó có thể đưa ra câu trả lời cho hết thảy những câu hỏi, đó là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa không ở với anh ta. Điều đó có nghĩa là anh ta là một tiên tri giả, sử dụng tôn giáo cho chính mình. Những nhà lãnh đạo lớn của dân Thiên Chúa, như Môsê, luôn luôn chừa chỗ cho sự nghi ngờ. Phải có chỗ cho Chúa, chứ không phải cho những sự chắc chắn của chúng ta; chúng ta phải khiêm tốn thôi. Sự không chắc chắn có mặt trong mỗi nhận định đúng đắn, vốn mở ra chờ sự xác chuẩn của ơn an ủi thiêng liêng.”

“Thế nên, mối nguy trong việc tìm và thấy Thiên Chúa trong mọi sự là muốn giải thích quá nhiều, sẵn sàng nói bằng sự chắc chắn và kiêu ngạo của con người: ‘Thiên Chúa ở đây’. Rốt cuộc chúng ta chỉ thấy một vị thần khớp với kích thước của ta. Thái độ đúng đắn phải là thái độ của thánh Âu-tinh: tìm kiếm Thiên Chúa để thấy Người, và thấy Người để rồi tiếp tục tìm kiếm người mãi mãi. Chúng ta thường hay tìm kiếm bằng những dò dẫm, như đọc thấy trong Kinh Thánh. Và đây là kinh nghiệm của các vị tổ phụ vĩ đại về đức tin, kiểu mẫu cho chúng ta. Chúng ta phải đọc lại thư gửi tín hữu Híp-ri, chương 11. Vì tin, Ap-ra-ham đã ra đi mà chẳng biết là đi đâu. Tất cả các bậc tiền bối trong đức tin đã chết khi thấy được những điều tốt đẹp hứa hẹn trước kia, nhưng là thấy từ xa… Cuộc sống của chúng ta không được trao ban cho chúng ta như một tập sách in vở nhạc kịch, trong đó mọi thứ đã được viết sẵn rồi; nhưng nó luôn luôn đòi buộc ta phải luôn ra đi, bước trên đường, làm, tìm, thấy… Chúng ta phải đi vào trong cuộc mạo hiểm của nỗ lực tìm gặp Thiên Chúa; và phải để cho Ngài tìm kiếm và gặp gỡ chúng ta.”

“Bởi vì Thiên Chúa đứng trước ; Thiên Chúa luôn đứng trước và đi bước trước. Thiên Chúa hơi giống như cánh hoa hạnh của vùng Sicilia của cha đấy, Antôn ạ [cha Antonio Sparado], bao giờ cũng nở trước. Chúng ta đọc thấy điều này trong sách Ngôn Sứ. Người ta gặp gỡ Thiên Chúa khi đang đi, trên đường. Ở điểm này, có thể có người cho rằng đây là chủ nghĩa tương đối. Nó có là chủ nghĩa tương đối không? Có, nếu chúng ta hiểu nhầm nó như một kiểu phiếm thần mơ hồ. Nó sẽ không là chủ nghĩa tương đối nếu được hiểu dưới ý nghĩa Kinh thánh, rằng Thiên Chúa luôn là một bất ngờ, bạn sẽ không bao giờ biết mình sẽ thấy Ngài ở đâu và như thế nào, không phải bạn là người định thời gian và nơi chốn để gặp Ngài. Thế nên, bạn phải biết nhận định cuộc gặp gỡ. Bởi vậy nhận định là điều căn bản.”

“Nếu người Ki-tô hữu là một người theo chủ nghĩa khôi phục, một người duy luật, nếu anh ta muốn mọi thứ phải rõ ràng và an toàn, anh ta sẽ chẳng thấy được gì. Truyền thống và kí ức của quá khứ phải giúp chúng ta có can đảm để mở ra những không gian mới cho Thiên Chúa. Những ai đến bây giờ vẫn còn tìm kiếm những giải pháp mang tính kỷ luật, hay còn mong chờ một sự “đảm bảo” mang tính học thuyết thái quá, hay vẫn cứ một mực cố gắng khôi phục lại một quá khứ vốn đã không còn nữa – ấy là những người chỉ có một cái nhìn bất động và hướng nội về mọi vật. Cứ theo thể thức ấy, đức tin sẽ trở thành một ý thức hệ trong hàng loạt những ý thức hệ khác. Tôi có một sự chắc chắn mang tính tín lý rằng: Thiên Chúa luôn ngự trong cuộc đời của mỗi con người. Ngài luôn hiện diện trong cuộc đời của mọi người. Ngay cả khi cuộc sống của một người chỉ là một thảm bại, bị hủy hoại bởi những tật xấu, ma túy hay bất cứ thứ gì khác – Thiên Chúa luôn ngự trong cuộc đời của người ấy. Bạn có thể và bạn phải cố gắng tìm kiếm Thiên Chúa trong mỗi cuộc nhân sinh. Cả khi cuộc sống của một người là một mảnh đất đầy chông gai và cỏ dại, vẫn luôn có một khoảng trống, nơi hạt giống tốt có thể mọc lên. Bạn phải tín thác vào Chúa.”



CHÚNG TA PHẢI LUÔN LẠC QUAN ?

Những lời lẽ của Đức Thánh Cha làm tôi nhớ lại một vài suy tư trước kia của ngài trước kia, khi còn là hồng y, ngài viết rằng Thiên Chúa đang sống trong thành phố này rồi, Ngài đang sống lẫn giữa mọi người chúng ta và kết hợp với từng người. Theo tôi nghĩ, đây là cách nói khác diễn tả lại những gì thánh I-nhã đã viết trong Linh Thao, rằng Thiên Chúa “làm việc và hành động” trong thế giới của chúng ta. Vì thế, tôi đặt câu hỏi : “Chúng ta phải lạc quan hay sao ? Đâu là những dấu chỉ của niềm hy vọng trong thế giới ngày nay ? Làm sao tôi có thể lạc quan trong một thế giới đầy khủng hoảng ?”

Pope Francis mỉm cười : “Tôi không thích dùng từ “lạc quan” vì nó diễn tả một thái độ tâm lý,” Đức Giáo Hoàng nói. “Thay vào đó, tôi thích dùng từ “hy vọng” hơn, theo những gì đọc thấy trong Thư gửi tín hữu Hip-ri, chương 11, mà tôi đã nói đến. Các tổ phụ về đức tin đã tiếp tục bước đi, trải qua những khó khăn to lớn. Và niềm hy vọng đã không làm họ thất vọng, như chúng ta đọc thấy trong Thư gửi tín hữu Rô-ma. Chúng ta hãy nghĩ đến câu đố đầu tiên trong vở nhạc kịch ‘Turandot’ của Puccini”, Đức Thánh Cha bảo tôi.

Lúc ấy, tôi vẫn còn đôi chút thuộc lòng vài câu trong câu đố của nàng công chúa trong vở nhạc kịch, mà câu trả lời cho câu đố ấy là niềm hy vọng: “Trong bóng tối âm u, một con ma ngũ sắc bay ra./Nó dang rộng đôi cánh trên nhân loại đen tối vô tận./ Cả thế giới kêu xin nó /và cả thế giới van nài nó./ Nhưng con ma biến mất khi bình minh lên để tái sinh nơi cõi lòng./ Mỗi đêm, nó sinh ra / và mỗi ngày nó chết đi !” Những câu thơ bộc lộ niềm mong ước một niềm hy vọng, nhưng nó lại là con ma ngũ sắc biến đi lúc bình minh.

“Thấy chưa”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói, “Niềm hy vọng Ki-tô giáo không phải là một con ma và không lừa dối ai. Nó là một nhân đức đối thần và vì thế, một cách cơ bản, nó là một món quà của Thiên Chúa, mà không thể bị giản lược thành sự lạc quan, vốn chỉ thuộc về con người. Thiên Chúa không bao giờ đánh lừa niềm hy vọng; Thiên Chúa không thể chối bỏ chính mình. Thiên Chúa là tất cả lời hứa.”



NGHỆ THUẬT VÀ SỰ SÁNG TẠO

Tôi được đánh động bởi sự trưng dẫn mà Đức Giáo Hoàng vừa đưa ra liên quan đến tác phẩm “Turandot” của Puccini khi ngài nói về huyền nhiệm của hy vọng. Tôi thật lòng muốn biết rõ hơn những qui chiếu nghệ thuật và văn chương của ngài. Tôi nhắc cho ngài rằng vào năm 2006, ngài đã từng nói là những nghệ sĩ vĩ đại thì biết cách thể hiện với nét đẹp những thực tại đau buồn và bi thương của cuộc sống. Vì thế, tôi hỏi ngài rằng ai là những nghệ sĩ và nhà văn mà ngài yêu thích, và liệu họ có điểm gì chung không.

“Tôi thực sự thích rất nhiều tác giả khác nhau. Tôi rất thích Dostoevsky và Hölderlin. Tôi nhớ Hölderlin nhờ bài thơ mà ông viết nhân dịp sinh nhật của bà ông, bài thơ rất tuyệt và làm giúp tôi thêm phong phú về phương diện thiêng liêng. Bài thơ kết thúc với câu, ‘ước chi người lớn giữ lấy những gì mà con trẻ đã hứa.’ Tôi đã rất ấn tượng vì tôi rất yêu bà tôi, Rosa, và trong bài thơ đó Hölderlin đã so sánh người bà của mình với Đức Trinh Nữ Maria, người đã sinh hạ Đức Giê-su, người bạn của thế giới, Đấng đã không bao giờ xem ai là người xa lạ.”

“Tôi đã đọc tác phẩm I Promessi Sposi [Đính hôn], của Alessandro Manzoni, ba lần rồi, và bây giờ tôi vẫn còn để nó trên bàn vì muốn đọc lại lần nữa. Manzoni đã cho tôi rất nhiều. Khi còn là một đứa trẻ, bà tôi đã dạy tôi thuộc lòng khúc đầu của I Promessi Sposi: “Nhánh hồ Como rẽ về phía nam giữa hai dãy núi liền nhau…’. Tôi cũng rất thích Gerard Manley Hopkins.”

“Trong giới họa sĩ, tôi ngưỡng mộ Caravaggio ; các bức vẽ của ông đã nói với tôi nhiều điều. Nhưng tôi cũng thích Chagall, với tác phẩm “White Crucifixion” của ông. Trong giới nhạc sĩ thì dĩ nhiên là tôi thích Mozart. Khúc ‘Et incarnatus est’ trong Thánh lễ phổ theo cung Đô thứ của ông quả là vô đối. Nó nâng tâm hồn bạn lên với Chúa. Tôi thích Mozart do Clara Haskil trình bày. Mozart lấp đầy tâm hồn tôi. Tôi không thể suy tư về âm nhạc của ông; tôi chỉ có thể lắng nghe thôi. Tôi thích nghe Beethoven, nhưng theo cung cách Promete [càng lúc càng mạnh mẽ], và theo tôi, người trình diễn theo cung cách Promete hay nhất là Furtwangler. Và rồi tác phẩm Cuộc Thương Khó của Bach. Một đoạn tác phẩm của Bach mà tôi thích nhất là ‘Erbarme Dich’ [Xin thương xót], tiếng khóc của Phê-rô trong “Cuộc Thương Khó theo thánh Matthêu.’ Tuyệt vời. Rồi, ở một cấp độ khác, không hoàn toàn sâu xa như vậy, tôi thích Wagner. Tôi thích nghe những tác phẩm của ông, nhưng không luôn luôn. Buổi trình diễn tác phẩm ‘Chiếc nhẫn’ của Wagner do Furtwangler thể hiện ở La Scala, Milan năm 1950 đối với tôi là tuyệt nhất. Nhưng tôi cũng thích ‘Parsifal’ do Knappertbusch trình diễn năm 1962.

“Chúng ta cũng nên nói về phim ảnh nữa chứ nhỉ. “La Strada”, của Fellini, có lẽ là bộ phim tôi thích nhất. Tôi đồng hóa mình với bộ phim này, trong đó có nói đến thánh Phanxicô một cách ám tàng. Tôi cũng tin là mình đã xem tất cả những bộ phim Ý có sự đóng góp của Anna Magnani và Aldo Fabrizi khi tôi độ khoảng 10 đến 12 tuổi. Một bộ phim khác mà tôi cũng rất thích là ‘Roma, città aperta’ [Rôma, thành phố rộng mở]. Tôi có được nền văn hóa phim ảnh này trước hết là nhờ bố mẹ tôi, bố mẹ hay dẫn chúng tôi đến rạp.

“Dù sao đi nữa, cách chung, tôi yêu thích các nghệ sĩ bi kịch, đặc biệt là những nghệ sĩ cổ điển. Có một định nghĩa mà Cervantes đã đặt trên môi miệng của Carrasco để ca ngợi chuyện Đon Qui-khốt: ‘Trẻ em có nó trong tay, giới trẻ đọc nó, người lớn hiểu nó, người già khen nó.’ Với tôi, đây có thể có một định nghĩa hay về văn chương cổ điển.”

Tôi hỏi Đức Thánh Cha về việc dạy văn chương cho các học sinh trường trung học của ngài.

“Có phần hơi liều lĩnh”, ngài trả lời. “Tôi phải đảm bảo là các học sinh của tôi đọc El Cid. Nhưng các cậu học sinh lại chẳng thích nó. Họ muốn đọc Garcia Lorca. Thế rồi, tôi quyết định là họ phải tìm hiểu El Cid ở nhà còn trên lớp thì tôi sẽ dạy về những tác giả mà họ thích. Dĩ nhiên, giới trẻ thì thích đọc những tác phẩm văn chương “hấp dẫn” hơn như tác phẩm đương thời La Casada Infiel hay cổ điển như La Celestina, của Fernando de Rojas. Nhưng nhờ đọc những tác phẩm hấp dẫn họ lúc đó, họ bắt đầu thích thú với văn chương, thi ca nói chung, và tiếp tục đi đến những tác giả khác. Và đó đã là một kinh nghiệm to lớn của tôi. Tôi đã hoàn thành chương trình nhưng theo một cách thức vô cấu trúc – nghĩa là, không được sắp xếp theo những gì đã dự trù trước, mà lại theo một trình tự tự nhiên xảy đến qua việc đọc các tác giả này. Cách thức này rất phù hợp với tôi: tôi không thích có một chương trình cứng ngắc, nhưng cốt sao biết mình có thể hơn kém đi tới đâu. Rồi tôi cũng bắt đầu cho họ viết. Cuối cùng, tôi quyết định gửi cho Borges đọc hai câu chuyện do hai cậu học sinh của tôi viết. Tôi biết vị thư ký của ông này, vì bà đã từng là cô giáo dạy tôi đánh dương cầm. Borges rất thích những câu chuyện này. Rồi ông ta bắt đầu viết lời giới thiệu cho một bộ sưu tập những bài viết này.”

“Thế thì, thưa Đức Thánh Cha, sự sáng tạo có phải rất quan trọng trong cuộc sống của con người không?” Tôi hỏi. Ngài cười và trả lời: “Đối với một Giê-su hữu, nó cực kỳ quan trọng! Một Giê-su hữu phải có sự sáng tạo.”



- Tài liệu chuẩn bị Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của Thượng Hội đồng Giám mục (5 – 19/10/2014) :

Hồi đầu tháng 10/2013, Đức Thánh Cha Phanxicô công bố sẽ triệu tập Đại hội chung ngoại thường lần thứ ba của Thượng Hội đồng Giám mục tại Roma từ ngày 05 đến ngày 19/10/2014, về chủ đề “Các thách đố mục vụ về gia đình trong bối cảnh của công cuộc loan báo Tin Mừng”.

Để chuẩn bị cho Đại hội này, Đức Tổng giám mục Lorenzo Baldisseri, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, đã gửi đến các Hội đồng Giám mục trên thế giới một Tài liệu chuẩn bị, trình bày những suy tư căn bản, kèm theo Bản Câu hỏi, mời gọi các Giáo Hội địa phương đóng góp ý kiến. Theo yêu cầu của Đức Tổng giám mục Baldisseri, các Giáo Hội địa phương phải gửi bản góp ý của mình về cho Roma chậm nhất là cuối tháng 1/2014.

Sau đây xin giới thiệu Tài liệu chuẩn bị nói trên, do Văn phòng Thư ký Hội đồng Giám mục chuyển ngữ.



THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

ĐẠI HỘI NGOẠI THƯỜNG LẦN THỨ BA

CÁC THÁCH ĐỐ MỤC VỤ VỀ GIA ĐÌNH

TRONG BỐI CẢNH CỦA CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG

TÀI LIỆU CHUẨN BỊ - VATICAN

2013

Каталог: sites -> default -> files -> Files -> 2013
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 2 MÙa vọng năm a : Lời Chúa
2013 -> GIÁo xứ TÂn trang nhà thờ thánh giuse
2013 -> BẢn tin hằng tuần số 28/2013 (Chúa Nhật 14/7/2013)
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhật chúa ba ngôi năm c
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 34 thưỜng niên năm c : LỄ chúa giêsu kitô vua vũ trụ Lời Chúa
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 4 MÙa vọng năm a : Lời Chúa
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 5 phục sinh năm c
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 17 thưỜng niên năm c
2013 -> I- suy niệm tin mừng chúa nhậT 6 phục sinh năm c
2013 -> BẢn tin hằng tuần số 22/2013 (Chúa Nhật 02/6/2013)

tải về 1.13 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương