không nâng cao tiền công lao động trên mức thực tế”
16
. “Các thương gia và nhà sản xuất có
14
Not only the prejudices of the public, but what is much more unconquerable, the private interests of many
individuals, irresistibly oppose it [freedom of trade].
15
“the sophistry of merchants and manufacturers who are always demanding a monopoly against their
countrymen.”
16
“Masters are always and every where in a sort of tacit, but constant and uniform combination not to raise
the wages of labour above their actual rate”.
Học thuyết doanh nghiệp
40
thói quen, một cách rõ ràng rằng: họ hiếm khi gặp nhau, kể cả trong những lúc vui chơi giải
trí, nhưng kết thúc các cuộc đàm luận đều là một âm mưu chống lại công chúng, hoặc trong
một số điều kiện là sự tăng lên của giá cả”
17
(Smith, 1976). Những âm mưu định giá này của
các thương gia và các nhà sản xuất, mặc dù bất hợp pháp ở hầu hết các quốc gia, nhưng rất
khó kiểm soát và loại bỏ. Điển hình, trong công nghiệp dầu mỏ, “định giá dường như là cách
sống của Big Oil”
18
(Clinard, 1952, trang 39). Ngày nay, các thoả thuận ngầm, chủ yếu về giá
cả, đã trở nên phổ biến và được phân tích trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu; trong đó, các nhà
nghiên cứu Marketing đã chỉ ra rằng, nên tránh xa các cuộc chiến về giá.
4.2. Lợi nhuận
Trong kinh tế học, “lợi nhuận” là phần tài sản thu lại của nhà đầu tư trong quá trình đầu
tư, sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan, bao gồm cả chi phí cơ hội. Tính tư lợi thể hiện rõ
nhất khi các thương gia đầu tư để tối đa hoá lợi nhuận của họ. Tuy nhiên, chỉ khi các doanh
nhân đầu tư vào đất nước của họ thì doanh thu mới tối đa hóa, theo thuyết bàn tay vô hình
(Smith, 1976). Từ đó, ông cho rằng các quốc gia nên hạn chế đầu tư vào các ngành kinh tế
trong nước. Thứ nhất, vì “ngành công nghiệp phục vụ xã hội (ví dụ như một quốc gia) luôn
phát triển tỉ lệ thuận với sự gia tăng của vốn”
19
. Khi hạn chế đầu tư vào một ngành cụ thể, các
quốc gia có khả năng tối đa hoá tổng doanh thu nội địa của ngành đó. Thứ hai, vì bàn tay vô
hình chỉ có thể thực hiện tối đa chức năng của nó trong thị trường tự do về hàng hoá, vốn, lao
động, và không có thị trường quốc tế.
Câu hỏi đặt ra ở đây là ưu tiên lợi ích quốc gia hay lợi ích nhân loại trong đầu tư nước
ngoài. Thực tế, bàn tay vô hình không hoạt động hiệu quả nếu không tồn tại thị trường tự do
quốc tế, nếu có, giới hạn trong một quốc gia cần được áp dụng cho thị trường tự do mở rộng
phi biên giới. Theo Smith (1976), hạn chế trong một quốc gia thực chất là sự hạn chế về đầu
tư vào cùng một khu vực thị trường tự do, nếu hiểu rộng ra trên thị trường quốc tế, sẽ là thị
trường tự do mở rộng.
4.3. Cạnh tranh và Độc quyền
Trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán
và sản xuất ra sản phẩm mà không có hàng hóa nào thay thế. Đây là một trong những trường
hợp khiếm khuyết của thị trường (market failure), trạng thái cực đoan khi thị trường thiếu
tính cạnh tranh, gây ra mâu thuẫn giữa lợi ích chung của xã hội và tư lợi của các thương
17
“merchants and manufacturers have a habit of doing this is clear: People of the same trade seldom meet
together even for merriment or diversion, but the conversation ends in a conspiracy against the publick, or in
some contrivance to raise prices”.
18
“Pricefixing appears to be Big Oil's way of life.”
19
“the industry of the society [ie. nation] can augment only in proportion as its capital augments”.
Chương 1. Thuyết bàn tay vô hình
41
nhân và/hoặc nhà sản xuất. Do đó, thuyết bán tay vô hình đả kích thái độ theo đuổi độc
quyền, trừ những trường hợp cạnh tranh không hoạt động hay không thể loại trừ (như đối
với các dịch vụ công).
Độc quyền có thể được tạo ra theo nhiều cách khác nhau, ví dụ khi chính phủ cấp quyền
kinh doanh, khai thác tài nguyên… cho một doanh nghiệp nào đó; hoặc ban hành thuế, hạn
ngạch và các lệnh cấm thương mại cũng tạo lợi thế độc quyền cho các thương gia địa phương
trên thị trường nội địa… Bên cạnh đó, cũng có những phương thức kinh doanh tạo ra độc
quyền bằng quyền lực thị trường, mặc dù có thể không phải bất hợp pháp nhưng cũng đáng bị
lên án về đạo đức khi không mang đến lợi ích tốt nhất cho toàn xã hội. Ví dụ khi một doanh
nghiệp mở rộng và đạt quy mô đủ lớn có thể điều khiển thị trường, hay “mua lại đối thủ cạnh
tranh”, hay các hình thức cạnh tranh phi giá; hoặc thông qua chất lượng dịch vụ, khả năng
phân phối rộng rãi hay tập trung vào khách hàng, hay bất kỳ lợi thế cạnh tranh bền vững nào
ngoài giá cả. Ngoài ra, kiểm soát công nghệ và tiêu chuẩn được sử dụng trong ngành công
nghiệp máy tính cũng có thể được coi là cách để hình thành lên cạnh tranh phi giá.
Các doanh nghiệp, đặc biệt các tập đoàn lớn, thường có xu hướng cạnh tranh phi giá,
mặc dù phát sinh chi phí bổ sung, nhưng cho phép thu lợi từ bán hàng với giá thấp hơn, và
tránh được rủi ro giá cả trên thị trường. Hiện nay, xuất hiện các hình thức cạnh tranh phi giá
khác, điển hình là các hoạt động vận động hành lang “lobbying”. Đây là các hành vi cố gây
ảnh hưởng đến các hành động, chính sách, hoặc quyết định của cán bộ trong cuộc sống hàng
ngày, thường là các nhà lập pháp hoặc các thành viên của cơ quan quản lý. Ví dụ như các hoạt
động vận động chính phủ cho ra các rào cản thương mại, các khoản thuế, trợ cấp, trợ cấp phát
triển, cứu trợ, trợ cấp xuất khẩu và bảo đảm khoản vay…. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp
thực hiện các họat động vận động hành lang như trên thường gặp nhiều thuận lợi nhiều hơn
trên thị trường cạnh tranh khi theo đuổi lợi ích của họ.
KẾT LUẬN
Thuyết “Bàn tay vô hình” là lý luận đầu tiên về cơ chế kinh tế thị trường và sự vận hành
của nền kinh tế, chế ngự nền kinh tế thế giới trong suốt thể kỉ XIX. Theo Adam Smith (1976),
chính quyền mỗi quốc gia không cần can thiệp sâu vào hoạt động của các cá nhân và doanh
nghiệp, vốn có thể tự vận động trong thị trường. Trong nền kinh tế thị trường tự do, động lực
cải thiện điều kiện kinh tế và xã hội của mỗi cá nhân sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung
của của xã hội. Tuy nhiên, Smith (1976) cho rằng, việc theo đuổi tư lợi trên quy mô rộng lớn
của các doanh nhân có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chung, đến sự phát triển của cả
quốc gia. Cụ thể, thuyết bàn tay vô hình giải thích các chiến lược và quy luật áp dụng trong
kinh doanh, như trong đầu tư vốn để thu lại lợi nhuận tối đa từ “sự áp bức” trên cơ sở độc
Học thuyết doanh nghiệp
42
quyền trong hàng hóa, sự kiểm soát giá cả thi trường và khả năng ràng buộc các tổ chức lao
động. Theo Smith (1976), tất cả các vận động tư lợi với chính quyền của các thương gia và
nhà sản xuất đều là những nỗ lực nhằm lừa gạt và áp bức xã hội. Ví dụ, nếu các thương gia
theo đuổi tư lợi thao túng chính trị, họ sẽ chỉ tìm cách lật đổ thị trường tự do vì tư lợi của
mình và những người liên quan.
Một cách khái quát, trong chương này, chúng tôi đã trình bày học thuyết bàn tay vô hình
của Smith (1976): từ bối cảnh lịch sử hình thành, phát triển và ứng dụng có giá trị hiện nay.
Lý thuyết đã tổng hợp, giải thích các vấn đề về tự do thương mại, lợi nhuận, độc quyền, cạnh
tranh gắn với tư lợi của các thương gia, nhà sản xuất đến sự phát triển kinh tế của một quốc
gia. Trong bối cảnh hiện nay, thuyết bàn tay vô hình bộc lộ một số hạn chế, vì vậy, các cá
nhân, tổ chức nói chung và các doanh nghiệp nói riêng cần nghiên cứu chi tiết, đồng thời áp
dụng thuyết bàn tay vô hình phù hợp tới tình hình kinh doanh và thực trạng nền kinh tế.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |